Đức Chúa Jêsus là Đấng Mê-si

Ma-thi-ơ đặc biệt nhấn mạnh rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Mê-si mà các tiên tri Cựu Ước đã dự ngôn. Ông trưng dẫn Cựu Ước luôn luôn. Dường như tâm trí ông đặc biệt chăm chú vào các độc giả Do-thái.Mấy chữ "Nước Thiên đàng" thường dùng luôn, nên sách Tin Lành nầy hay được gọi là "Tin Lành của Nước." Dầu về đại cương, chớ không phải từng biến cố, sách nầy theo thứ tự niên đại tổng quát, song tài liệu lại sắp đặt theo đề mục. Sách nầy chép hoàn toàn đầy đủ các bài giảng của Đức Chúa Jêsus.Nhứt là Bài Giảng Trên Núi, bài giảng về sự tái lâm của Chúa và kỳ tận thế.

Ma-thi-ơ

Sách Tin Lành nầy không chỉ đích danh tác giả. Tuy nhiên, từ thời các Giáo phụ Hội Thánh đầu tiên, bắt đầu từ Papias (một môn đệ của sứ đồ Giăng) trở đi, người ta đã công nhận đây là tác phẩm của sứ đồ Ma-thi-ơ.

Chúng ta hầu như không biết gì về Ma-thi-ơ. Ông cũng có tên là Lê-vi. Tên ông có ghi trong 4 danh sách 12 Sứ đồ (Mat 10:2  Mac 3:18  Lu 6:15  Cong 1:13). Chỉ còn một lần nữa nói đến ông, tức là lúc Đức Chúa Jêsus kêu gọi ông theo Ngài (Mat 9:9-13  Mac 2:14-17  Lu 5:27-32).

Ma-thi-ơ chỉ nói một lần về chính mình ông, ấy là ông là nghề "thâu thuế," một danh từ nhục nhã. Nghề nầy chuyên thâu thuế cho chánh quyền La-mã, thường bóp nặn của dân và bị khinh dể.Lu-ca cho chúng ta hay rằng Ma-thi-ơ dọn đại tiệc thết Đức Chúa Jêsus, rồi "bỏ hết mọi sự, đứng dậy, đi theo Ngài" (Lu 5:28). Nhưng Ma-thi- ơ cũng chẳng vì đó mà tự nhận mình có ít nhiều giá trị. Ông hoàn toàn không thấy mình nữa trong khi thờ lạy Đấng Anh hùng của mình. Chúng ta quí mến Ma-thi-ơ vì ông có lòng khiêm nhường, tự xóa bỏ mình đi.

Chúng ta phải ngạc nhiên trước ân điển của Đức Chúa Trời đã lựa chọn một người như vậy làm tác giả quyển Tin Lành gọi là "Sách được đọc nhiều nhứt trên khắp thế giới."

Theo truyền thoại, thì Ma-thi-ơ giảng ở xứ Pa-lét-tin mấy năm, rồi đi ra ngoại quốc; ông đã viết sách Tin Lành trước hết bằng tiếng Hê-bơ-rơ, rồi mấy năm sau, khoảng năm 60 S.C., mới ra một bản hoàn bị hơn bằng tiếng Hi-lạp. Không có chép lời giảng của ông. Nhưng ông trứ tác sách nầy, thì đã phục vụ loài người biết bao!

Ông làm nghề thâu thuế, nên quen biên chép. Ông là thiết hữu của Đức Chúa Jêsus trong vòng 2 năm, hoặc hơn nữa. Ngày nay nhiều người có giả thuyết rằng Ma-thi-ơ đã "cóp" sách Tin Lành của Mác. Giả thuyết nầy không có gì chứng minh, và "ngay trên mặt nó" đã là phi lý. Không có gì chắc chắn rằng Mác đã quen biết Đức Chúa Jêsus (xem ở dưới Mac 1:1). Tại sao Ma-thi-ơ phải "cóp" của một người không mắt thấy,tai nghe những điều mà chính mắt ông đã thấy và tai ông đã nghe đi nghe lại nhiều lần?

Bốn Sách Tin-Lành

Về mọi phương diện, bốn sách Tin Lành là phần quan trọng nhứt của Kinh Thánh, -- quan trọng hơn mọi phần khác của Kinh Thánh hợp lại, quan trọng hơn tất cả sách vở của thế gian nầy hợp lại. Ấy vì chúng ta có thể không biết mọi sự khác, chớ không thể không biết Đấng Christ. Các sách Kinh Thánh ở trước 4 sách Tin Lành đã dự ngôn, còn các sách ở sau thì giải thích Vị Anh hùng của 4 sách Tin Lành.

Tại sao lại4? Trước hết, ta nên biết có nhiều sách hơn là con số 4. Đương thời ấy có sự hoạt động lớn lao về văn chương; ấy là thời đại của César, Cicéron, Salluste,Virgile, Horace, Sénèque, Livie, Tacile, Plutarque, và Pline. Có thể nói đó là "thời đại Elizabeth"(1) của đế quốc La-mã. Trong vòng một thế hệ, truyện tích Đức Chúa Jêsus đã truyền khắp thế giới mà người ta được biết thời đó, và thâu được hàng muôn vạn người tận tụy theo Ngài. Lẽ tự nhiên, cần có rất nhiều sách vở trần thuật đời sống của Ngài. Chính Đức Chúa Trời đã dự phần soạn thảo và gìn giữ bốn sách Tin Lành nầy; và chúng tôi tin rằng Ngài đã làm cho chúng chứa đựng người điều Ngài muốn ta biết về Đấng Christ.Trong Cựu Ước có một vài bản trần thuật hai lần. Nhưng trong cả Kinh Thánh, chỉ phần nầy có bốn sách luận về một Đấng. Vậy, tỏ ra Đấng nầy hệ trọng tuyệt đối.

Các tác giả.--Ma-thi-ơ vốn làm nghề thâu thuế. Lu-ca là thầy thuốc. Giăng làm nghề đánh cá.Không nói rõ Mác làm gì. Ma-thi-ơ và Giăng là đồng bạn của Đức Chúa Jêsus. Mác là đồng bạn của Phi-e-rơ. Sách Tin Lành của Mác chứa những điều ông đã nghe Phi-e-rơ thuật lại rất nhiều lần. Lu-ca là đồng bạn của Phao-lô. Sách Tin Lành của ông chứa những điều ông đã nghe Phao-lô kể từ đầu đến cuối đế quốc La-mã,và chính ông đã điều tra để minh xác. Phao-lô và Lu-ca cùng thuật một truyện tích. Hai ông đi khắp bốn phương, và thường đi cùng nhau. Giăng và Phi-e-rơ là hai đồng bạn thân thiết. Mác hợp tác với cả Phi-e-rơ và Phao-lô. Lu-ca và Mác cùng ở La-mã giữa năm 61 và 63 S.C, không xa lúc hai ông chép sách Tin Lành (Co 4:10-14).

Có lẽ các tác giả đã chép sách Tin Lành thành nhiều bản, hoặc một phần, hoặc trọn quyển, cho các chi hội hoặc cá nhân khác nhau. Có thể rằng hết thảy Sứ đồ và những bạn giúp việc họ từng hồi từng lúc, đã viết ra mọi điều họ rao giảng về Đức Chúa Jêsus cho các chi hội mà họ sáng lập hoặc thăm viếng. Nhưng bất cứ các tác phẩm ấy là gì, chắc phần nhiều đã tiêu mất trong những cuộc bắt bớ của đế quốc La-mã, nhằm ba thế kỷ đầu tiên,trừ ra các tác phẩm ta có trong Tân Ước mà do thiên cơ của Ngài, Đức Chúa Trời đã canh giữ và bảo vệ, kể đó là đủ truyền Lời Ngài cho mọi thế hệ trong tương lai.

Xem thêm ở dưới  Mac 1:1  Lu 1:1; và Gi 1:1-51.

Mat 1:1-17

 Gia hệ của Đức Chúa Jêsus

Gia hệ nầy cũng có chép ở  Lu 3:23-28.Sự ngự đến của Đấng Christ đã được dự liệu chẳng những từ cõi đời đời ở trên trời,song cũng từ lúc khởi thủy của lịch sử trên trái đất.

Trong đời thái cổ, Đức Chúa Trời đã chọn một gia tộc đặc biệt, tức là gia tộc Áp-ra-ham; về sau, Ngài lại chọn một gia tộc khác, thuộc trong dòng dõi Áp-ra-ham, tức là gia tộc Đa-vít, làm môi giới do đó Con Ngài sẽ ngự vào thế giới nầy. Quốc gia Hê-bơ-rơ đã được thành lập và được Đức Chúa Trời che chở trải qua các thời đại, để bảo tồn huyết thống của gia tộc ấy.

Gia hệ trong sách Ma-thi-ơ đã được rút ngắn, bỏ sót vài tên, nhưng chẳng vì đó mà huyết thống nầy thành vô giá trị. 42 thế hệ gồm 2000 năm. Chia ra làm ba phần, mỗi phần 14 thế hệ, có lẽ để cho dễ nhớ: Phần thứ nhứt gồm 1000 năm, phần thứ hai gồm 400 năm, phần thứ ba gồm 600 năm. 3 nhóm, mỗi nhóm có 14 người. 14 là 2 lần 7; 3 và 7 là hai con số thánh.

Tuy nhiên, nhóm thứ ba chỉ nêu tên 13 thế hệ; rõ ràng lắm, thế hệ thứ 14 định dành cho Ma-ri.

Gia hệ chép trong sách Lu-ca hơi khác.Ma-thi-ơ đi ngược lại tới Áp-ra-ham, còn Lu-ca đi ngược lại tới A-đam. Ma-thi-ơ từ trên xuống dưới -- "sanh;" còn Lu-ca đi từ dưới lên trên --"con."

Từ Đa-vít trở đi, thì có hai huyết thống đặc biệt, riêng rẽ, chỉ hợp nhất trong Sa-la-thi-ên và Sô-rô-ba-bên.

Quan điểm được mọi người thừa nhận là Ma-thi-ơ trình bày tông tộc của Giô-sép, tỏ ra Đức Chúa Jêsus là Đấng thừa kế hợp pháp các lời hứa ban cho Áp-ra-ham và Đa-vít, còn Lu-ca trình bày tông tộc của Ma-ri, tỏ ra huyết thống của Đức Chúa Jêsus, "theo xác thịt thì bởi dòng dõi Đa-vít sanh ra." Theo phong tục Do-thái, thì gia hệ của Ma-ri ở trong tên chồng bà. Giô-sép là "con Hê-li" (Lu 3:23, tức là "con rể"của Hê-li vậy. Hê-li là cha của Ma-ri, còn Gia-cốp là cha của Giô-sép.

Hai gia hệ nầy, dầu đối với chúng ta dường như khô khan, nhưng lại là "xương sống" của sử ký Cựu Ước. Hai gia hệ nầy được gìn giữ cẩn thận trải qua bao nhiêu thế kỷ đầy thăng trầm lịch sử, và chứa "một dòng dõi lưu truyền một lời hứa qua 4000 năm, -- là một thực sự vô song trong lịch sử."

So Sánh 4 Sách Tin-Lành Với Nhau

Bốn sách Tin Lành là bốn bản trần thuật song song về cùng Một Người, phần lớn kể lại những sự trạng giống nhau, song cũng có một vài điều khác nhau.

Chỉ có Ma-thi-ơ và Lu-ca thuật lại sự giáng sanh và thời thơ ấu của Đức Chúa Jêsus. Ma-thi-ơ và Mác chuyên chú vào chức vụ của Ngài tại xứ Ga-li-lê. Lu-ca là người xứ Pê-rê (Pérée), còn Giăng là người xứ Giu-đê. Giăng bỏ qua phần lớn chức vụ của Chúa ở xứ Ga-li-lê, và ghi chép những cuộc Ngài thăm viếng Giê-ru-sa-lem mà mấy tác giả kia bỏ qua. Mấy tác giả kia bỏ qua chức vụ của Ngài ở xứ Giu-đê, trừ ra tuần lễ cuối cùng mà cả bốn ông kể lại khá đầy đủ. Tuần lễ cuối cùng chiếm 1/3 sách Ma-thi-ơ, 1/4 sách Lu-ca và 1/2 sách Giăng. Giăng dành 7 đoạn (gần 1/3 sách của ông) cho ngày Chúa bị đóng đinh vào Thập tự giá , từ lúc mặt trời lặn hôm trước cho tới lúc mặt trời lặn hôm sau.

Ma-thi-ơ có 28 đoạn. Mác có 16 đoạn. Lu-ca có 24 đoạn. Giăng có 21 đoạn. Lu-ca chiếm nhiều trang nhứt và là sách nhiều chữ nhứt. Mác là sách ngắn nhứt.

 

Quan Sát So Sánh 4 Sách Tin Lành

 

Ma-thi-ơ

Mác

Lu-ca

Giăng

 

Sự thực hữu của Đức Chúa Jêsus trước khi thành nhục thể

     

Giăng 1:1-3

Sự giáng sanh và thời thơ ấu của Đức Chúa Jêsus

Ma-thi-ơ 1, 2;

 

Lu-ca 1, 2

 

Giăng Báp-tít

Ma-thi-ơ 3:1-12;

Mác 1:1-8;

Lu-ca 3:1-20;

Giăng
1:6-42

Đức Chúa Jêsus chịu phép báp-têm

Ma-thi-ơ 3:13-17;

Mác 1:9-11;

Lu-ca 3:21-22

 

Sự cám dỗ

Ma-thi-ơ 4:1-11;

Mác 1:12-13;

Lu-ca 4:1-13

 

Phép lạ đầu tiên

     

Giăng
2:1-11

Khoảng đầu chức vụ tại xứ Giu-đê (chừng 8 tháng)

     

Giăng
2:13 đến 4:3

Thăm viếng xứ Sa-ma-ri

     

Giăng 
4:4-42

Chức vụ tại xứ Ga-li-lê (chừng 2 năm)

Ma-thi-ơ 4:12 đến 19:1;

Mác 1:14 đến 10:1;

Lu-ca 4:14 đến 9:51;

Giăng 4:43-54; 6:1 đến 7:1

Thăm viếng thành Giê-ru-sa-lem

     

Giăng 5:1-47

Chức vụ tại xứ Pê-rê và khoảng đầu chức vụ tại xứ Giu-đê (chừng 4 tháng)

Ma-thi-ơ 19, 20;

Mác 10;

Lu-ca 9:51 đến 19:28;

Giăng 7:2 đến 11:57

Tuần lễ cuối cùng

Ma-thi-ơ 21 đến 27;

Mác 11 đến 15;

Lu-ca 19:29 đến 24:1;

Giăng 12 đến 19

Chức vụ sau khi sống lại

Ma-thi-ơ 28;

Mác 16;

Lu-ca 24;

Giăng 20 đến 21

Ma-thi-ơ

Mác

Lu-ca

Giăng

 

Sự thực hữu của Đức Chúa Jêsus trước khi thành nhục thể

     

Giăng 1:1-3

Sự giáng sanh và thời thơ ấu của Đức Chúa Jêsus

Ma-thi-ơ 1, 2;

 

Lu-ca 1, 2

 

Giăng Báp-tít

Ma-thi-ơ 3:1-12;

Mác 1:1-8;

Lu-ca 3:1-20;

Giăng
1:6-42

Đức Chúa Jêsus chịu phép báp-têm

Ma-thi-ơ 3:13-17;

Mác 1:9-11;

Lu-ca 3:21-22

 

Sự cám dỗ

Ma-thi-ơ 4:1-11;

Mác 1:12-13;

Lu-ca 4:1-13

 

Phép lạ đầu tiên

     

Giăng
2:1-11

Khoảng đầu chức vụ tại xứ Giu-đê (chừng 8 tháng)

     

Giăng
2:13 đến 4:3

Thăm viếng xứ Sa-ma-ri

     

Giăng 
4:4-42

Chức vụ tại xứ Ga-li-lê (chừng 2 năm)

Ma-thi-ơ 4:12 đến 19:1;

Mác 1:14 đến 10:1;

Lu-ca 4:14 đến 9:51;

Giăng 4:43-54; 6:1 đến 7:1

Thăm viếng thành Giê-ru-sa-lem

     

Giăng 5:1-47

Chức vụ tại xứ Pê-rê và khoảng đầu chức vụ tại xứ Giu-đê (chừng 4 tháng)

Ma-thi-ơ 19, 20;

Mác 10;

Lu-ca 9:51 đến 19:28;

Giăng 7:2 đến 11:57

Tuần lễ cuối cùng

Ma-thi-ơ 21 đến 27;

Mác 11 đến 15;

Lu-ca 19:29 đến 24:1;

Giăng 12 đến 19

Chức vụ sau khi sống lại

Ma-thi-ơ 28;

Mác 16;

Lu-ca 24;

Giăng 20 đến 21

 

Mat 1:18-25

 Sự giáng sanh của Đức Chúa Jêsus

Chỉ có Ma-thi-ơ và Lu-ca thuật lại sự giáng sanh và thời thơ ấu của Đức Chúa Jêsus, mỗi ông kể những biến cố khác nhau. Xem ở dưới  Lu 1:5-8.

Mat 1:18-24

 Báo tin cho Giô-sép

Trong ba tháng đầu, sau khi sứ giả thiên thượng đến thăm, thì Ma-ri đi tới nhà Ê-li-sa-bét. Khi nàng trở về Na-xa-rét và Giô-sép biết tình trạng của nàng, thì ông chắc đã đầy "kinh ngạc, bối rối và đau đớn thấm thía." Nhưng ông là người hiền đức, nên sẵn lòng che chở Ma-ri khỏi tình trạng mà ông dự đoán, tức là sự sỉ nhục công khai,hoặc tệ hại hơn nữa. Bấy giờ thiên sứ hiện đến cùng ông mà giải thích. Tuy nhiên, ông vẫn phải giữ sự bí mật của gia đình đó để tránh khỏi lời gièm pha,bêu xấu, vì không một ai chịu tin truyện của Ma-ri. Về sau, khi thần tánh của Đức Chúa Jêsus đã được chứng minh bởi các phép lạ và sự sống lại từ trong kẻ chết,bấy giờ Ma-ri có thể tự do nói ra sự bí mật thiên thượng của mình và sự thai dựng siêu nhiên của Con Trẻ. Về lời chú giải sự giáng sanh do nữ đồng trinh, xin xem ở dưới  Lu 1:26-38.

 

Giô-sép

Các sách Tin Lành ít nói về Giô-sép.Ông cùng Ma-ri đi đến Bết-lê-hem, và ở cùng bà khi Đức Chúa Jêsus sanh ra (Lu 2:4,16). Ông ở với Ma-ri lúc dâng Đức Chúa Jêsus tại Đền thờ (Lu 2:33). Ông dẫn Ma-ri và Đức Chúa Jêsus trốn qua Ai-cập, rồi trở về Na-xa-rét (Mat 2:13,19-23).Ông đưa Đức Chúa Jêsus lên Giê-ru-sa-lem năm Ngài 12 tuổi (Lu 2:43,51). Kinh Thánh chỉ còn nói thêm rằng ông làm nghề thợ mộc và là chủ một gia đình có rất ít là 7 con (Mat 13:55,56). Chắc ông là một người hiền đức, đáng làm gương mẫu,nên đã được Đức Chúa Trời chọn làm cha nuôi của Con Ngài. Người ta thường giả định rằng ông qua đời trước khi Đức Chúa Jêsus bắt đầu chức vụ công khai, mặc dầu lời lẽ ở  Mat 13:55 và  Gi 6:42 dường như ngụ ý rằng lúc đó ông còn sống. Dầu sao,ông chắc đã qua đời trước khi Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên cây Thập tự; bằng không, chắc Ngài chẳng có lý do giao mẹ Ngài cho Giăng săn sóc (Gi 19:26,27).

 

Ma-ri

Sau truyện tích Đức Chúa Jêsus giáng sanh và sau khi Ngài thăm viếng Giê-ru-sa- lem lúc 12 tuổi, thì Kinh Thánh ít chép về Ma-ri. Theo cách thường giải thích sách  Mat 13:55-56, thì ngoài Đức Chúa Jêsus ra, bà còn sanh hạ rất ít là 6 con nữa. Theo lời đề nghị của bà, Đức Chúa Jêsus đã làm phép lạ thứ nhứt tại Ca-na, tức là biến nước thành rượu (Gi 2:1-11). Về sau, Kinh Thánh chép rằng bà toan rẽ đám đông mà đến gần Ngài (Mat 12:46  Mac 3:31  Lu 8:19). Trong trường hợp nầy, lời Đức Chúa Jêsus phán tỏ rõ rằng mối liên lạc gia đình của bà với Ngài chẳng ban cho bà một ưu thế thiêng liêng đặc biệt nào cả. Bà có mặt lúc Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên Thập tự giá, và Ngài đã phó thác bà cho Giăng phụng dưỡng (Gi 19:25-27). Kinh Thánh không chép Đức Chúa Jêsus hiện ra với bà sau khi Ngài sống lại, mặc dầu Ngài thật đã hiện ra với Ma-ri Ma-đơ-len. Kinh Thánh chép lần chót về bà Ma-ri ở sách Cong 1:14, lúc bà hiệp với các môn đồ mà cầu nguyện. Đó là mọi điều Kinh Thánh đã nói về bà Ma-ri. Nói về các bậc phụ nữ có mặt trong đời sống công khai của Đức Chúa Jêsus, thì Ma-ri Ma-đơ-len dường như đã đóng vai quan trọng bội phần hơn mẹ của Đức Chúa Jêsus (Mat 27:56,61  28:1  Mac 15:40,47  16:9  Lu 8:2  24:10  Gi 19:25  20:1-18). Xem chú giải ở dưới  Lu 8:1-3.

Ma-ri là một bậc phụ nữ trầm tĩnh, hay suy gẫm, sùng đạo, khôn ngoan, được tôn trọng hơn hết; bà là nữ hoàng của các người mẹ, và đã chịu những nỗi lo âu thông thường của kẻ làm mẹ. Chúng ta ngưỡng mộ, tôn trọng bà, và kính mến bà vì bà đã sanh ra Cứu Chúa của chúng ta. Nhưng chúng ta không cầu nguyện bà. Chúng tôi nghĩ rằng người ta thường không tán thành việc Giáo hội Công giáo tôn bà Ma-ri làm thần, nên giới tín đồ không phải Công giáo chẳng tỏ lòng tôn trọng bà một cách thích đáng. Chúng tôi ngờ rằng chính bà Ma-ri ở Thiên đàng, dầu tự hào đời đời vì đã được làm mẹ của Cứu Chúa,song cũng không khỏi sững sốt, buồn rầu vì người ta đã tạc hình tượng bà lên mà thờ lạy.

Ai là "anh em" và "chị em" của Đức Chúa Jêsus, đã ghi chép ở  Mat 13:55-56 và  Mac 6:3? Có phải là con cái do Ma-ri sanh ra chăng? Hay là con cái đời vợ trước của Giô-sép? Hay là anh chị em họ? Ý nghĩa rõ ràng, đơn sơ và tự nhiên của những khúc sách nầy là họ chính là con cái do Ma-ri sanh ra. Đó là ý kiến thông thường của các nhà bình luận Kinh Thánh trong Hội Thánh Tin Lành. Vả, ý kiến nầy được chứng minh bởi lời chép ở  Lu 2:7 rằng Ma-ri "sanh con Trai ĐẦU LÒNG." Tại sao lại gọi là đầu lòng, nếu chẳng có con cái nào khác?

Chúng tôi ngờ rằng nếu không phải muốn tôn sự độc thân làm một hình thức sanh hoạt thánh khiết hơn, thì người ta đã chẳng gán cho những khúc sách nầy một ý nghĩa khác. Giáo lý về Ma-ri "đồng trinh trọn đời" (nghĩa là bà cứ ở đồng trinh mãi, và không sanh con cái nào khác) đã xuất hiện lần đầu tiên nhằm thế kỷ thứ hai, trong những ngụ ngôn và tưởng tượng của các sách vở liên quan đến những ý niệm giáo lý rằng ở độc thân thì thánh khiết hơn. Sau đó người ta lại đặt truyện "thân thể không tì vít và quí báu của bà" được biến hóa mà cất lên trời. Sự thờ phượng "Nữ đồng trinh thánh" càng ngày càng thêm, cho đến năm 1854, thì Giáo hoàng Pie IX thi hành đặc quyền cho phép Giáo hoàng tạo ra những thực sự lịch sử, bèn ra sắc lịnh tuyên bố Ma-ri "được hoài thai tinh khiết" (nghĩa là bà vô tội,sanh ra và được giữ gìn "khỏi mọi tì tích của nguyên tội").

Về sự "đồng trinh trọn đời" của Ma-ri, thì ta sẽ nói chi về  Mat 1:25? Lời chép rằng Giô-sép "không hề ăn ở với bà cho đến khi người sanh một trai," há chẳng gồm ý rõ ràng, không sao lầm lẫn được, rằng ông thật đã "ăn ở với" bà, như chồng và vợ, sau khi Đức Chúa Jêsus sanh ra, sao? Lại nữa, câu: "Chưa ăn ở cùng nhau" (Mat 1:18) há chẳng gồm ý rằng về sau họ thật có "ăn ở cùng nhau," sao? Hơn nữa, phải chăng có lý rằng Giô-sép và Ma-ri chỉ giả làm vợ chồng, và thật ra cuộc hôn nhân bề ngoài của họ chỉ là công khai giả mạo? Họ cố che giấu sự đồng trinh ở dưới đời sống gia đình chăng? Ta có thể nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã dự phần vào sự dối gạt và giả hình dường ấy, chăng? Hơn nữa, sự đồng trinh có phải là thánh khiết hơn địa vị làm mẹ chăng?

Còn thuyết "anh em họ" và "anh em nuôi," chỉ là phỏng đoán, không căn cứ trên ngữ học hoặc Kinh Thánh chi hết. Thuyết nầy chỉ đặt ra để binh vực giáo lý Ma-ri "đồng trinh trọn đời," và dùng giáo lý nầy làm bối cảnh mà tôn giới thầy cả tự nhận là độc thân lên trên thường nhân.

Mat 2:1-2

 Các bác sĩ tới thăm

Việc nầy chắc đã xảy ra giữa khoảng Đức Chúa Jêsus được 40 ngày và lên 2 tuổi (Mat 2:16  Lu 2:23,39). Hai tuổi nầy dường như chỉ tỏ lúc ngôi sao hiện ra lần đầu tiên (câu 7) để thúc đẩy họ lên đường trong một hành trình kéo dài mấy tháng, chớ không phải là định đúng lúc hài nhi sanh ra. Nhưng Hê-rốt muốn chắc chắn, nên đã lấy thời hạn xa nhứt. Ít ra Hài nhi cũng không còn ở trong máng cỏ nữa, như các hình vẽ thường mô tả, nhưng Ngài đã ở trong "nhà" (câu 11). Xem ở  Lu 2:6-7.

Ba bác sĩ nầy đến từ Ba-by-lôn, hoặc từ xứ xa hơn, là nơi phát tích của loài người, tức là quê hương của Áp-ra-ham, nơi dân Do-thái bị lưu đày và nhiều người Do-thái còn cư ngụ. Ba bác sĩ nầy thuộc về hạng tri thức, và là cố vấn của vua chúa. Có lẽ họ biết Kinh Thánh của dân Do-thái và biết rằng dân ấy trông đợi một Đấng Mê-si ngự đến làm Vua. Ba-by-lôn là nơi Đa-ni-ên đã ở, và chắc họ có biết lời tiên tri của ông về 70 tuần lễ,cùng lời tiên tri của Ba-la-am về "một Ngôi Sao hiện ra từ Gia-cốp" (Dan 24:17). Họ là những người có địa vị cao, vì được phép vào triều kiến Hê-rốt.Người ta thường nói là có "ba bác sĩ," những Kinh Thánh không nói rõ là có bao nhiêu. Có lẽ có nhiều hơn, hoặc ít ra họ cũng có bọn tùy tòng tới vài trăm người, vì một nhóm ít ỏi du hành hàng ngàn dặm qua những đồng vắng hoang vu, giặc cướp nhan nhản, thì không được an ninh. Họ tới Giê-ru-sa-lem, tỏ ra có việc quan trọng, đủ làm cho cả thành xôn xao.

Sự thăm viếng của ba bác sĩ nhằm mục đích tượng trưng sự sùng kính của giới trí thức và của những xứ xa đối với VUA mới sanh ra, cùng kêu gọi dân Giê-ru-sa-lem chú ý rằng Ngài đã ngự đến. Nhưng cũng còn nhằm một mục đích nữa mà chính các bác sĩ không biết, ấy là cung cấp tiền bạc cho Hài nhi trốn qua Ai-cập. Cha mẹ vốn nghèo, và nếu chẳng nhờ số vàng của các bác sĩ dâng cho, thì gia đình Chúa không thể nào trốn thoát tay Hê-rốt.

 

Ngôi sao

Người ta tính rằng Mộc tinh (Jupiter)và Thổ tinh (Saturne) đã giao hội năm 6 T.C.. Nhưng điều nầy hầu như không thể cắt nghĩa tại sao "ngôi sao đi trước mặt họ cho đến chừng ngay trên chỗ Con Trẻ ở mới dừng lại" (câu 9). Có người tưởng có lẽ là một "tân tinh" (nova), tức là một ngôi sao nổ ra và cháy sáng trong một thời gian. Các nhà thiên văn cho chúng ta hay rằng trên Ngân hà, hằng năm có chừng 30 ngôi sao nổ ra như vậy, sáng rực gấp hơn 10.000 lần khi trước,rồi lại trở về mực sáng thường. Nhưng hiện tượng ấy làm thế nào tương ứng với trường hợp này được?

Chắc ngôi sao mà các bác sĩ thấy là một hiện tượng rõ rệt, một ánh sáng siêu nhiên do sự khải thị trực tiếp của Đức Chúa Trời mà đi trước mặt họ và chỉ vào đúng chỗ. Đó là sự báo cáo siêu nhiên về một sự giáng sanh siêu nhiên. Các bác sĩ là những nhà thiên văn và chiêm tinh.Đức Chúa Trời dùng cái gì ở trong phạm vi tư tưởng của họ để dẫn đưa họ đến Đấng họ đang tìm kiếm. Có lẽ khi họ trở về xứ sở và thuật lại điều mình được thấy,thì đã dọn đường để mấy chục năm sau, các Sứ đồ đến rao giảng Tin Lành, vì một vài vị đã đi tới Ba-by-lôn.

Mat 2:13-15

 Trốn qua Ai-cập

Ngay đến biến cố nầy cũng không tránh khỏi con mắt sáng suốt, không hề lầm lẫn của Đức Chúa Trời trong hàng dài những lời tiên tri về Đấng Mê-si (câu 15  Os 11:1). Vị thiên sứ (câu 13) truyền lịnh cho họ trốn qua Ai-cập có lẽ là Gáp-ri-ên mà Đức Chúa Trời đã giao cho nhiệm vụ chăm nom Hài nhi (xem ở dưới  Lu 2:8-20).

Họ ở Ai-cập không lâu, có lẽ chỉ 1 hoặc 2 năm thôi, vì chẳng bao lâu Hê-rốt đã chết, và họ có thể trở về bình an vô sự.Xem niên biểu thời thơ ấu của Đức Chúa Jêsus ở dưới  2:39.

Không chỉ rõ tại Ai-cập, Giô-sép, Ma-ri và Hài nhi đã ở nơi nào. Theo truyền khẩu, thì gia đình Giô-sép ngụ tại thành Ôn, cũng gọi là Héliopolis. Đây cũng là nơi mà một Giô-sép khác đã cai trị nước Ai-cập từ bao nhiêu thế kỷ trước (Sa 41:45). Một tiêm bi dựng từ thời Áp-ra-ham, vẫn còn đó và đánh dấu vùng di tích.

Mat 2:16-18

 Tàn sát con trẻ

Khá kỳ lạ thay! Một người tin rằng Đấng Christ ngự đến (câu 4) mà lại có thể tự kiêu và ngu dại đến nỗi tưởng ngăn trở được sự ngự đến của Ngài!

 

Hê rốt

Nhà Hê-rốt là một triều vua gốc ở xứ Ê-đôm, dưới quyền đô hộ của người La-mã, họ đã được cai trị xứ Giu-đê trước khi Đấng Christ xuất hiện ít lâu. Hê-rốt đại vương (37-3 T.C.) đã đoạt được và giữ lấy ngôi bởi những hành động tàn bạo khôn tả xiết, thậm chí ông đã giết cả vợ và hai con trai. Ông là người hung ác, quỉ quyệt và vô tình. Chính ông đã giết những con trẻ ở Bết-lê-hem vì toan hạ sát Đấng Christ.

Chừng 33 năm sau, con trai ông, là Hê-rốt Antipas, giết Giăng Báp-tít (Mac 6:14-29), và chế nhạo Đấng Christ (Lu 23:7-12).

14 năm sau nữa, cháu nội ông, là Hê-rốt Ạc-ríp-ba I giết Sứ đồ Gia-cơ (Cong 12:1-12).

16 năm nữa, chắt nội ông, là vua Hê-rốt Ạc-ríp-ba II, đã xét xử Phao-lô (25:13-26:32).

Mat 2:19-21

 Từ Ai-cập hồi hương

Việc nầy cũng do một thiên sứ truyền bảo.Do câu 22, dường như Giô-sép định trở về Bết-lê-hem. Có lẽ ông toan định như vậy vì muốn chọn Bết-lê-hem, quê hương của tổ phụ Đa-vít, làm nơi cư trú vĩnh viễn và nơi thích hợp để dưỡng dục Đấng Mê-si còn thơ ấu. Nhưng Đức Chúa Trời có kế hoạch khác, nên đã bảo họ trở về xứ Ga-li-lê.

Các Danh hiệu của Đức Chúa Jêsus

Cựu Ước đã dự ngôn sự ngự đến của một Vua oai hùng, lạ lùng, thuộc trong gia tộc Đa-vít, và Ngài sẽ cai trị cùng ban phước cho cả thế giới. Lâu lắm trước khi xuất hiện, Vua ấy đã được đặt tên là "Đấng Mê-si" (tiếng Hê-bơ-rơ), hoặc "Đấng CHRIST"(tiếng Hi-lạp). Hai chữ nầy cùng có nghĩa là: "Chịu xức dầu." Vậy,Ngài là Đấng mà Đức Chúa Trời xức dầu cho để làm giữa thế giới công việc mà các tiên tri đã nói đến. "JÊSUS" là Danh hiệu riêng của Ngài, còn "Đấng Mê-si" hoặc "Đấng Christ" là Danh hiệu tỏ ra chức vụ mà Ngài đã ngự đến để gánh vác.

Mat 2:22-23

 Trở về Na-xa-rét

Ma-thi-ơ không chép rằng Na-xa-rét vốn là nơi cư ngụ của Giô-sép và Ma-ri. Chúng ta nhờ Lu-ca mới biết điều đó.

Điều mà Ma-thi-ơ đặc biệt nêu lên, ấy là sự trở về Na-xa-rét đã làm ứng nghiệm một lời tiên tri.

Lời tiên tri mà Ma-thi-ơ trưng dẫn ở đây thì người ta cho là  Es 11:1, tại đó Đấng Mê-si được gọi là "Nhánh," (cũng xem  Gie 23:5 và  Xa 3:8). Trong tiếng Hê-bơ-rơ, chữ "Nhánh" gần giống như chữ "Na-xa-rét." Đây là một lời song quan (jeu de mots). Đức Chúa Jêsus "là người Na-xa-rét" theo hai ý nghĩa.

Vì Ma-thi-ơ hay trưng dẫn Cựu Ước, tỏ ra ông có khuynh hướng "ráp" các biến cố và đặc điểm của đời sống Đấng Christ vào các lời tiên tri, nên đây là chỗ rất tốt cho chúng ta liệt kê những lời tiên tri Cựu Ước được trưng dẫn trong 4 sách Tin Lành , nhứt là trong sách Tin Lành Ma-thi-ơ, có liên quan đến Đấng Christ. Phần nhiều lời tiên tri ấy hoàn toàn rõ ràng chỉ về Đấng Mê-si. Có một vài lời tiên tri mà chúng ta không thể giải thích như vậy, trừ ra nó đã được các tác giả (do Chúa soi dẫn) trưng dẫn theo ý nghĩa như vậy. Tuy nhiên, đối với chúng ta, thì ta hoàn toàn hài lòng về cách Tân Ước giải thích các đoạn Cựu Ước. Ấy vì lời giải thích Tân Ước đã ghi ý nghĩa Đức Chúa Trời đã định dành cho các đoạn Cựu Ước.

 

Những Lời Tiên Tri Cựu Ước Về Đấng CHRIST đượcTrưng Dẫn Trong Bốn Sách Tin Lành

Rằng Ngài sẽ thuộc về gia tộc Đa-vít (Mat 22:24  Mac 12:36  Lu 1:69,70  20:42-44  Gi 7:42  IISa 7:12-16  Thi 89:3,4  110:1  132:11  Es 9:6-7  11:1).

Rằng Ngài sẽ sanh ra bởi nữ đồng trinh (Mat 1:23  Es 7:14).

Rằng Ngài sẽ sanh tại Bết-lê-hem (Mat 2:6  Gi 7:42  Mi 5:2).

Rằng Ngài sẽ kiều ngụ tại Ai-cập (Mat 2:15  Os 11:1).

Rằng Ngài sẽ ở xứ Ga-li-lê (Mat 4:15  Es 9:1-2).

Rằng Ngài sẽ ở thành Na-xa-rét (Mat 2:23  Es 11:1).

Rằng sự ngự đến của Ngài sẽ được báo cáo bởi một sứ giả giống như Ê-li (Mat 3:3  11:10-14  Mac 1:2-3  Lu 3:4-6  7:27  Gi 1:23  Es 40:3-5  Ma 3:1; 4:5;).

Rằng sự ngự đến của Ngài sẽ gây cho con trẻ thành Bết-lê-hem bị tàn sát (Mat 2:18  Sa 35:19-20  48:7  Gie 31:15).

Rằng Ngài sẽ rao một năm hân hỉ cho thế giới (Lu 4:18-19  Es 58:6; 61:1;).

Rằng Ngài sẽ thi hành sứ mạng đối với các dân ngoại (Mat 12:18-21  Es 42:1-4).

Rằng Ngài sẽ thi hành chức vụ chữa bịnh (Mat 8:17  Es 53:4).

Rằng Ngài sẽ dạy dỗ bằng thí dụ (Mat 13:14,15,35  Es 6:9-10  Thi 78:2).

Rằng những kẻ cầm quyền không tin Ngài,ghen ghét và chối bỏ Ngài (Mat 15:8,9  21:42  Mac 7:6,7  12:10,11  Lu 20:17  Gi 12:38,40  15:25  Thi 69:4  118:22  Es 6:10  29:13  53:1)

Rằng Ngài sẽ ngự vào thành Giê-ru-sa-lem một cách khải hoàn (Mat 21:5  Gi 12:13-15  Es 62:11  Xa 9:9  Thi 118:26).

Rằng Ngài sẽ như một Người Chăn Chiên bị đánh (Mat 26:31  Mac 14:27  Xa 13:7).

Rằng Ngài sẽ bị một người bạn phản nộp vì 30 miếng bạc (Mat 27:9,10  Gi 13:18  17:12  Xa 11:12,13  Thi 41:9).

Rằng Ngài sẽ chết chung với bọn ác nhân (Lu 22:37  Es 53:9,12).

Rằng Ngài sẽ được người giàu an táng (Es 53:9  Mat 27:57-60). Lời tiên tri nầy không được trưng dẫn trong các sách Tin Lành.

Rằng người ta sẽ cho Ngài uống dấm và mật đắng (Mat 27:34  Gi 19:29  Thi 69:21).

Rằng chúng sẽ bắt thăm chia áo xống Ngài (Gi 19:24  Thi 22:18).

Cả lời Ngài phán khi hấp hối cũng được dự ngôn (Mat 27:46  Mac 15:34  Lu 23:46  Thi 22:1  31:5).

Rằng không một cái xương nào của Ngài sẽ bị gãy (Gi 19:36  Xu 12:46  Dan 9:12  Thi 34:20).

Rằng hông Ngài sẽ bị đâm lủng (Gi 19:37  Xa 12:10  Thi 22:16).

Rằng Ngài sẽ sống lại nhằm ngày thứ ba (Mat 12:40  Lu 24:46). Không trưng dẫn một câu đặc biệt nào về vấn đề nầy. Sách Cong 2:25-32 và  13:33-35 trưng dẫn  Thi 16:10-11 để chứng minh sự sống lại của Ngài từ trong kẻ chết. Đức Chúa Jêsus phán rằng có lời chép Ngài sẽ sống lại "ngày thứ ba" (Lu 24:46). Chắc Ngài đã nhớ đến mấy câu Kinh Thánh nầy: Os 6:2 và  Gion 1:17. Có lẽ Ngài cũng thấy cảnh tượng Y-sác được thoát khỏi sự chết nhằm ngày thứ ba (Sa 22:4). Mười Điều răn cũng được ban bố ngày thứ ba (Xu 19:16).

Rằng theo sau sự chối bỏ Ngài, thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị hủy phá và có cơn Đại nạn (Mat 24:15  Mac 13:14  Lu 21:20  Da 9:27  11:31  12:1,11).

Chính Đức Chúa Jêsus nhìn nhận rằng sự chết của Ngài sẽ làm ứng nghiệm Kinh Thánh (Mat 26:54,56).

Đây, một sự kiện lạ lùng: Cả truyện tích về đời sống của Đức Chúa Jêsus, nào các đặc điểm chính, nào các biến cố,nào các việc ngẫu nhiên kèm theo, thậm chí phần nhiều chi tiết nhỏ nhặt nhứt, đều đã được dự ngôn rõ ràng trong Cựu Ước! Đó há chẳng phải chứng cớ hiển nhiên rằng có một TÂM TRÍ thực tại và hoạt động, vượt quá tâm trí loài người, đến nỗi làm cho chúng ta phải kinh sợ, ngạc nhiên và hạ mình xuống, sao?

Mat 3:1-12

 Sự giảng dạy của Giăng Báp-tít

Xem thêm ở  Lu 3:1-12. Ma-thi-ơ đi từ sự dời khỏi Ai-cập mà hồi hương thẳng đến sự giảng dạy của Giăng Báp-tít, bỏ qua một thời gian gần 30 năm.

Mat 3:13-17

 Đức Chúa Jêsus chịu lễ báp-têm

Việc nầy cũng có chép ở  1:9-11 và  Lu 3:21-22. Trong cả ba đoạn tường thuật và ở  Gi 1:31-33, có những đặc điểm, là Đức Thánh Linh giáng xuống và tiếng phán từ trên trời. Theo  1:31-33, thì dường như Giăng báp-tít không biết Ngài. Nhưng  Mat 3:14 gồm ý rằng ông thật có biết Ngài. Chắc hẳn lúc còn thiếu niên, Đức Chúa Jêsus và Giăng Báp-tít đã quen biết nhau, vì hai gia đình có bà con (Lu 1:36), và hai bà mẹ đã ở cùng nhau 3 tháng ngay trước khi Đức Chúa Jêsus và Giăng Báp-tít sanh ra (Lu 1:39,56). Dường như chắc chắn rằng hai Thiếu niên đã được cha mẹ nói cho biết lời thiên sứ báo cáo liên quan đến sứ mạng của mình. Nhưng từ lúc Giăng Báp-tít rút lui để làm một người khổ tu trong đồng vắng (Lu 1:80), thì có lẽ ông không còn thấy Đức Chúa Jêsus cho đến ngày Ngài chịu lễ báp-têm. Lẽ tự nhiên, ông không nhận biết Người mà mình đã thấy lúc còn thiếu niên, cho đến khi Đức Chúa Trời chỉ Ngài ra. Bấy giờ, do chính thiên đàng xác nhận, Đức Chúa Jêsus được công khai xức dầu với tư cách Con Đức Chúa Trời, Đấng Mê-si của nước Do-thái và Cứu Chúa của thế gian.

 

Nơi Đức Chúa Jêsus chịu lễ báp-têm

Nơi Đức Chúa Trời đã lựa chọn để giới thiệu Đấng Mê-si với dân tộc Do-thái chính là hạ lưu sông Giô-đanh, tại chỗ hoặc gần chỗ nước rẽ ra cho Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên đi qua để vào xứ Ca-na-an.Giăng Báp-tít đã ở đây và bắt đầu công việc khơi lòng trông đợi của nhân dân.Chẳng bao lâu, mọi mắt chuyên chú vào ông và ai nấy tự hỏi chính ông có phải là Đấng Mê-si chăng? Bấy giờ dựa vào một sự phát hiện từ Thiên đàng, ông bèn tuyên bố Đức Chúa Jêsus là Đấng Mê-si. Chẳng bao lâu, tại chính miền nầy, phần đầu chức vụ của Đức Chúa Jêsus đã tiếp theo chức vụ của Giăng Báp-tít. Cũng tại đây, Đức Chúa Jêsus đã thi hành phần chót của chức vụ. Biết bao kỷ niệm sâu xa dồn lại ở đây! Ngay phía Đông, ở bìa thung lũng Giô-đanh, có những ngọn núi Nê-bô cao ngất,tại đó Môi-se được xem thấy Đất Hứa, và cũng tại đó, Đức Chúa Trời đã an táng ông. Cũng tại đó, khoảng giữa sông Giô-đanh và núi Nê-bô, các xe thiên thượng đã chở Ê-li đi họp mặt với Môi-se trong nơi vinh hiển. Cách 5 dặm về phía Tây, ở bìa thung lũng, là thành Giê-ri-cô mà chiến lũy đã đổ xuống khi tiếng kèn của Giô-suê vang dậy. Ngay trên Giê-ri-cô, chỗ khe Kê-rít chảy mau, các chim quạ đã nuôi sống Ê-li. Xa hơn chút nữa, trên chót dãy núi, là Bê-tên, tại đó,Áp-ra-ham đã lập một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va, và cũng tại đó, Gia-cốp đã thấy cái thang thiên thượng có các thiên sứ lên, xuống (Đức Chúa Jêsus đã nhắc đến truyện nầy khi trò chuyện với Na-tha-na-ên, ngay sau khi bị ma quỉ cám dỗ ở vùng lân cận ấy). Gần đó, về phía Nam, cũng trên dãy núi ấy, là Giê-ru-sa-lem,Thành Thánh, thành của Mên-chi-xê-đéc và Đa-vít, thủ đô của Đức Chúa Trời trong khi Ngài cố gắng cứu chuộc loài người. Ở phía Nam, bên kia Biển Chết, là đồng bằng,tại đó có di tích của Sô-đôm và Gô-mô-rơ.

 

045

Bản đồ số 45

 

Mat 4:1-10

 40 Ngày cám dỗ

Việc nầy cũng được chép ở  Lu 4:1-13 và chép rất vắn tắt ở  Mac 1:12-13. Đức Thánh Linh, Sa-tan (xem lời chú giải ở dưới Lu 4:1-13) và thiên sứ (xem lời chú giải ở dưới  Mat 4:11) đã dự phần trong sự Đức Chúa Jêsus bị cám dỗ. Đức Thánh Linh dắt dẫn Ngài và thiên sứ giúp đỡ Ngài đang khi Sa-tan nhiều lần toan kéo Ngài khỏi sứ mạng cứu chuộc loài người. Cả vũ trụ chú ý. Số phận của muôn loài thọ tạo sẽ được định đoạt. Nếu Đức Chúa Jêsus chịu nổi sự thử thách đầu tiên, thì đó là điềm Ngài sẽ thắng trận cuối cùng.

Chúng ta tự hỏi tại sao Đức Chúa Jêsus bị cám dỗ ngay sau khi chịu lễ báp-têm? Sự Đức Thánh Linh giáng xuống trên Ngài lúc đó có thể gồm hai điều mới mẻ trong sự từng trải của Đức Chúa Jêsus với tư cách một Người: Một là quyền năng để làm phép lạ không hạn chế; hai là hoàn toàn khôi phục sự tri thức mà Ngài có từ trước khi thành nhục thể.

Trong cõi đời đời, Đức Chúa Jêsus đã biết rằng Ngài đến thế gian để làm Chiên Con của Đức Chúa Trời, chịu đau thương vì tội lỗi loài người. Nhưng Ngài ngự đến như một Hài nhi. Phải chăng chúng ta sẽ giả định rằng khi còn là Hài nhi, Đức Chúa Jêsus cũng biết mọi điều mà Ngài đã biết trước khi chưa chịu lấy những sự hạn chế của thân thể loài người? Há chẳng tự nhiên hơn mà suy nghĩ rằng sự hiểu biết của Ngài trước khi thành nhục thể đã lần lần đến cùng Ngài theo mức Ngài lớn lên và được giáo dục như loài người? Lẽ tự nhiên, mẹ Ngài đã thuật cho Ngài biết trường hợp Ngài sanh ra. Ngài biết mình là Con Đức Chúa Trời và là Đấng Mê-si. Chắc hẳn Ngài và mẹ Ngài thường trò chuyện về kế hoạch và phương thức do đó Ngài sẽ làm công việc với tư cách Đấng Mê-si của thế giới. Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên Ngài "không chừng mực" (Gi 3:34) lúc Ngài chịu lễ báp-têm, thì lần thứ nhứt theo tư cách một Người, Ngài được biết đầy đủ, rõ ràng một vài điều mà Ngài đã biết trước khi thành Người.Trong số những điều ấy, có Thập Tự Giá, là con đường do đó Ngài làm trọn sứ mạng. Thập tự giá làm cho Ngài kinh ngạc, khiến Ngài không muốn ăn nữa, đưa Ngài đi xa những chỗ đông người; và suốt 40 ngày, Ngài ngạc nhiên trước Thập tự giá.

Tánh chất sự cám dỗ mà Ngài đã chịu là gì? Có lẽ nó gồm những sự cám dỗ thông thường của loài người khi họ tranh đấu lấy bánh ăn, và ham muốn danh tiếng, quyền thế. Nhưng còn hơn nữa. Đức Chúa Jêsus cao cả quá, đến nỗi ta không thể nghĩ rằng những cớ tích dường ấy có thể được Ngài coi trọng. Do các tiền tích và bối cảnh của Ngài, chúng ta phải tin rằng Ngài đã tự tạo một ước vọng thiết tha cứu chuộc thế giới. Ngài biết đó là sứ mạng của Ngài. Vấn đề nêu lên là: Làm trọn sứ mạng ấy thể nào? Bởi dùng quyền phép lạ lùng vừa mới ban cho mình -- quyền phép mà không một người nào trước kia từng biết, -- để ban bánh ăn cho loài người mà không cần họ phải làm việc, và để thắng những sức mạnh thông thường của cõi thiên nhiên, Ngài có thể tự tôn lên làm Bá chủ thế giới và lấy Cương Quyền bắt người ta làm theo ý chỉ Ngài. Đó là sự xui giục của Sa-tan. Nhưng sứ mạng của Đức Chúa Jêsus không phải là bắt loài người vâng phục, mà là thay đổi lòng họ.

Bổn chất sự cám dỗ mà Đức Chúa Jêsus phải chịu ấy là đạt tới mục đích bởi những phương pháp trần gian, chớ không bởi sự thương khó; là tạo ra kết quả thiêng liêng bởi phương thức trần gian. Điều Đức Chúa Jêsus không chịu làm, thì trải qua các đời, Hội Thánh đã làm, và ngày nay Hội Thánh còn làm nhiều lắm: Ấy là buông theo sự ham muốn quyền thế trần tục.

Ma quỉ thật có mặt ở đó chăng? Hay đó chỉ là một cuộc giao tranh trong tâm hồn? Kinh Thánh không cho ta biết ma quỉ hiện đến cùng Đức Chúa Jêsus dưới hình thức nào. Nhưng Đức Chúa Jêsus chắc đã nhận biết rằng các sự xui giục đó đến từ Sa-tan; nó có ở đó, quyết định và hết sức hăng hái cản trở sứ mạng của Ngài (xem bài chú giải về Sa-tan ở dưới  Lu 4:1-13).

Người ta cho rằng chỗ Đức Chúa Jêsus bị cám dỗ ở trên đỉnh trống trải và hoang vu của miền núi nhìn xuống Giê-ri-cô,bên trên khe Kê-rít, là nơi chim quạ đã nuôi sống Ê-li. Có lẽ xa xa trông thấy núi Gô-gô-tha, là nơi Ngài phải trải qua cơn thử thách sau cùng. Xem bản đồ số 45, ở dưới  Mat 3:13-17.

Đức Chúa Jêsus đã kiêng ăn 40 ngày (câu 2). Môi-se cũng đã kiêng ăn 40 ngày trên núi Si-na-i, trong dịp ban bố Mười Điều răn (Xu 34:28). Ê-li cũng đã kiêng ăn 40 ngày trên đường đi đến núi ấy (IVua 19:8). Môi-se đại diện cho Luật pháp, Ê-li đại diện các Tiên tri, còn Đức Chúa Jêsus là Đấng Mê-si mà Luật pháp và các Tiên tri đã đề cao. Đây là ba Vị Đại diện cao trọng của sự khải thị Đức Chúa Trời cho loài người. Từ đỉnh núi, là nơi Đức Chúa Jêsus kiêng ăn, nhìn về phía Đông ở bên kia sông Giô-đanh, Ngài có thể thấy dãy núi Nê-bô, là nơi Môi-se và Ê-li đã được cất lên tới Đức Chúa Trời từ bao nhiêu thế kỷ trước.

Chừng 3 năm sau, ba Vị đã gặp nhau giữa cảnh trạng vinh quang thiên thượng của Sự Hóa hình trên núi Hô-rếp (bản đồ số 48 -- xem ở dưới Mác 10), cách 100 dặm về phía Bắc. Từ núi Cám dỗ, ta có thể thấy rõ đỉnh núi Hô-rếp có tuyết phủ kín. Ba Vị là bạn cùng chịu thương khó, và sau là bạn cùng được vinh hiển.

Sau cơn cám dỗ, Đức Chúa Jêsus quay về sông Giô-đanh, là nơi Giăng Báp-tít đang làm lễ báp-têm cho dân chúng (xem lời chú giải ở  Gi 1:19-34).

Mat 4:11

 Các thiên sứ

Đây có chép rằng các thiên sứ hầu việc Đức Chúa Jêsus.

Các thiên sứ đóng một vai quan trọng trong đời Đức Chúa Jêsus

Một thiên sứ báo tin Giăng Báp-tít sắp sanh ra (Lu 1:11-17) và đặt tên cho ông (Lu 1:13).

Một thiên sứ báo tin cho Ma-ri rằng Đức Chúa Jêsus sắp sanh ra (Lu 1:26-37).

Một thiên sứ báo tin cho Giô-sép rằng Đức Chúa Jêsus sắp sanh ra (Mat 1:20-21) và đặt tên cho Ngài (Mat 1:21).

Các thiên sứ báo tin cho mấy gã chăn chiên biết Đức Chúa Jêsus giáng sanh (Lu 2:8-15), và hát ngợi khen Đức Chúa Trời (Lu 2:13-14).

Một thiên sứ truyền lịnh trốn qua Ai-cập,rồi truyền lịnh hồi hương (Mat 2:13,20).

Các thiên sứ hầu việc Đức Chúa Jêsus sau khi Ngài bị cám dỗ (Mat 4:11  Mac 1:13).

Một thiên sứ đến cùng Đức Chúa Jêsus lúc Ngài đau đớn vô cùng tại vườn Ghết-sê- ma-nê (Lu 22:43).

Một thiên sứ lăn vầng đá ở mộ phần Ngài (Mat 28:2), báo tin Ngài sống lại cho mấy bà biết (Mat 28:5-7), và giới thiệu Cứu Chúa phục sanh với Ma-ri Ma-đơ-len (Gi 20:11-14).

Đức Chúa Jêsus đã phán nhiều về các thiên sứ

Ngài phán rằng các thiên sứ lên, xuống trên Ngài (Gi 1:51).

Ngài phán rằng Ngài có thể gọi 12 đạo thiên sứ đến giải cứu Ngài (Mat 26:53).

Các thiên sứ sẽ đi theo Ngài khi Ngài ngự đến (Mat 25:31  16:27  Mac 8:38  Lu 9:26).

Các thiên sứ sẽ gặt (Mat 13:39).

Các thiên sứ sẽ thâu nhập những người được chọn (Mat 24:31).

Các thiên sứ sẽ phân rẽ kẻ gian ác với người công bình (Mat 13:41,49).

Các thiên sứ đem người ăn mày đặt vào lòng Áp-ra-ham (Lu 16:22).

Các thiên sứ vui mừng khi tội nhơn ăn năn (Lu 15:10).  Con nít có thiên sứ hộ vệ (Mat 18:10).

Đức Chúa Jêsus sẽ nhìn nhận kẻ thuộc về Ngài trước mặt các thiên sứ (Lu 12:8).

Thiên sứ không có nam, nữ, và không thể chết (Lu 20:35-36  Mat 22:30).

Ma quỉ cũng có thiên sứ (Mat 25:41 -- bản Việt-nam dịch là "quỉ sứ").

Chính Đức Chúa Jêsus đã phán những điều trên đây.

Những lời Ngài phán về thiên sứ thật là đặc biệt, dồi dào và khác nhau; vậy, nếu ta giải thích những lời ấy mà lại căn cứ vào lý thuyết rằng Ngài chỉ dung hòa với sự tín ngưỡng thông thường, thì sẽ phá hiệu lực lời Ngài phán, không còn kể là chân lý nữa.

Trong sách Công vụ các sứ đồ

Một thiên sứ mở cổng khám tù cho các Sứ đồ đi ra (Cong 5:19).

Một thiên sứ đưa Phi-líp đến cùng hoạn quan Ê-thi-ô-bi (Cong 8:26).

Một thiên sứ thả Phi-e-rơ ra khỏi khám tù (Cong 12:7,8,9), và được gọi là "thiên sứ của người" (Cong 12:15),tức là thiên sứ bảo vệ ông.

Một thiên sứ truyền lịnh cho Cọt-nây đi mời Phi-e-rơ (Cong 10:3).

Một thiên sứ ở bên cạnh Phao-lô trong trận bão (Cong 27:23).

Cựu Ước giả định có các thiên sứ:

Một thiên sứ giải cứu A-ga (Sa 16:7-12).

Các thiên sứ báo tin Y-sác sắp sanh ra (18:1-15)và sự hủy diệt Sô-đôm (18:16-33).

Các thiên sứ hủy diệt Sô-đôm và giải cứu Lót (19:1-29).

Một thiên sứ ngăn cản cho Y-sác khỏi bị giết (22:11-12).

Các thiên sứ đã canh giữ Gia-cốp (28:12  31:11  32:1  48:16).

Một thiên sứ trao cho Môi-se trách vụ giải cứu dân Y-sơ-ra-ên (Xu 3:2).

Một thiên sứ dắt dẫn dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng (14:19  23:20-23  32:34).

Một thiên sứ hướng dẫn cuộc hôn nhân của Y-sác với Rê-bê-ca (Sa 24:7).

Luật pháp do thiên sứ ban bố (Cong 7:38,53  Ga 3:19  He 2:2).

Một thiên sứ quở trách Ba-la-am (Dan 22:31-35).

Một "Tướng đạo binh của Đức Giê-hô-va" hiện ra với Giô-suê (Gios 5:13-15).

Một thiên sứ quớ trách dân Y-sơ-ra-ên thờ lạy hình tượng (Cac 2:1-5).

Một thiên sứ giao cho Ghê-đê-ôn nhiệm vụ giải cứu dân Y-sơ-ra-ên (Cac 6:11-40).

Một thiên sứ báo tin Sam-sôn sắp sanh ra (Cac 13:1-25).

Một thiên sứ hành hại dân Y-sơ-ra-ên bằng dịch lệ (IISa 24:16-17).

Một thiên sứ giải cứu Ê-li (IVua 19:5-8) trong lúc ông trốn khỏi Giê-sa-bên.

Ê-li-sê đã được các thiên sứ vô hình bao quanh (IIVua 6:14-17).

Một thiên sứ cứu Đa-ni-ên khỏi nanh vuốt sư tử (Da 6:22).

Một thiên sứ đánh đạo quân A-si-ri (IIVua 19:35  Es 37:36).

Các thiên sứ đóng trại chung quanh dân Đức Chúa Trời (Thi 34:7  91:11).

Các thiên sứ giúp việc chép sách Xa-cha-ri (Xa 1:9  2:3  4:5 v.v...).

Thiên sứ ở trong các thơ tín và sách Khải Huyền

Có những thiên sứ được chọn (ITi 5:21).

Các thiên sứ đông "vô số" (He 12:22  Kh 5:11).

Các thiên sứ giúp việc những người được thừa hưởng ơn cứu rỗi (He 1:13-14).

Các thiên sứ sẽ cùng đến với Đức Chúa Jêsus giữ ngọn lửa hừng (IITe 1:7).

Một thiên sứ điều khiển sự trứ tác sách Khải Huyền (Kh 1:1).

Các Hội Thánh có thiên sứ bảo vệ (Kh 1:20  2:8,12,18  3:1,7,14).

Phần lớn sách Khải Huyền gồm vai trò của các thiên sứ.

Chúng ta không nên thờ lạy thiên sứ (Co 2:18  Kh 22:8-9).

Có nhiều ban thiên sứ, mỗi ban gồm nhiều đẳng trật và phẩm chức. Các thiên sứ được tổ chức thành "quyền, phép, thế lực, quân chủ" và "ngôi vua, quyền cai trị," v.v... (Ro 8:38  Eph 1:21  3:10  Co 1:16  2:15  IPhi 3:22).

Mi-ca-ên (Mi-chen) là tên một thiên sứ trưởng. Mi-ca-ên là thiên sứ phò hộ dân Do-thái (Da 10:13,21  12:1). Mi-ca-ên giao chiến với ma quỉ để giành xác Môi-se (Giu 1:9) vì Hội Thánh mà giao chiến với Sa-tan (Kh 12:7) sẽ đi cùng Đấng Christ khi Ngài ngự đến, và cất tiếng kêu làm cho kẻ chết sống lại (ITe 4:16). Gáp-ri-ên là tên của một thiên sứ cao cấp (xem lời chú giải ở dưới  Lu 2:8-20).

Thỉnh thoảng chữ "thiên sứ"dường như chỉ về các sức mạnh vô tri trong cõi thiên nhiên. Nhưng nói chung, chữ ấy chắc chắn chỉ về những thân vị trong thế giới vô hình. Kinh Thánh nói nhiều về chức vụ của các thiên sứ, đến nỗi chúng ta buộc phải tin rằng một phần nào,Đức Chúa Trời có dùng thiên sứ để thi hành ý chỉ Ngài và quản trị vũ trụ.

 

Chức vụ của Chúa tại xứ Ga-li-lê

Để chép về chức vụ của Đức Chúa Jêsus tại xứ Ga-li-lê,

Ma-thi-ơ dành một nửa sách, tức là 14 đoạn, từ  Mat 4:12-19:1.

Mác dành một nửa sách, tức là 8 đoạn, từ 1:14-10:1,

Lu-ca dành gần 6 đoạn, từ  4:14-9:51.

Giăng gần như bỏ qua.

Mat 4:12

 Đức Chúa Jêsus khởi làm chức vụ tại xứ Ga-li-lê

Giữa câu 11 và câu 12 có khoảng một năm, trong thời gian đó, Đức Chúa Jêsus thi hành phần đầu chức vụ tại xứ Giu-đê. Phần nầy gồm các biến cố chép ở  Gi 1:19-4:54 và  Lu 4:16-30. Xem lời chú giải ở dưới  Mac 1:14-15.

Chức vụ của Chúa tại xứ Ga-li-lê

Khảo sát so sánh 4 bản tường thuật

Ma-thi-ơ

Kêu gọi Phi-e-rơ, Anh-rê, Gia-cơ và Giăng (Mat 4:18-22).

Các cuộc hành trình, giảng dạy, chữa bịnh;các đoàn dân đông, và Chúa nổi tiếng lừng lẫy (4:23-25).

Bài Giảng trên Núi (đoạn 5, 6, 7).

Một người phung và đầy tớ của viên bách nhân đội trưởng được chữa lành (8:1-13).

Bà gia Phi-e-rơ và nhiều người khác được chữa lành (8:14-17).

Dẹp cơn bão tố (8:23-27). Hai người miền Ra-đa-ra bị quỉ ám (8:28-34).

Một người bại được chữa lành (9:1-8).

Ma-thi-ơ được kêu gọi và dọn tiệc đãi Chúa (9:9-13). Sự "kiêng ăn" (9:14-17).

Con gái Giai-ru và người đờn bà mất huyết (9:18-26).

Hai người mù và một người bị quỉ câm ám được chữa lành (9:27-28).

Mười hai Sứ đồ được sai đi (đoạn 10).

Các sứ giả do Giăng Báp-tít sai đến (11:1-19).

Các thành bị quở trách (11:20-24)."Hãy đến cùng Ta" (11:25-30).

Bứt bông lúc mì ăn và chữa bịnh trong ngày Sa-bát (12:1-14).

Một người bị quỉ câm và điếc ám được chữa lành (12:15-23).

Đức Chúa Jêsus bị tố cáo là liên kết với Bê-ên-xê-bun (12:24-45).

Mẹ và anh em của Đức Chúa Jêsus (12:45-50).

Các thí dụ: Người gieo giống, cỏ lùng,hột cải, men, của báu, ngọc châu, đánh lưới (13:1-50).

Thăm viếng thành Na-xa-rét (13:54-58).

Giăng Báp-tít bị chém đầu (14:1-12).

5000 người được ăn no nê. Đức Chúa Jêsus đi bộ trên mặt nước (14:13-33).

Rất đông người được chữa lành tại Ghê-nê-xa-rết (14:34-36).

Người Pha-ri-si, lời khẩu truyền và sự bị ô uế (15:1-20).

Người đờn bà Ca-na-an (15:21-28).

4000 người được ăn no nê (15:29-39).

"Men của người Pha-ri-si" (16:1-12).

Phi-e-rơ xưng nhận Chúa là Đấng Christ,và Chúa phán trước về sự thương khó của Ngài (16:13-28).

Sự Hóa hình; Chúa lại phán trước về sự thương khó của Ngài (17:1-13).

Đức con trai bị kinh phong; Chúa lại phán trước về sự thương khó của Ngài (17:14-23). Nộp thuế cho Đền thờ (17:14-27)."Các con trẻ" và "sự tha thứ" (đoạn 18).

Mác

Kêu gọi Si-môn, Anh-rê, Gia-cơ và Giăng (Mac 1:14-20).

Người bị quỉ ám, bà gia Phi-e-rơ và nhiều bịnh nhân khác được chữa lành (1:21-34).

Các cuộc hành trình và phép lạ; một người phung và một người bại được chữa lành (1:40-2:12).

Sự kêu gọi Lê-vi và bữa tiệc (2:13-17).Sự "kiêng ăn" (2:18-22).

Bứt bông lúa mì ăn và chữa bịnh trong ngày Sa-bát (2:23-3:6).

Các đoàn dân đông; Chúa nổi tiếng lừng lẫy; các phép lạ (3:7-12).

12 Sứ đồ được lựa chọn (3:13-19).

Đức Chúa Jêsus bị tố cáo là liên kết với Bê-ên-xê-bun (3:20-30).

Mẹ và anh em của Đức Chúa Jêsus (3:31-35).

Các thí dụ: Người gieo giống, giống mọc lên, hột cải (4:1-34).

Dẹp cơn bão tố (4:35-41). Người Giê-ra-sê bị quỉ ám (5:1-20).

Con gái Giai-ru và người đờn bà mất huyết (5:21-43).

Thăm viếng thành Na-xa-rét (6:1-6).

12 Sứ đồ được sai đi (6:7-13).

Giăng Báp-tít bị chém đầu (6:14-29).

5000 người ăn no nê. Đức Chúa Jêsus đi bộ trên mặt nước (6:30-52)

Rất đông người được chữa lành tại Ghê-nê-xa-rết (6:53-56).

Người Pha-ri-si, lời truyền khẩu và sự bị ô uế (7:1-23).

Người đờn bà Sy-rô-phê-ni-xi; một người điếc và ngọng (7:24-37).

4000 người được ăn no nê. "Men của người Pha-ri-si" (8:1-21).

Người mù ở Bết-sai-đa được sáng mắt (8:22-26).

Phi-e-rơ xưng nhận Chúa là Đấng Christ,và Chúa phán trước về sự thương khó của Ngài (8:27-9:1).

Sự Hóa hình; Chúa lại phán trước về sự thương khó của Ngài (9:2-13).

Đứa con trai bị kinh phong; Chúa lại phán trước về sự thương khó của Ngài (9:14-32).

"Ai là người cao trọng nhứt?"Người vô danh làm việc lạ lùng (9:33-50).

Lu-ca

Thăm viếng thành Na-xa-rét (Lu 4:14-30).  Người bị quỉ ám, bà gia Phi-e-rơ và nhiều bịnh nhân khác được chữa lành (4:31-44).

Kêu gọi Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng (5:1-11).

Một người phung và một người bại được chữa lành (5:12-26).

Sự kêu gọi Lê-vi và bữa tiệc (5:27-32);Sự "kiêng ăn" (5:33-39).

Bứt bông lúa mì ăn và chữa bịnh trong ngày Sa-bát (6:1-11).

12 Sứ đồ được lựa chọn (6:12-19).

Bài Giảng trên Núi (6:20-49).

Đầy tớ của viên bách nhân đội trưởng;con trai của bà góa; các sứ giả của Giăng Báp-tít sai đến (7:1-35).

Người đờn bà tội lỗi; mấy bậc phụ nữ ;thí dụ về người gieo giống (7:36-8:18).

Mẹ và anh em của Đức Chúa Jêsus; cơn bão tố, người Giê-ra-sê bị quỉ ám (8:19-39).

Con gái Giai-ru và người đờn bà mất huyết (8:40-48).

12 Sứ đồ được sai đi (9:1-6).

Giăng Báp-tít bị chém đầu (9:7-9). 5000 người được ăn no nê (9:10-17).

Phi-e-rơ xưng nhận Chúa là Đấng Christ,và Chúa phán trước về sự thương khó của Ngài (9:18-27).

Sự hóa hình (9:28-36).

Đứa con trai bị kinh phong; Chúa lại phán trước về sự thương khó của Ngài (9:28-43).

"Ai là người cao trọng nhứt?"Người vô danh làm việc lạ lùng (9:46-50).

Giăng

Phép lạ đầu tiên tại Ca-na-an; ngụ tại Ca-bê-na-um (Gi 2:1-12).

Con trai quan thị vệ được chữa lành (4:43-54).5000 người được ăn no nê (6:1-15).

*   *   *

Mat 4:13-17.

Cư ngụ tại Ca-bê-na-um.

Đây là một trong những điều đã dự ngôn về Đấng Mê-si (xem ở dưới  2:22-23).Cũng xem ở dưới  Mac 1:21.

Mat 4:18-22.

Kêu gọi Si-môn, Anh-rê,Gia-cơ, và Giăng.

Xem ở dưới  Mac 1:16-20. Cũng xem ở dưới Ma-thi-ơ, đoạn 10.

Mat 4:23-25.

Các cuộc hành trình;Chúa nổi tiếng lừng lẫy và làm nhiều phép lạ.

Xem ở dưới  Mac 1:38-39.

Thời Gian Và Niên Biểu Của Chức Vụ Chúa Tại Xứ Ga-li-lê

Chức vụ của Chúa tại xứ Ga-li-lê bắt đầu 4 tháng trước mùa gặt, tức là tháng 12 dương lịch (Gi 4:35-43).

Chức vụ nầy chấm dứt ngay trước lễ Lều tạm (tháng 10 dương lịch), hoặc ngay trước lễ Cung hiến Đền thờ (tháng 12 dương lịch). Xem  Lu 9:51  Gi 7:2  10:22.

Nó gồm một lễ Vượt qua (Gi 6:4), và một lễ Vượt qua nữa nếu lễ chép ở  5:1 cũng là lễ Vượt qua như người ta thường tưởng.

Như vậy, nó trải qua gần 2 năm, vì bắt đầu tháng 12 dương lịch, và kéo dài quá lễ Vượt qua thứ hai cho tới tháng 10 hoặc tháng 12 dương lịch kế tiếp; hoặc chỉ trải qua một năm nếu lễ chép ở  5:1 không phải là lễ Vượt qua.

Một cách chung, dường như Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca theo thứ tự niên đại, mặc dầu không theo từng chi tiết; ấy vì ba ông khác nhau về thứ tự của nhiều biến cố. Về điểm trong ba ông, ông nào theo thứ tự niên đại đúng nhứt, thì các nhà chuyên học Kinh Thánh có nhiều ý kiến khác nhau. Vì các tác giả sách Tin Lành dường như được hướng dẫn bởi những nhận xét khác nhau trong lúc xếp đặt tài liệu, và vì họ nhiều khi không cần để ý đến thời gian và vị trí, nên ta chẳng có thể xếp đặt mọi tài liệu ghi chép theo thứ tự niên đại thật đúng.

Tuy nhiên, trong chức vụ của Chúa ở xứ Ga-li-lê, có một vài biến cố và thời gian quan trọng mà các tác giả lấy làm trung tâm để thử thâu góp các biến cố và thời gian khác chung quanh đó.

5000 người được Chúa cho ăn no nê trong kỳ lễ Vượt qua (Gi 6:4). Giăng Báp-tít bị chém đầu ngay trước kỳ lễ ấy (Mat 14:12-13). Cũng khoảng đó, 12 Sứ đồ trở về sau khi đi truyền đạo lưu hành (Lu 9:10).

Cả ba tác giả đặt sự Hóa hình ở khoảng ít lâu trước khi Chúa dời khỏi xứ Ga-li-lê lần chót.

Sự dời khỏi xứ Ga-li-lê lần chót đó đã xảy ra hoặc ngay trước lễ Lều tạm (tháng 10 dương lịch), hoặc ngay trước lễ Cung hiến Đền thờ (tháng 2 dương lịch). Xem  Lu 9:51  Gi 7:1-10:22.

Như vậy, có một khoảng 5 hoặc 8 tháng ở giữa việc Chúa cho 5000 người ăn no nê và sự Hóa hình; một phần thời gian nầy,Đức Chúa Jêsus ở các miền phía Bắc xứ Ga-li-lê, và Kinh Thánh ít chép đến.

Phần chính của truyện tích về chức vụ của Chúa tại xứ Ga-li-lê liên quan đến khoảng 16 tháng trước khi Chúa cho 5000 người ăn no nê, tức là thời gian Chúa hoạt động rất hăng hái và được nhân dân hết lòng kính mộ.

Mục biểu dưới đây trình bày tổng quát chức vụ của Chúa tại xứ Ga-li-lê, có những biến cố trọng yếu in bằng chữ đậm;tuy nhiên, vị trí niên đại của một vài biến cố chỉ là phỏng đoán mà thôi.

Chức Vụ Của Chúa Tại Xứ Ga-li-lê

Thử xếp đặt theo thứ tự niên đại

Tháng 12 dương lịch, năm 27 S.C.:

  • Chúa bắt đầu chức vụ tại xứ Ga-li-lê.
  • Chúa ở Ca-na mà chữa lành bịnh cho con trai quan thị vệ tại Ca-bê-na-um.
  • Chúa thăm viếng thành Na-xa-rét, và bị chối bỏ.
  • Chúa đặt trụ sở tại Ca-bê-na-um.
  • Chúa kêu gọi Si-môn, Anh-rê, Gia-cơ, và Giăng.
  • Chúa chữa lành người bị quỉ ám, bà gia Phi-e-rơ và nhiều người khác.
  • Chúa đi tới các miền phụ cận, chữa lành một người phung và một người bại.
  • Chúa kêu gọi Ma-thi-ơ.
  • Những câu hỏi về sự kiêng ăn và ngày Sa-bát.

Năm 28 S.C.. Lễ Vượt qua (?):

  • Chúa thăm viếng thành Giê-ru-sa-lem.
  • Chúa chữa bịnh trong ngày Sa-bát, gây cho các quan quyền chống đối Ngài. Chúa quả quyết Ngài là Đức Chúa Trời, và trở về xứ Ga-li-lê.

Giữa mùa hạ:

  • Các cuộc hành trình, các đoàn dân đông. Các phép lạ, và Chúa nổi tiếng lừng lẫy.
  • Chúa chọn 12 Sứ đồ.
  • Bài giảng trên Núi.
  • Chúa đi tới các miền phụ cận và phán nhiều thí dụ.
  • Chúa dẹp yên bão tố và chữa lành người Giê-sa-rê bị quỉ ám.
  • Chúa khiến con gái Giai-ru từ kẻ chết sống lại.
  • Chúa bị tố cáo là liên kết với Bê-ên-xê-bun.
  • Chúa khiến con trai bà góa ở Ca-in từ kẻ chết sống lại.
  • Chúa tiếp các sứ giả của Giăng Báp-tít sai đến.
  • Chúa lại thăm viếng thành Na-xa-rét.
  • Chúa chữa lành đầy tớ của viên bách nhân đội trưởng và tha thứ cho người đờn bà tội lỗi.

Năm 29 S.C.. Tháng 2 dương lịch:

  • 12 Sứ đồ được Chúa sai đi.

Lễ Vượt qua:

  • 12 Sứ đồ trở về. Giăng Báp-tít bị chém đầu.
  • Chúa cho 5000 người ăn no nê. Chúa đi trên mặt nước.
  • Chúa diễn giảng về Bánh Sự Sống.
  • Chúa không chịu dân chúng tôn Ngài làm vua.
  • Chúa chữa lành nhiều người, và diễn giảng về sự bị ô uế.
  • Chúa quở trách các thành và phán: "Hãy đến cùng Ta!"
  • Chúa lui về phía Bắc và nhận lời cầu xin của người đờn bà Sy-rô-phê-ni-xi.
  • Chúa trở về xứ Ga-li-lê, chữa lành người vừa điếc, vừa ngọng, và cho 4000 người ăn no nê.
  • Tại xứ Ma-ga-đan, Chúa phán về "dấu lạ của Giô-na" và chữa lành một người mù.

Tháng 10 dương lịch (?):

  • Chúa thăm viếng thành Giê-ru-sa-lem.
  • Ngài giảng luận. Người đờn bà bị bắt quả tang phạm tội tà dâm. Người mù được chữa lành. Chúa công khai xung đột với các quan quyền.
  • Chúa trở về xứ Ga-li-lê.

Tháng 11 dương lịch:

  • Chúa lui về thành Sê-sa-rê Phi-líp. Lời xưng nhận của Phi-e-rơ.
  • Sự Hóa hình. Đứa con trai bị kinh phong. Chúa phán ba lần về Ngài sẽ chịu thương khó.
  • Chúa lại đến xứ Ga-li-lê. Tiền đóng thuế.
  • "Ai là người cao trọng nhứt?"
  • "Các con trẻ." Người vô danh làm việc lạ lùng. "Sự tha thứ."

Tháng 12 dương lịch (?):

  • Chúa dời khỏi xứ Ga-li-lê lần chót.

(hoặc tháng 10 dương lịch?).

*   *   *

Đoạn 5, 6, 7

 Bài Giảng Trên Núi

Ma-thi-ơ đặt Bài Giảng trên Núi ở ngay đầu truyện tích ông chép về chức vụ của Chúa ở xứ Ga-li-lê, mặc dầu Chúa giảng vào mấy tháng sau, lúc lựa chọn 12 Sứ đồ (Lu 6:12-20), nếu quả thật Lu-ca thuật lại cùng một bài giảng ấy. Chắc vì Ma-thi-ơ kể Bài Giảng trên Núi là yếu lược sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus mà cả chức vụ của Ngài đã chứng minh cho.

Chúng ta chưa từng thấy ai phân tích Bài Giảng trên Núi một cách mỹ mãn. Dường như phải gò ép nhiều lắm, mới làm cho nó ăn khớp với một bố cuộc phác định bởi những người coi nó, về toàn thể, là thân thuyết (développement) hợp lý của một luận án đặc biệt nào, theo như nhiều nhà phê bình vẫn coi nó. Có hai phần (Mat 5:17-48 và  6:1-18) dường như là sự giải luận có thứ tự của hai đề mục riêng biệt: Mối liên quan của Đức Chúa Jêsus với Luật pháp, và cớ tích trong lòng của đời sống tôn giáo. Phần còn lại giống nhiều hơn một loạt châm ngôn những vấn đề khác nhau, -- sự lặp đi lặp lại các châm ngôn ấy luôn là một cách dạy dỗ mà người Đông phương ưa dùng lắm.

Không nói rõ Chúa giảng bài nầy trên núi nào. Theo truyền thoại, thì là núi mang tên "Cái Sừng của Hát-tin" (xem bản đồ số 47 ở dưới  Mac 6:45-52).

Về lời chú giải so sánh với bản văn của Lu-ca, xin xem ở dưới  Lu 6:20-49.

Mat 5:1-12

 Các phước lành

Một cách mâu thuẩn, Đức Chúa Jêsus gọi là "có phước" những kẻ mà thế gian thường thương hại: Những kẻ thất vọng,đau đớn, thấp hèn, suy kiệt phần thiêng liêng, có lòng thương xót, có sự thanh sạch bên trong, có khuynh hướng hòa hoãn, và những kẻ chịu bắt bớ. Đó là trái hẳn với với tiêu chuẩn của thế gian. Nhưng trong mỗi trường hợp, phước lành không ở nơi chính tình trạng cùng khốn, mà là ở nơi phần thưởng vinh hiển tương lai. Đối với Đức Chúa Jêsus, là Đấng biết rõ, thì Thiên đàng vô cùng cao quí hơn đời sống trần gian, đến nỗi bất cứ tình trạng nào khiến ta thêm lòng mong ước Thiên đàng cũng được Ngài coi là một phước lành.

Mat 5:13-16

 Tín đồ Đấng Christ là muối và sự sáng của thế gian

Nghĩa là tín đồ bảo tồn và hướng dẫn thế gian. Đức Chúa Jêsus phán rằng Ngài là sự sáng của thế gian (Gi 8:12). Ngài chiếu sáng qua những kẻ theo Ngài, và họ phản chiếu vinh quang của Ngài. Cớ tích cao trọng nhứt mà người ta có thể có ấy là cách sanh hoạt của mình khiến cho kẻ đồng loại buộc phải tôn vinh, khen ngợi Đức Chúa Trời.

Mat 5:17-48

 Đức Chúa Jêsus và Luật pháp

Đây, không có gì mâu thuẫn giữa sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus và sự dạy dỗ của các thơ Rô-ma, Ga-la-ti, Hê-bơ-rơ rằng chúng ta được xưng công bình bởi tin Đấng Christ chớ không phải làm theo Luật pháp. Đức Chúa Jêsus có ý phán rằng luật pháp luân lý của Đức Chúa Trời bày tỏ chính sự thánh khiết của Ngài, và buộc dân Ngài phải tuân theo đời đời. Đức Chúa Jêsus cũng có ý phán rằng quả thật, Ngài đến để đem cho lời tuyên bố xưa kia của luật pháp một ý nghĩa sâu xa hơn, và để thi hành luật pháp chẳng những trong hành động bên ngoài , mà cũng trong nơi sâu thẳm của lòng người nữa. Đoạn.Ngài tiếp tục biểu minh luật pháp trong năm chi tiết đặc biệt: Giết người, tà dâm, thề (hoặc chửi thề), báo thù và ghét kẻ thù.

Mat 5:21-26

 Tội giết người

Luật pháp nghịch cùng tội giết người là một trong Mười Điều răn (Xu 20:13). Đức Chúa Jêsus cấm chúng ta nuôi sự giận trong lòng, vì nó sẽ đưa tới hành động sát nhân.

Mat 5:27-32

 Tội tà dâm

Luật pháp nghịch cùng tội tà dâm cũng là một trong Mười Điều răn (Xu 20:14). Đức Chúa Jêsus cấm chúng ta ôm ấp sự thèm muốn, vì nó sẽ đưa tới hành động tà dâm. Hãy chú ý: Khi luận về sự giận và sự thèm muốn, Đức Chúa Jêsus đều cảnh cáo chúng ta về "lửa địa ngục"(câu 22, 29, 30). Chẳng những Ngài cảnh cáo chúng ta phải coi chừng sự cảm xúc trong lòng, song Ngài còn đi xa hơn Môi-se, là hạn chế sự để bỏ (câu 32). Cũng xem  Mat 19:3-12  Mac 10:2-12  ICo 7:1-40

Mat 5:33-37

 Sự thề (hoặc chửi thề)

Lời nầy chắc áp dụng cho sự thề trước pháp đình, sự nói phạm thượng thông thường, và cả sự nhẹ dạ kêu Danh Đức Chúa Trời trong khi nói chuyện thường. Những kẻ làm được có ít mà lại nói lớn mạnh và cuồng võng, thì thật là nói không đúng chỗ.

Mat 5:38-42

 Sự trả thù

"Mắt đền mắt" là một khoản dân luật mà các quan án áp dụng (Xu 21:22-25). Đây, Đức Chúa Jêsus không làm luật cho các tòa án. Quyền cai trị do Đức Chúa Trời thiết lập (Ro 13:1-7) để cứu xã hội loài người khỏi những phần tử tội ác. Các tòa án càng thi hành công lý nghiêm minh, thì càng có ích lợi cho xã hội. Nhưng đây, Đức Chúa Jêsus dạy những nguyên tắc mà các cá nhân phải theo trong sự đối xử với nhau (xem thêm ở  Lu 6:27-38).

Mat 5:43-48.

Yêu thương kẻ thù nghịch.

"Hãy ghét kẻ thù nghịch mình" (câu 43), đó không phải là một lịnh chép trong Ngũ kinh của Môi-se. Có lẽ nó được ngụ ý trong một vài cách đối xử với các kẻ thù nghịch của dân Y-sơ-ra-ên thời Cựu Ước và trong một số Thi Thiên. Bất cứ là thể nào, Đức Chúa Jêsus cũng cấm làm như vậy (xem thêm ở  Lu 6:27-38).

Mat 6:1-18.

Các cớ tích sâu kín của đời sống.

Xem ở  Lu 12:1-12. Đây, cớ tích của đời sống được biểu minh trong ba trường hợp đặc biệt: Sự bố thí (Mat 6:2-4); sự cầu nguyện (6:5-15 --Xem thêm ở  Lu 11:1-44  18:1-43); sự kiêng ăn (Mat 6:16-18 -- xem thêm ở  Mac 2:18-22).

Mat 6:19-34.

Của báu ở Thiên đàng.

Xem ở  Lu 12:13-34.

Mat 7:1-5.

Chớ đoán xét anh em mình.

 Xem ở  Lu 6:39-45.

Mat 7:6

"Quăng hột trai trước mặt heo".

 Đây có nghĩa là chúng ta phải dùng lương tri và cơ trí khi luận về đạo của mình. Bằng không, sẽ có thể làm hại cho chánh nghĩa của mình hơn là làm lợi.

Mat 7:7-11.

Bền đỗ cầu nguyện.

 Xem ở  Lu 18:1-8.

Mat 7:12.

Luật vàng.

 Xem ở  Lu 13:22-30.

Mat 7:13-14.

Đường hẹp.

 Xem ở Lu 13:22-30.

Mat 7:15-23.

Các giáo sư giả.

 Đức Chúa Jêsus cảnh cáo và phán tiên tri về các giáo sư giả (Mat 24:21,24). Các tác giả Tân Ước cũng làm như vậy nhiều lần. Trở lực tai hại hơn hết cho sự tấn bộ của đạo Đấng Christ ở giữa loài người chính là đạo Ngài đã bị bại hoại tàn nhẫn nơi tay những kẻ tự nhận là làm cho đạo Ngài tấn triển. Họ đã làm cho đạo Ngài bị ô danh khôn xiết.

Mat 7:24-27.

Xây nhà trên Vầng Đá.

 Xem ở  Lu 6:46-49.

Mat 7:28-29.

Thẩm quyền.

 Chính Đức Chúa Jêsus là thẩm quyền của Ngài. "Các ngươi có nghe lời phán... Song Ta phán..." Không hề có ai nói như Ngài.

Mat 8:1-4.

Một người phung được sạch.

 Xem ở  Mac 1:40-44.

Mat 8:5-13.

Đầy tớ của viên bách nhân đội trưởng.

 Xem ở  Lu 7:1-10.

Mat 8:14-15.

Bà gia của Phi-e-rơ.

 Xem ở  Mac 1:22-31.

Mat 8:16-17.

Rất đông người được chữa bịnh.

 Xem ở  Mac 1:32-34.

Mat 8:18-22

"Con cáo có hang".

Xem ở  Lu 9:57-62.

Mat 8:23-27.

Dẹp cơn bão tố.

Xem ở  4:36-41.

Mat 8:28-34.

Hai người Ga-đa-ra bị quỉ ám.

 Xem ở  Mac 5:1-20.

Mat 9:1-8.

Người bại được chữa lành.

Xem ở  Mac 2:1-12.

Mat 9:9-13.

Chúa kêu gọi Ma-thi-ơ.

Xem ở  Mac 2:13-17.

Mat 9:14-17.

Câu hỏi về sự kiêng ăn.

Xem ở  Mac 2:18-22.

Mat 9:18-26.

Con gái Giai-ru.

Xem ở  Lu 8:40-56.

Mat 9:27-31.

Hai người mù.

 Xem ở Mac 8:22-26.

Mat 9:32-34.

Một người câm bị quỉ ám.

 Xem ở  Mac 7:31-37.

Mat 9:35-38.

Chúa đi tới các miền phụ cận.

 Xem ở  Mac 1:39.

Mat 10:1-12:50

Sứ đồ được sai đi

Việc nầy cũng có chép sơ lược ở  Mac 6:7-13 và  Lu 9:1-6. Chắc đã xảy ra trước lễ Vượt qua ít lâu, vì họ trở về nhằm kỳ lễ Vượt qua, ngay trước khi Chúa cho 5000 người ăn no nê (Lu 9:10-17  Gi 6:4).

Những chỉ thị của Đức Chúa Jêsus ban cho 12 Sứ đồ có chứa một vài lời khuyên bảo tín đồ: Phải khôn ngoan như con rắn,hiền lành như chim bò câu, mong chờ chịu khó nhọc, tin cậy Đức Chúa Trời săn sóc kẻ thuộc về Ngài chẳng hề sơ sót, và luôn luôn chăm chú nhìn vào mục đích đời đời của mình.

Một vài chỉ thị của Đức Chúa Trời chỉ được áp dụng nhất thời; thí dụ như đừng đem theo tiền bạc. Vì họ được Chúa ban quyền phép chữa bịnh, nên dễ được người ta cung cấp bữa ăn và chỗ ở. Nhưng về sau Chúa bảo họ phải đem tiền bạc theo (Lu 22:35-38).

 

12 Sứ đồ được kêu gọi

Đức Chúa Jêsus phải mất chừng 1 năm rưỡi để lựa chọn xong. Rồi họ ở với Ngài chừng 2 năm.

Năm 26 S.C., tháng 11 dương lịch (?).Giăng, Anh-rê, Si-môn, Phi-líp, Na-tha-na-ên tin Ngài lúc Giăng Báp-tít làm lễ báp-têm (Gi 1:35-51); họ theo Ngài tới Ca-na, rồi trở về công việc cũ cho tới một ngày Chúa kêu gọi họ lần nữa.

Năm 28 S.C, tháng 1 dương lịch (?). Sau khi Chúa làm xong phần đầu chức vụ tại xứ Giu-đê và chính lúc bắt đầu chức vụ tại xứ Ga-li-lê, thì Ngài kêu gọi Si-môn, Anh-rê, Gia-cơ, và Giăng bỏ nghề đánh cá mà dứt khoát liên kết với Ngài (Mac 1:16-20).

Sau đó ít lâu, Ma-thi-ơ được mời nhập đoàn nầy (Mat 9:9).

Năm 28 S.C., tháng 5 dương lịch (?). 12 Sứ đồ được chánh thức lựa chọn (Lu 6:12-16).

Năm 29 S.C., tháng 3 dương lịch (?).Chúa ban cho họ quyền phép để chữa bịnh, rồi sai họ đi từng đôi để giảng Tin Lành chừng 1 tháng (Mat 10:1-42).

Năm 30 S.C., tháng 5. Chúa giao cho họ sứ mạng sau cùng, là đem Tin Lành đến đầu cùng trái đất (Mat 28:16-20).

 

Sự huấn luyện 12 Sứ đồ

Sự lựa chọn và huấn luyện những người mà Đức Chúa Jêsus sẽ giao cho làm công việc của Ngài chính là một phần tối trọng trong sứ mạng của Ngài trên mặt đất. Mục đích đầu tiên của Chúa Jêsus khi Ngài đến thế gian là chịu chết với tư cách Chiên Con của Đức Chúa Trời để đền tội loài người, rồi sống lại từ trong kẻ chết để ban sự sống đời đời cho loài người.Nhưng nếu loài người không biết, thì đời sống, sự chết và sự sống lại của Ngài chẳng có ích gì cho họ. Nếu những kẻ Ngài giao cho làm công việc Ngài lại chẳng làm cho Ngài, thì sự Ngài ngự đến thế gian sẽ vô ích.

Sự sai 12 Sứ đồ đi lần đầu tiên chính là một phần huấn luyện họ, chắc để họ có cơ hội thực hành. Đó cũng là một phần phương thức Đức Chúa Jêsus báo cáo cho nhân dân biết rằng Đấng Mê-si đã ngự đến.Thời ấy không có báo chí. Phương pháp độc nhứt để rao truyền một tin tức là dùng miệng nói ra. Về sau, 70 môn đồ được sai đi cũng vì mục đích ấy. Những người nầy chánh thức hóa lời giảng của mình bởi các phép lạ đặc biệt, chẳng những để khiến dân chúng chú ý, song cũng để tỏ cho họ biết tánh chất phi thường của Đấngmà họ rao truyền.

Huấn luyện họ chẳng phải là chuyện dễ,vì họ được huấn luyện để làm một công việc khác hẳn điều họ mong tưởng. Họ bắt đầu theo Ngài như những chánh khách, và không hề nghĩ rằng mình sẽ trở nên nhà Truyền đạo; vậy mà họ lại trở nên nhà Truyền đạo thật. Họ trông mong rằng là Đấng Mê-si, Ngài sẽ lập một đế quốc bá chủ thế giới, và họ sẽ được làm quan cai trị.Xem thêm ở dưới Ma-thi-ơ, đoạn 13.

Đây là phương thức Ngài thay đổi tâm trí họ đối với công việc mà Ngài và họ sẽ làm: Trước hết, Ngài tự giới thiệu với họ trong vinh quang thiên thượng đầy dẫy của Ngài, ngõ hầu dầu Ngài nói năng và hành động khác hẳn cách họ trông mong Đấng Mê-si nói năng và hành động, họ cũng vẫn tin Ngài là Đấng đó. Ấy là một trong những lý do Ngài làm phép lạ và hóa hình.

Đồng thời Ngài phán dạy bằng thí dụ, bằng lời kín giấu, để cho họ có ấn tượng rằng Ngài chẳng luôn luôn định phán đúng những điều Ngài dường như định phán. Ngài làm cho họ phải ngạc nhiên ít lâu. Nếu Ngài phán bảo họ rõ ràng ngay từ lúc đầu, thì có lẽ họ không thấy hào hứng mà theo Ngài chút nào nữa.

Rốt lại, khi Ngài phán rằng Ngài sẽ bị đóng đinh vào Thập tự giá, chớ không phải dựng nên một ngôi vua, thì họ đều choáng váng. Nhưng họ vẫn cứ tưởng đó chỉ là một thí dụ. Ngay trong bữa ăn cuối cùng, trí óc họ vẫn còn mải nghĩ rằng ai trong bọn mình sẽ chiếm địa vị cao trọng nhứt.

Mãi sau khi Ngài sống lại và Đức Thánh Linh giáng xuống rồi, họ mới hiểu rằng đây là một Nước mà Đức Chúa Jêsus sẽ cai trị trong lòng người ta, và vai trò của họ chỉ là Thuật Lại Truyện Tích Đức Chúa JÊSUS. Chỉ có chừng đó. Chính truyện tích ấy sẽ làm công việc của nó. Nều người ta biết Đức Chúa Jêsus, thì họ sẽ kính mến Ngài. Khi họ kính mến Ngài,thì ảnh hưởng tốt lành của Ngài liền bắt đầu hành động trong lòng họ. Đó thật là khác hẳn một nước trong đó các Sứ đồ truyền lịnh cho nhiều đạo quân bước đi và được muôn dân làm theo mạng lịnh mình.

Mat 11:1-9

 Các sứ giả của Giăng Báp-tít sai đến

Việc nầy xảy ra đang khi Giăng Báp-tít ở trong ngục. Đức Chúa Jêsus được dân chúng hoan nghinh tột bậc. Rõ ràng lắm,Giăng mong chờ một Đấng Mê-si chánh trị (xem ở  Lu3:1-20), và không hiểu tại sao Đức Chúa Jêsus không hành động thích ứng để đạt tới mục đích ấy. Quả thật,ông đã bắt đầu tự hỏi có sự lầm lạc ở chỗ nào chăng?

Lời đáp của Đức Chúa Jêsus tỏ ra rằng Ngài cho các phép lạ Ngài làm là chứng cớ đầy đủ về chức vị Mê-si của Ngài.

Hãy chú ý: Sự nghi ngờ của Giăng Báp-tít chẳng khiến cho ông bị Đức Chúa Jêsus coi rẻ đi. Trái lại, Ngài phán rằng không có ai cao trọng hơn Giăng Báp-tít.

Nhưng người thấp thỏi hơn hết trong Nước Đấng Christ còn cao trọng hơn Giăng Báp-tít, ấy là nói về phương diện đặc quyền.Thật là một lời phê bình kỳ diệu biết bao về đặc quyền làm tín đồ Đấng Christ!

"Bị hãm ép" (câu 12), nghĩa là các môn đồ của Giăng và của Đức Chúa Jêsus đã hết sức cố ép Ngài lãnh đạo một phong trào chánh trị có tánh chất quân sự và trần gian.

"Ai có tai mà nghe, hãy nghe"(câu 15). Đó là một câu Đức Chúa Jêsus ưa phán (Mat 13:9,43  Mac 4:9,23  Lu 8:8  14:35). Sứ đồ Giăng cũng ưa nói như vậy (Kh 2:7,11,17,29  3:6,13,22  13:9). Đức Chúa Jêsus biết rằng có một số người ở ngoài phạm vi những sự thiêng liêng.

Khi Đức Chúa Jêsus đối chiếu cách sống của Ngài với cách sống của Giăng, thì Ngài có ý phán rằng Ngài và ông đều từ Đức Chúa Trời mà đến và cùng dự phần trong sự cố gắng của Đức Chúa Trời để kêu gọi thế ấy.

Mat 11:20-24

 Các phép lạ của Đức Chúa Jêsus

Ba thành ở khu Bắc biển Ga-li-lê được nêu tên ở đây, là "sân khấu" chính cho Đức Chúa Jêsus làm phép lạ (xem bản đồ số 47 và ở dưới  Mac 6:45-52). Ca-bê-na-um là nơi Ngài cư ngụ nhiều nhứt. Bết-sai-đa ở cách ba dặm về phía Đông bắc, tại cửa sông Giô-đanh, là quê hương của Phi-e-rơ, Anh-rê và Phi-líp. Cô-ra-xin ở giữa hai thành kia, quá về phía Bắc. Đó là những thành được đặc ân hơn hết trên mặt đất. Đức Chúa Jêsus tuyên án họ, tỏ ra rằng Ngài coi các phép lạ Ngài đã làm là có giá trị hiển nhiên và chứng minh; vậy nên, hễ ai bất kể đến các phép lạ ấy, thì nguy hiểm lắm.

Mat 11:25-30

 "Hãy đến cùng Ta"

Đây là những lời thân ái, dịu dàng hơn hết mà tai loài người từng được nghe. Đức Chúa Jêsus dường như lấy làm vui sướng vì những thường dân có tâm trí đơn sơ đã tiếp nhận Ngài. Phao-lô cũng đã nói như vậy (ICo 1:26). Các bậc học thức có sự kiêu căng về trí óc, dường như khó hạ mình xuống đủ để nhìn nhận mình cần có một Cứu Chúa. Ở đây, Đức Chúa Jêsus tự nhận Ngài có tánh nhu mì, là tánh Ngài đã chúc phước cho (Mat 5:5). Cũng có chép rằng Môi-se là người nhu mì (Dan 12:3 -- đây dịch là "khiêm hòa").

Mat 12:1-8.

Ăn trong ngày Sa-bát.

Xem ở  Mac 2:23-27.

Mat 12:9-14.

Chữa bịnh trong ngày Sa-bát.

 Xem ở  Mac 3:1-6.

Mat 12:15-21

 Nhiều phép lạ

Sách  Mac 3:7-12 có chép rằng ngoài những đám dân đông ở xứ Ga-li-lê, còn có những đám dân đông từ xứ Giu-đê, thành Giê-ru-sa-lem, xứ Y-đu-mê (Ê-đôm, ở phía Nam Biển Chết), bên kia sông Giô-đanh,miền Ty-rơ và Si-đôn, kéo tới. Như vậy, đương thời chỉ có cách đi bộ, từ Đông,Tây, Nam, Bắc, cách xa 100 dặm, những đám dân đông nghe các phép lạ của Đức Chúa Jêsus, đã kéo đến, đem theo bịnh nhân, và Ngài chữa lành cho họ hết thảy (câu 15).

Mat 12:22-23

 Một người đui và câm bị quỉ ám được chữa lành

Cũng có chép ở  Lu 11:14-15. Đây là một phép lạ lớn lao, vì mặc dầu dân chúng đã quen với phép lạ, họ cũng phải "lấy làm lạ." "Con cháu vua Đa-vít" (câu 23) là phẩm tước mà ai nấy dành cho Đấng Mê-si mà họ đang trông đợi (Mat 1:1  9:27  15:22  20:30  21:9  22:42  Gi 7:42).

Mat 12:24-37

 Tội lỗi không thể tha thứ

Tội lỗi nầy cũng có chép ở  Mac 3:22-30  Lu 11:14-26  12:8-10. Hãy chú ý rằng dầu người Pha-ri-si hết sức ghét Đức Chúa Jêsus, nhưng họ không chối các phép lạ của Ngài, vì nhiều quá và nhiều người biết quá, không sao chối được. Dầu các phép lạ có tánh chất hoàn toàn phước thiện,song người Pha-ri-si cứng cỏi và giả hình đến nỗi cho nó phát xuất từ quỉ Sa-tan. Lời tố cáo xấu xa và quỉ quái chứng tỏ một bản tánh hầu như không sao cứu chuộc được nữa. Có lẽ lời Đức Chúa Jêsus phán đây có nghĩa chỉ về một tâm trạng mà họ gần đi tới, rất là nguy hiểm. Ở  Lu 2:10, tội lỗi không thể tha thứ có liên quan đến sự chối bỏ Đấng Christ. Đức Chúa Jêsus dường như phân biệt giữa tội lỗi nghịch cùng Ngài và tội lỗi nghịch cùng Đức Thánh Linh (câu 32). Tội lỗi không thể tha thứ thường được mọi người hiểu như thế nầy: Chối bỏ Đấng Christ khi Ngài còn ở trong xác thịt và chưa làm xong công việc, là khi cả môn Ngài cũng chẳng hiểu Ngài, thì có thể được tha thứ. Nhưng sau công việc Ngài hoàn thành và Đức Thánh Linh đã giáng xuống, nếu người ta hiểu biết đầy đủ và lại cố quyết và chung kết chối bỏ lời Đức Thánh Linh giới thiệu Đấng Christ thì đó là "tội lỗi đời đời không hề được tha thứ." Tội lỗi tương tự cũng có nói đến ở  He 6:6  10:26 và  IGi 5:16. Hãy xem lời chú giải những câu nầy.

"Lời hư không" (câu 36) được nhắc đến ở đây, liên quan đến tội lỗi không thể tha thứ. Lời nói bày tỏ tâm tánh chúng ta (câu 34). Mỗi lời nói cũng như mỗi hành động kín nhiệm của chúng ta (xem ở  Lu 12:1-12) đều được "thâu thanh" để diễn lại trong Ngày Phán xét.

Mat 12:38-45

 Dấu lạ của Giô-na

Cũng nói đến ở  Lu 11:29-32. Sau khi tố cáo Đức Chúa Jêsus nhờ Bê-ên-xê-bun giúp đỡ làm dấu lạ, mà lại xin Ngài làm dấu lạ, thì thật là vô liêm sỉ. Có lẽ họ định xin một cái gì vĩ đại hơn, như sấm sét ở núi Si-na-i, hoặc ma-na rơi xuống. Đức Chúa Jêsus hứa ban cho họ một dấu lạ hơn bội phần mà Ngài gọi là "dấu là của đấng tiên tri Giô-na," --tức là Ngài từ kẻ chết sống lại, đó là Dấu Lạ Vĩ Đại Hơn Hết Của Mọi Thời Đại.Về các thói quen của các quỉ sứ (câu 43-45), xin xem ở  Mac 5:1-20.

Mat 12:46-50

 Mẹ và anh em Ngài

Cũng có chép ở  Mac 3:31-35 và  Lu 8:19-21. Lời đáp của Đức Chúa Jêsus ở đây dạy rằng dây liên lạc thiêng liêng còn mạnh hơn dây liên lạc xác thịt; và Ngài có ý tỏ rõ rằng mẹ Ngài không thân mật với Ngài hơn bất cứ người nào làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời.

Mat 13:1-53

 Các thí dụ về Nước

Thí dụ là một "cách nói ẩn ý mà rộng nghĩa," một sự so sánh, dùng sự tầm thường mà chứng minh những sự thiêng liêng. Nói lược qua, thí dụ là truyện tích dùng để chứng minh lẽ thật. Theo một phương diện, Đức Chúa Jêsus là Đấng hay kể truyện.

Ngài dùng thí dụ một phần như những lời nói tối nghĩa và dường như có hai nghĩa, để "giấu ít lâu chính điều Ngài muốn bày tỏ." Nước mà Đức Chúa Jêsus định thiết lập khác hẳn điều người ta mong đợi nơi Đấng Mê-si; vậy nên Ngài cần phải khéo léo lắm. Vậy, Ngài dùng những truyện tích nầy để chứng minh "căn nguyên, sự tấn triển, tánh chất hỗn hợp và sự hoàn tất" của Nước. Đối với chúng ta, những truyện tích nầy dường như rõ ràng lắm, song đối với kẻ trực tiếp nghe Ngài lúc đó, thì thật là khó hiểu,vì trí óc họ đang mải theo một quan niệm khác hẳn.

Khi giải nghĩa các thí dụ, vấn đề nêu lên là phải biết chi tiết nào quan trọng, và chi tiết nào chỉ là phần không có ý nghĩa nhưng cần thiết cho cốt truyện. Thường thì một thí dụ cốt để nêu lên một điểm, và không nên gò ép nó cho nảy ra những bài học đầy đủ chi tiết.

Theo nhiều ý kiến khác nhau, thì tổng số các thí dụ từ 27 đến 50. Có cái người nầy gọi là thí dụ (parabole), người khác lại gọi là ám ý (métaphore); tỉ như "chiên và dê,""nhà xây trên vầng đá và nhà xây trên cát," "cây đèn ở dưới cái thùng," "nỉ mới vá vào áo cũ," v.v... Người ta thường cho là có chừng 30 thí dụ. Một vài thí dụ rất giống nhau. Đức Chúa Jêsus dùng những truyện tích khác nhau để soi sáng cùng một điểm; có khi Ngài lại dùng cùng một truyện tích để soi sáng nhiều điểm khác nhau. Chắc có một vài thí dụ mà Chúa dùng tới cả trăm lần; nhưng Ngài không giống như một Mục sư ở một chi hội phải luôn cho cùng một nhóm người, mà giống như một vị Truyền đạo lưu hành giảng cho những nhóm người khác nhau, ngày nầy qua ngày khác.

Mat 13:1-23

 Thí dụ về người gieo giống

Cũng có chép ở  Mac 4:1-25 và  Lu 8:4-16. Hột giống là Lời Đức Chúa Trời. Linh hồn người ta được sanh ra bởi Lời Đức Chúa Trời (IPhi1:23), chớ không phải bởi những bài giảng vô vị như trấu khô. Thí dụ nầy là lời tiên tri về cách người ta tiếp nhận Tin Lành. có kẻ thậm chí không chịu nghe. Có kẻ chịu tiếp nhận nhưng chẳng bao lâu lại sa ngã. Có kẻ nắm lấy lâu hơn, nhưng lần lần mất hào hứng. Còn kẻ khác nắm vững mãi với nhiều trình độ khác nhau, và cuối cùng kết quả.

Mat 13:24-30,36-43,47-53

 Cỏ lùng và lưới bắt cá

Hai thí dụ có những điểm hơi khác nhau,song cùng tỏ ra rằng dầu trái đất được biến cải vì Tin Lành, nhưng kẻ xấu vẫn cứ tồn tại chung với người tốt cho đến kỳ tận thế, là lúc có sự phân rẽ sau cùng,kẻ ác đi vào số phận khốn cực, còn người công bình đi vào Nước vinh hiển đời đời.Đức Chúa Jêsus không có ảo tưởng rằng thế giới nầy sẽ trở nên một nước lý tưởng (utopie). Ngài biết rõ ràng, đầy đủ rằng cho đến cuối cùng, Tin Lành của Ngài sẽ bị một phần lớn thế giới chối bỏ. Ngài chỉ nhìn nhận hai hạng người:Người được cứu rỗi và kẻ bị hư mất. Nhiều lần, Ngài phán về tình cảnh khốn cực của kẻ bị hư mất, về họ "khóc lóc và nghiến răng." Chắc Ngài biết mình đang phán tỏ điều chi. Chúng ta tự hỏi tại sao loài người cứ tiến bước mà không để ý tới những cờ hiệu mà Đức Chúa Jêsus dường như đang hăm hở phất trước mặt họ đó.

Mat 13:31-33

 Hột cải và men

Cũng có chép ở  Mac 4:30-32 và  Lu 13:18-20. Hai thí dụ giống nhau, chứng minh Nước Đấng Christ khởi đầu nhỏ bé, rồi lần lần lớn lên không ngờ, cả trong cá nhân và trên thế giới; rốt lại, Nước Ngài mở mang rộng lớn, biến cải mọi chế độ, triết lý và chánh thể trên mặt đất.

Mat 13:44-46

 Của báu kín giấu và ngọc châu tốt

Đây là hai thí dụ về cùng một điều: Đấng Christ là quí giá vô cùng cho linh hồn người ta. Điều Đấng Christ hiến cho ta thì đáng cho ta từ bỏ mọi sự, cả đến mạng sống, để được điều ấy.

Nước

Hãy chú ý, sách Tin Lành Ma-thi-ơ rất hay dùng chữ "Nước":  Mat 3:2  Mat 4:17,23  Mat 5:3,10,19,20  Mat 6:10,33  Mat 7:21  Mat 8:11  Mat 9:35  Mat 10:7  Mat 11:11,12  Mat 12:28  Mat 13:11,24,33,43,44,45,47,52  Mat 16:19,28  Mat 18:23  Mat 19:12,14,23,24  Mat 20:1  Mat 21:31,43 Mat 22:2;  Mat 23:13 Mat 24:14  Mat 25:1,34  Mat 26:29.

Một nước chánh trị.--Họ đang trông mong một nước chánh trị trong đó dân Do-thái sẽ cai trị thế giới,dưới quyền Đấng Mê-si của họ. Hê-rốt đồng quan niệm ấy, nên đã tìm cách tiêu diệt Đức Chúa Jêsus lúc Ngài còn thơ ấu, vì ông nghĩ Nước Đấng Christ sẽ là địch thủ chánh trị của nước ông. Giăng Báp-tít cũng đồng quan điểm ấy, nên khi Đức Chúa Jêsus không chứng tỏ rằng Ngài là Vua dường ấy, thì ông bắt đầu nghi ngờ, không biết Ngài có phải là Đấng Mê-si chăng? (Mat 11:3). 12 Sứ đồ cũng đồng quan điểm ấy cho đến khi Đức Chúa Jêsus sống lại. Câu cuối cùng họ hỏi Đức Chúa Jêsus là:"Có phải trong lúc nầy Chúa sẽ lập lại nước Y-sơ-ra-ên chăng?" (Cong 1:6). Trí óc họ chăm chú vào nền độc lập chánh trị của xứ sở họ, chớ không chăm chú vào sự cứu rỗi đời đời của chính mình họ.

Nước mà Đức Chúa Jêsus đến để sáng lập là gì? Không phải một nước chánh trị, song là Chúa Trị Vì Trong Lòng Người Ta, rồi do lòng họ mà kiểm soát và thay đổi cuộc đời họ. Lòng người ta là nước mà Đức Chúa Jêsus ngự vào để trị vì. Ngài muốn làm cho cả loài người Kính Mến Ngài. Mà sao phải kính mến Ngài? Ấy là để thay đổi chúng ta ra giống như ảnh tượng Ngài và để khiến ta xứng đáng kết bạn đời đời với Đấng Tạo Hóa. Do sự yêu quí Ngài, tận tụy với Ngài và thờ lạy Ngài, sẽ nảy ra cả vẻ đẹp đẽ và sự yên ủi của đời sống, sự thay đổi tâm tánh và sự tái sanh linh hồn.

Chữ "Nước" dùng trong Tân Ước rất co giãn. Khi thì dường như chỉ về sự cai trị của Đức Chúa Trời trong lòng cá nhân. Khi thì chỉ về đời trị vì tổng quát của sự công bình ở giữa vòng loài người. Khi thì chỉ về Hội Thánh. Khi thì chỉ về giới tín đồ Đấng Christ. Khi thì chỉ về đời trị vì 1000 năm. Khi thì chỉ về Thiên đàng. Ý nghĩa căn bản của chữ nầy là Đức Chúa Jêsus cai trị trong lòng con cái Ngài trải qua mọi thời đại cho đến đời đời vô cùng. Nước có nhiều trạng thái và nhiều giai đoạn.Khi thì chữ "Nước" có thể chỉ đặc biệt về một trạng thái hoặc một giai đoạn nầy; khi thì chỉ về một trạng thái hoặc một giai đoạn khác.

Mat 13:54-58.

Thăm viếng thành Na-xa-rét.

 Xem ở  Mac 6:1-6.

Mat 14:1-12.

Giăng Báp-tít bị chém đầu.

Xem ở  Lu 3:1-20.

Mat 14:13-21.

Chúa cho 5000 người ăn no nê.

 Xem ở  Gi 6:1-15.

Mat 14:22-33.

Đức Chúa Jêsus đi bộ trên mặt nước.

 Xem ở  Gi 6:16-21.

Thời Gian Từ Lúc Chúa Cho 5000 Người Ăn No Nê

Tới Lúc Chúa Hóa Hình

Mat 14:34-16:12.

Xem ở  Mac 6:53.

Mat 14:34-36.

Các đoàn dân đông ở Ghê-nê-xa-rết.

 Xem ở  Mac 6:53.

Mat 15:1-20.

Người Pha-ri-si và sự bị ô uế.

 Xem ở  Mac 7:1-23.

Mat 15:21-28.

 Người đờn bà Ca-na-an.

Xem ở  Mac 7:24-30.

Mat 15:29-39.

 Chúa cho 4000 người ăn no nê.

 Xem ở  Mac 8:1-9.

Mat 16:1-12.

"Men của người Pha-ri-si".

 Xem ở  Mac 8:10-21.

Mat 16:13-20.

Lời xưng nhận của Phi-e-rơ.

Việc nầy cũng có chép ở  Mac 8:27-29 và  Lu 8:27-30. Phi-e-rơ tiếp nhận Đức Chúa Jêsus là Đấng Mê-si kể đã được 3 năm rồi (Gi 1:41,42). Một năm sau khi tiếp nhận, ông gọi Ngài là "Chúa" (Lu 5:8). Nửa năm sau nữa, ông gọi Ngài là "Đấng Thánh của Đức Chúa Trời" (Gi 6:68,69). Bây giờ, sau 2 năm rưỡi liên kết với Đức Chúa Jêsus, ông tỏ lòng tin quyết rằng Ngài là Đức Chúa Trời.

"Đá" (câu 18 -- nguyên văn là "Vầng Đá") trên đó Đấng Christ sẽ xây dựng Hội Thánh Ngài, chẳng phải là Phi-e-rơ đâu, nhưng là chơn lý mà ông mới tuyên xưng rằng Đức Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời. Thần tánh của Đức Chúa Jêsus là nền tảng trên đó Hội Thánh được kiến tạo, và là bản tín điều cốt yếu của giới tín đồ Đấng Christ. Đó là ý nghĩa của Lời Chúa phán đây, không sao lầm lẫn được.

"Chìa khóa Nước Thiên đàng"(câu 19). Nguyên văn là: "Các chìa khóa." Người ta thường giải thích câu nầy rằng Phi-e-rơ mở cửa cứu rỗi nhằm ngày lễ Ngũ tuần cho người Do-thái (Cong 2:1-47), và về sau cho các dân ngoại (10:1-48). Ấy chẳng có nghĩa rằng ông được Chúa ban cho quyền riêng để tha tội, nhưng có ý nghĩa ông được Chúa ban cho quyền riêng để tuyên bố những điều kiện tha thứ tội lỗi. Bất cứ Chúa ban quyền gì cho Phi-e-rơ, thì Ngài cũng ban quyền ấy cho các Sứ đồ khác (Mat 18:18  Gi 20:23).Và Ngài ban quyền ấy cho họ theo ý nghĩa tuyên cáo, chớ không phải theo ý nghĩa tuyệt đối. Trong Đấng Christ có sự thương xót và tha thứ cho mọi người. Chính Đấng Christ tha tội. Các Sứ đồ của Ngài đã được Đức Thánh Linh soi dẫn để tuyên cáo và ghi chép trong Tân Ước những điều kiện của sự tha thứ đó.

Phi-e-rơ không hề tự nhận mình cao trọng hơn các Sứ đồ khác. Ông và các Sứ đồ khác cũng không bao giờ tự nhận là mình tha thứ tội lỗi cho ai.

Chúng ta có thể tha thứ các tội lỗi mà kẻ khác phạm nghịch với mình. Hội Thánh có thể tha thứ các tội lỗi đã phạm nghịch cùng Hội Thánh. Nhưng chỉ Đức Chúa Trời mới có quyền thật tha thứ tội lỗi.

Trong Tân Ước không có chỗ nào chép rằng,hoặc thậm chí ngụ ý nói rằng quyền của Phi-e-rơ, bất cứ nó là gì, đã được truyền lại cho các Thủ lãnh kia. Bất cứ đoạn sách nầy có ý nghĩa gì cho các Sứ đồ, chắc cũng không ai được căn cứ vào đó để đòi có những đặc quyền mà Đấng Christ đã ban cho các Sứ đồ ấy. Đây tuyệt đối không có gì ủng hộ lời Giáo hội kia tự nhận rằng các phẩm chức của họ có quyền tha tội. Chỉ Đức Chúa Trời có quyền tha tội.Người nào hoặc nhóm người nào dám tự nhận có đặc quyền ấy, thì thật là không đúng với Kinh Thánh.

Mat 16:21-28.

Chúa dự ngôn sự thương khó của Ngài.

 Xem ở  Mac 9:30-32.

Mat 17:1-13.

Đức Chúa Jêsus hóa hình.

 Xem ở  Mac 9:2-13.

Mat 17:14-20.

Đứa trẻ bị kinh phong.

Xem ở  Mac 9:14-29.

Mat 17:22-23.

Chúa lại dự ngôn sự thương khó của Ngài.

 Xem ở  Mac 9:30-32.

Mat 17:24-27.

Tiền đóng thuế.

Đây là một thứ thuế đầu người thâu cho Đền thờ, mà mỗi người nam trên 20 tuổi phải đóng (Xu 30:11-15). Số tiền nầy bằng chừng 12 đồng Việt-nam. Là Chúa của Đền thờ, Đức Chúa Jêsus được miễn thuế nầy. Nhưng để người ta khỏi hiểu sai thái độ của Ngài đối với Đền thờ, nên Ngài nộp thuế ấy và đã nhờ một phép lạ mà có tiền.

Mat 18:1-6.

"Ai là lớn hơn hết?".

Xem ở  Lu 9:46-48.

Mat 18:7-14.

"Những cơ hội làm cho vấp phạm".

 Xem ở  Mac 9:41-50.

Mat 18:15-35.

Sự tha thứ.

 Một ta lâng (câu 24) đáng giá chừng 1000 Mỹ kim. Một đơ-ni-ê (câu 28) đáng giá 17 xu Mỹ (chừng 13 đồng Việt-nam). Người nầy được tha nợ 10 triệu Mỹ kim, nhưng lại không chịu tha nợ 17 Mỹ kim. Đó là cách Đức Chúa Jêsus so sánh những tội lỗi chúng ta phạm nghịch cùng Đức Chúa Trời với những tội lỗi mà kẻ khác phạm nghịch cùng chúng ta. Hãy chú ý lời Đức Chúa Jêsus tuyên bố quả quyết rằng nếu chúng ta không tha thứ, thì không thể nào được tha thứ (câu 35).

 

Chức Vụ Của Chúa Tại Xứ Pê-rê

(18:1-20:34 xem  Lu 9:51)

Mat 19:1-2.

Dời khỏi xứ Ga-li-lê.

Xem ở  Lu 9:51.

Mat 19:3-12.

Câu hỏi về sự ly dị.

Lời Đức Chúa Jêsus dạy về sự ly dị có chép ở đây và ở  5:31-32  Mac 10:2-12  Lu 16:18. Sứ đồ Phao-lô cũng giải luận vấn đề nầy ở I Cô-rinh-tô, đoạn 7. Một người nam và một người nữ trở nên vợ chồng trọn đời, -- đó là ý chỉ Đức Chúa Trời đối với loài người. Trong luật pháp Môi-se, Đức Chúa Trời cho phép một vài sự thỏa hiệp vì cớ loài người yếu đuối. Còn Đấng Christ dường như chỉ ưng chịu một lý do ly dị (câu 9); rồi sau Ngài sửa đổi lời tuyên bố ấy mà phán rằng: "Chẳng phải mọi người đều có thể lãnh được lời nầy" (câu 11).

Mat 19:13-15.

Con trẻ.

 Xem ở Lu 18:15-17.

Mat 19:16-30.

Vị quan trưởng trẻ tuổi và giàu có.

 Xem ở  Lu 18:18-30.

Mat 20:1-16.

Thí dụ về những người làm công trong vườn nho.

 Đây không có nghĩa là mọi người sẽ được đối xử như nhau trên Thiên đàng, hoặc sẽ chẳng có phần thưởng chi hết. Thí dụ về các ta-lâng (Mat 25:14-30) dường như dạy rõ rằng sẽ có phần thưởng. và Phao-lô cũng dạy như vậy (ICo 3:14-15). Đây là một trong những thí dụ mà ta không nên gò ép cho ra một bài học về mọi phương diện. Đây, Đức Chúa Jêsus chỉ có ý dạy một điều: Ấy là một số người tưởng mình đứng đầu trong thế gian nầy sẽ thấy mình đứng cuối ở Thiên đàng.Ngài phán điều ấy nhiều lần (Mat 19:30  20:16  Mac 10:31  Lu 13:30). Mực thước của Thiên đàng và mực thước của trần gian khác nhau đến nỗi nhiều tín đồ thấp hèn nhứt ở đời nầy, chỉ làm tôi mọi và tôi tớ, sẽ có địa vị cao quí nhứt trên Thiên đàng; và nhiều thủ lãnh cao trọng của Hội Thánh nếu được lên Thiên đàng,thì sẽ ở dưới những người đã làm tôi tớ mình trong đời nầy (xem thêm ở dưới 16:19-31).

Mat 20:17-19.

Chúa lại dự ngôn về sự thương khó của Ngài.

 Xem ở  Mac 9:30-32.

Mat 20:20-28.

Lời thỉnh cầu của Gia-cơ và Giăng.

 Điểm đáng buồn trong truyện tích nầy là phản ứng của họ đối với lời Đức Chúa Jêsus vừa mới báo cáo rằng Ngài đang đi đường lên Thập tự giá. Cả đến Giăng yêu dấu của Chúa cũng ích kỷ một cách mù quáng thay! Ông hiểu biết Chúa ít quá! Xem ở  Lu 9:46-48.

Mat 20:29-34.

Người mù thành ở Giê-ri-cô.

 Xem ở  Lu 18:35-43.

Tuần Lễ Cuối Cùng Của Đức Chúa Jêsus

(Mat 21:1-28:20)

Mat 21:1-11

 Chúa ngự vào thành Giê-ru-sa-lem cách khải hoàn

Cũng có chép ở  Mac 11:1-10  Lu 19:29-38  Gi 12:12-19. Việc nầy xảy ra nhằm Chúa nhật trước khi Đức Chúa Jêsus chịu chết. Ngài đã ngự đến với tư cách Đấng Mê-si được dự ngôn từ lâu. Trong 3 năm Ngài tự giới thiệu với nhân dân bởi luôn luôn du hành và làm phép lạ, lại cũng bởi những cuộc du hành và phép lạ của 12 Sứ đồ và 70 môn đồ. Ngài thừa biết những kẻ cầm quyền đã quyết định rằng Ngài phải chết. Ngài sẵn lòng chịu chết,và thì giờ của Ngài đã điểm. Ngài tung bỏ hết dè dặt theo gió bốn phương, và trong một cuộc biểu tình vĩ đại để báo cáo cho Thành Thánh lần cuối cùng, Ngài ngự vào Giê-ru-sa-lem giữa những tiếng "Ha-lê-lu-gia!" và "Hô-sa-na!" của đoàn dân đông đảo đang chờ mong. Đó là một cơ hội quan trọng đủ làm cho đá kêu vang lên (Lu 19:40). Dân chúng hoan hỉ. Họ tưởng giờ giải phóng đã tới rồi. Đức Chúa Jêsus cỡi lừa con, vì đã có dự ngôn rằng Đấng Mê-si, là Vua, sẽ ngự đến như vậy (Xa 9:9).

Mat 21:12-17

 Đức Chúa Jêsus dẹp sạch Đền thờ

Cũng có chép ở  Mac 11:15-18 và  Lu 19:45-47. Đây là ngày thứ hai. Ba năm trước, Ngài cũng đã làm việc nầy, lúc bắt đầu chức vụ công khai (xem lời chú giải ở  Gi 2:13-16). Những mối lợi lớn thâu được ở các sạp chợ trong khu vực Đền thờ, dọc theo cổng Sa-lô-môn, đã làm giàu cho gia đình thầy tế lễ thượng phẩm. Đức Chúa Jêsus bất bình phừng phừng vì chúng dùng Nhà của Đức Chúa Trời một cách bại hoại như vậy. Ngài biết ý định của chúng đối với Ngài, và với sự thản nhiên hoàn toàn, Ngài đố thách chúng, dường như cố quyết khêu ngòi chống đối của chúng. Hơn nữa, người ta trông mong Đấng Mê-si hành động như vậy (Ma 3:1-3). Xem thêm ở dưới  Gi 2:13-16.

Mat 21:18-22

 Đức Chúa Jêsus làm cho cây vả khô héo

Cũng có chép ở  Mac 11:15-18 và  Lu 19:45-47. Việc nầy nhằm buổi sáng ngày thứ hai, trong lúc Ngài đi từ làng Bê-tha-ni đến Giê-ru-sa-lem, theo đường qua núi Ô-li-ve. Sáng hôm sau, các môn đồ nhận thấy điều đó trong lúc đi vào thành Giê-ru-sa-lem. Rõ ràng lắm, buổi tối ngày thứ hai, Chúa đã từ Giê-ru-sa-lem đi về Bê-tha-ni, theo con đường vòng quanh chơn núi phía Nam.

Mat 21:23-27

 "Bởi quyền phép nào?"

Cũng có chép ở  Mac 11:27-33 và  Lu 20:1-8. "Ai cho Thầy quyền cai quản Thành Thánh và Đền thờ? Thầy là Ai?" Bọn cầm quyền giận dữ cay đắng vì dân chúng theo về phía Đức Chúa Jêsus, nên chúng tìm đủ cách có thể tưởng tượng để gài bẫy Ngài. Nhưng Ngài là một Nhà Biện chứng đại tài, và đã trả miếng mỗi câu hỏi của chúng, làm cho chúng bối rối.

Mat 21:28-32

 Thí dụ về hai con trai

Thí dụ nầy nhắm thẳng vào bọn thủ lãnh tôn giáo, tức là các thầy tế lễ cả, trưởng lão, thầy thông giáo và người Pha-ri-si vốn tự nhận là kẻ canh giữ dân Đức Chúa Trời. Họ đã chối bỏ Đức Chúa Jêsus. Nhưng thường dân lại vui vẻ tiếp nhận Ngài.

Mat 21:33-46

 Thí dụ về vườn nho

Cũng có chép ở  Mac 12:1-12 và  Lu 20:9-19. Thí dụ về hai con trai ở trên đây cốt nhắm vào bọn thủ lãnh của dân tộc Do-thái. Còn thí dụ nầy thì nhắm vào chính dân tộc Do-thái.

Mat 22:1-14

 Thí dụ về tiệc cưới

Đây là một thí dụ khác tỏ ra cùng một điều như trên, -- ấy là tuyển dân của Đức Chúa Trời đã đối xử với các sứ giả Ngài một cách đáng hổ thẹn, nên bây giờ bị loại bỏ, thủ đô của họ sẽ bị thiêu hủy,và các dân tộc khác sẽ được gọi vào. Đây cũng là một thí dụ có hai ý nghĩa, vì nó cảnh cáo những người mới tới rằng họ phải cẩn thận, kẻo lại chịu chung số phận ấy.

Mat 22:15-22.

Nộp thuế cho Sê-sa.

Xem ở  Mac 12:13-17.

Mat 22:23-33.

Sự sống lại.

 Xem ở  Mac 12:18-27.

Mat 22:34-40.

Điều răn lớn.

Xem ở  Mac 12:28-34.

Mat 22:41-46.

"Con vua Đa-vít".

Xem ở  Mac 12:35-37.

Mat 23:1-39

 Khốn thay cho các thầy thông giáo và người Pha-ri-si!

Trong các giáo phái đương thời Đức Chúa Jêsus, người Pha-ri-si đông nhứt, có thế lực và ảnh hưởng nhiều nhứt. Họ là những người chú trọng vào luật pháp rất nghiêm nhặt. Họ đại diện cho sự khắt khe vâng giữ văn tự và hình thức của luật pháp, và cũng đại diện cho cổ phong (các lời truyền khẩu). Trong vòng họ có một vài người tốt. Nhưng nói chung, họ nổi tiếng vì tham lam, vô tình, cậy sự công bình riêng và giả hình.

Các thầy thông giáo (hoặc: ký lục, thơ ký) là người chép Kinh Thánh. Vì họ biết luật pháp rất tỉ mỉ, nên được nhìn nhận là có thẩm quyền. Có khi họ cũng được gọi là "thầy dạy luật" (luật sư). Những người danh tiếng hơn hết đã mở trường dạy luật pháp. Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si là thủ lãnh tôn giáo của dân tộc Do-thái.

Những lời Đức Chúa Jêsus phán với họ đây là bản cáo giác gắt gao hơn hết mà môi miệng Ngài từng thốt ra. Ngài gọi họ là "loài rắn," là "dòng dõi rắn lục" (câu 33). Ngài không hề phán như vậy với các tội nhân, người thâu thuế và thường dân. Ngài là Người đạo đức hơn hết từng sống ở đời nầy. Nhưng linh hồn Ngài gớm ghét sự đạo đức giả là dường nào!

Bọn nầy không chết hết trong thế hệ ấy đâu. Trải qua bao nhiêu thế kỷ, Hội Thánh đã bị rủa sả vì có những thủ lãnh mô tả rất đúng trong sách Ma-thi-ơ, đoạn 23. Họ là bọn hành đạo nhà nghề mà chẳng có đạo đức chi hết, diễn hành trong bộ áo thánh, dạy kẻ khác những điều mà chính mình họ chẳng có và chẳng làm. Họ là bọn người lòe loẹt, tự cho là quan trọng, đi dạo quanh như vua chúa, giảng đạo mà chẳng có đạo chi hết.

 

Từ giã Đền thờ

Nhằm ngày thứ hai, Chúa đã dẹp sạch Đền thờ. Ngày thứ ba, sau khi cảnh cáo lần chót rằng bây giờ Nước Đức Chúa Trời bị cất khỏi người Do-thái mà ban cho các dân tộc khác, thì Đức Chúa Jêsus tố cáo khủng khiếp, và tỏ lòng thương xót thiết tha, rồi từ giã Đền thờ, không hề trở lại nữa, mặc nó cho bị phá hủy. Khi Chúa lìa khỏi Đền thờ, thì Ngài chấm dứt chức vụ công khai để bình tĩnh chờ đợi sự chết xảy đến cho Ngài 3 ngày sau.

 

Bài Diễn Giảng Quan Trọng Về Kỳ Sau Rốt

(Mat 24:1-25:46 cũng có chép ở  Mac 13:1-37 và  Lu 21:1-38)

Mat 24:1-44

 Thành Giê-ru-sa-lem sụp đổ, Chúa ngự đến và kỳ tận thế

Đức Chúa Jêsus giảng bài nầy sau khi lìa khỏi Đền thờ lần chót. Ngài giảng về thành Giê-ru-sa-lem bị hủy phá, về sự tái lâm của Ngài, và về kỳ tận thế. Khi thì Ngài phán về biến cố nầy, khi thì Ngài phán về biến cố kia. Một vài lời của Ngài lẫn lộn đến nỗi khó biết là Ngài phán về biến cố nào đó. Có lẽ Ngài cố ý làm cho lẫn lộn như vậy. Hoặc có lẽ đây chỉ là lược thuật một bài giảng dài hơn bội phần. Dường như rõ ràng rằng Ngài nghĩ đến hai biến cố đặc biệt cách nhau một thời gian, và được chỉ rõ bởi chữ "kia" ở  Mat 24:34 và "ngày đó" ở  24:36. Có người lại giải thích mấy chữ "dòng dõi nầy" (Mat 24:34) là dân tộc nầy, tức là chủng tộc Do-thái sẽ không qua đi trước khi Chúa ngự đến. Quan điểm thông thường hơn là Chúa có ý phán rằng thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị hủy diệt đương thời những người nghe đó còn sống. Một người nhìn hai ngọn núi ở đằng xa, ngọn nọ ở sau ngọn kia, thì hai ngọn dường như gần nhau, mặc dầu hai ngọn có lẽ cách nhau xa lắm.Cũng một thể ấy, dưới tầm mắt của Đức Chúa Jêsus, hai biến cố nầy gần nhau (vì biến cố nầy giống biến cố kia về nhiều phương diện), mặc dầu thật cách nhau một thời gian dài. Điều Ngài phán trong một câu có thể gồm cả một thời đại. Điều xảy đến trong trường hợp nầy có thể là "bắt đầu ứng nghiệm" điều sẽ xảy đến trong trường hợp khác.

Những lời Ngài phán về thành Giê-ru-sa-lem đã được ứng nghiệm từng chữ, từng tiếng trong vòng 40 năm sau. Những lâu đài, dinh thự xây bằng cẩm thạch và bằng vàng, từ xa, "trông như ngọn núi phủ tuyết," đã bị hủy phá trơn trọi bởi quân đội La-mã, năm 70 S.C., đến nỗi sử gia Josèphe nói rằng trông nó giống như một vị trí chưa từng có người ở (xem ở dưới Hê-bơ-rơ, đoạn 13).

 

Sự tái lâm của Ngài

Phần lớn của bài giảng nầy cốt luận về đề mục: "Sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus." Ngài chỉ còn cách sự chết có 3 ngày, và biết các môn đồ sẽ kinh hoảng đến nỗi mất gần hết đức tin nơi Ngài và nơi Nước Ngài; vậy nên Ngài chịu khó giải thích cho họ rằng hy vọng của họ sẽ được thực hiện một cách bội phần vĩ đại hơn là họ từng mơ tưởng.

Tư tưởng của Đức Chúa Jêsus chú trọng nhiều vào sự tái lâm của Ngài:--

"Khi Con người ngự trong sự vinh hiển mình mà đến với các thiên sứ thánh..." (Mat 25:31).

"Con người sẽ ngự trong sự vinh hiển của Cha mình mà giáng xuống cùng các thiên sứ, lúc đó, Ngài sẽ thưởng cho từng người, tùy việc họ làm" (Mat 16:27).

"Như chớp phát ra từ phương Đông,nhoáng đến phương Tây, thì sự Con người đến cũng sẽ thể ấy" (Mat 24:27).

"Trong đời Nô-ê thể nào, khi Con người đến cũng thể ấy" (Mat 24:37).

"Việc đã xảy ra trong đời Lót cũng vậy,... ngày Con người hiện ra cũng một thể ấy" (Mat 17:28-30).

"Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con người dùng đại quyền, đại vinh mà ngự đến trên đám mây" (Lu 21:27).

"Hễ ai hổ thẹn về Ta và đạo Ta,thì Con người sẽ hổ thẹn về kẻ ấy, khi ngự trong sự vinh hiển của Cha Ngài mà đến với các thiên sứ thánh" (Mac 8:38).

"Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ,... rồi Ta sẽ trở lại, đem các ngươi đi với Ta" (Gi 14:2-3).

Sự tái lâm của Ngài sẽ được báo bởi "tiếng kèn rất lớn" (Mat 24:31), cũng như ngày xưa, nhân dân được thâu nhóm bởi tiếng kèn vậy (Xu 19:13,16,19). Khi luận về sự sống lại, Sứ đồ Phao-lô cũng nhắc lại mấy chữ ấy: "Kèn sẽ thổi" (ICo 15:52), và ở thơ  ITe 4:16, ông nói rằng: "Sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên sứ lớn,cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống."Vậy, tỏ ra có lẽ không phải chỉ là một cách nói bóng mà thôi. Đây là một biến cố lịch sử vĩ đại, thật có và thình lình, trong đó Ngài thâu nhóm những kẻ thuộc về Ngài từ giữa vòng người sống và người chết, tiếp họ lên với Ngài, với một mực độ vĩ đại, tối thượng.

Nào Ngài ngự đến đoán phạt thành Giê-ru-sa-lem năm 70 S.C; nào Đức Thánh Linh giáng lâm trong ngày lễ Ngũ tuần (các Sứ đồ không nghĩ rằng Đức Chúa Jêsus đã ngự đến trong ngày lễ Ngũ tuần, vì lâu năm sau ngày lễ ấy, họ vẫn còn trông đợi Ngài ngự đến); nào Ngài ngự đến với con cái Ngài rất nhiều lần, trong những bước từng trải mới mẻ; nào chúng ta đi đến cùng Ngài khi qua đời, -- không một biến cố nào trong mọi biến cố đó có thể làm cạn ý nghĩa của lời Đức Chúa Jêsus phán về Ngài tái lâm.

Tốt nhứt là đừng quá độc đoán đối với một vài biến cố kèm theo sự tái lâm của Ngài. Nhưng nếu lời nói là môi giới của tư tưởng, thì ta phải cắt nghĩa và giải thích nhiều lắm, mới có thể rút ra từ lời Đức Chúa Jêsus phán một điều chi khác với điều nầy: Ấy là chính Ngài trông đợi ngày Ngài sẽ tái lâm như một biến cố lịch sử rõ rệt, và khi ấy, chính Ngài sẽ thật hiện ra (không phải trong thân thể xác thịt, nhưng trong thân thể vinh hiển)để thâu nhóm mọi người đã được cứu chuộc bởi Huyết Ngài về ở với Ngài trong nơi vinh hiển đời đời.

Tốt nhứt là đừng làm lu mờ cái hy vọng Ngài tái lâm bởi một lý thuyết tỉ mỉ quá về sẽ có gì xảy ra khi Ngài ngự đến.Chúng tôi ngờ rằng có một số người sẽ thất vọng kinh khủng trong trường hợp Đức Chúa Jêsus không làm theo đúng chương trình mà họ đã hoạch định cho Ngài.

Người ta thuật rằng Nữ hoàng Victoria,nước Anh, chịu cảm động sâu xa bởi bài giảng của ông F.W. Farrar về Chúa tái lâm, nên đã nói với ông rằng: "Ông Farrar yêu dấu ơi, tôi mong còn sống khi Đức Chúa Jêsus tái lâm, để có thể đặt vương miện nước Anh dưới chơn Ngài."

Mat 24:45-51.

Các tôi tớ trung tín và khôn ngoan.

Từ đây trở đi, bài giảng của Đức Chúa Jêsus chuyên khuyên bảo tín đồ phải tỉnh thức. Sự tái lâm của Ngài chiếm địa vị cao nhứt trong tư tưởng Ngài. Nó cũng đáng phải chiếm địa vị cao nhứt trong tư tưởng của chúng ta.

Mat 25:1-13.

Thí dụ về 10 nữ đồng trinh.

Thí dụ nầy chỉ cốt tỏ ra một điều, ấy là trí óc chúng ta phải chuyên chú vào Chúa và ta phải sẵn sàng khi Ngài ngự đến. Người "khôn" dự bị cho trường hợp Ngài "đến trễ" (câu 5).

Mat 25:14-30.

Thí dụ về các ta lâng.

Cũng như thí dụ về các nén bạc (Lu 19:11-27), thí dụ nầy có nghĩa rằng chúng ta đang được huấn luyện để phục vụ cao trọng hơn trong một chế độ tương lai, và địa vị của ta ở đó tùy thuộc cách ta trung tín quản lý cho Chúa trong cõi đời nầy.

Mat 25:31-46.

Cảnh tượng phán xét sau cùng.

 Đây là một trong những khúc sách tuyệt diệu của cả Kinh Thánh,là một bức tranh cụ thể tỏ ra thể nào sự từ ái thông thường sẽ có ảnh hưởng đến địa vị của chúng ta trong cõi đời đời.

Mat 26:1-5.

Mưu giết Đức Chúa Jêsus.

Xem ở  Mac 14:1-2.

Mat 26:6-13.

Chúa được xức dầu tại Bê-tha-ni.

 Xem ở  Mac 14:3-9.

Mat 26:14-16.

Giu-đa hỏi giá bán Chúa.

 Xem ở  Mac 14:10-11.

Mat 26:17-29

 Bữa tối cuối cùng

Cũng có chép ở  Mac 14:12-25  Lu 22:7-38  Gi 13:1-14:31. Đây là đêm trước khi Ngài chịu chết. Có hai bữa tối: Bữa tối lễ Vượt qua và bữa tối của Chúa (Tiệc Thánh). Tiệc Thánh được thiết lập khi đã ăn xong bữa tối lễ Vượt qua. Lu-ca ghi chép hai chén (Mat 22:17-20).Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca chép cả hai bữa tối. Còn Giăng chỉ chép có lễ Vượt qua.

Trải qua 14 thế kỷ, lễ Vượt qua chỉ bóng về Chiên Con Lễ Vượt qua sẽ hiện đến. Đức Chúa Jêsus ăn Lễ Vượt qua, và thiết lập Tiệc Thánh thay cho lễ ấy, rồi chính mình Ngài bị giết với tư cách Chiên Con của Lễ Vượt qua. Đức Chúa Jêsus trút linh hồn trên cây Thập tự nhằm chính ngày mà các chiên con Lễ Vượt qua bị giết trong Đền thờ.

Lễ Vượt qua đã đạt tới mục đích của nó và bây giờ nó nhường chỗ cho Bữa Tối Kỷ niệm Mới mẻ (Tiệc Thánh) mà ta dự để tưởng nhớ Đức Chúa Jêsus cho đến khi Ngài tái lâm (ICo 11:26).

Lễ Vượt qua khiến người ta nhớ lại sự giải phóng khỏi Ai-cập và tưởng tới sự ngự đến của Đấng Mê-si thể nào, thì cũng một thể ấy, Tiệc Thánh khiến chúng ta nhớ lại Đức Chúa Jêsus chịu chết để giải phóng ta khỏi tội lỗi và tưởng đến Ngài sẽ tái lâm trong vinh quang.

Hơi khó tìm ra thứ tự các chi tiết trong bữa tối nầy. Ma-thi-ơ và Mác dường như đặt Tiệc Thánh ở sau lúc Giu-đa đã đi ra. Lu-ca dường như nói rằng Giu-đa có mặt ở đó. Giăng chép về sự tranh giành giữa các Sứ đồ trước. Lu-ca lại chép sự tranh giành nầy sau Tiệc Thánh.Rõ ràng lắm, trong khi sắp đặt các chi tiết, các tác giả đã được dắt dẫn bởi những sự nhận xét khác với thứ tự các chi tiết ấy xảy ra. Dưới đây là thứ tự có lẽ đúng:

1.-- Các Sứ đồ tranh giành địa vị cao trọng. Đức Chúa Jêsus rửa chơn cho họ.

2.-- Đức Chúa Jêsus báo tin Ngài sẽ bị phản nộp. Ai nấy hỏi rằng: "Có phải tôi chăng?"

3.-- Chúa cho Giu-đa miếng bánh nhúng.Hắn hỏi: "Có phải tôi chăng?", rồi đi ra.

4.-- Thiết lập Tiệc Thánh.

5.-- "Điều răn mới" và những lời êm ái ở sách  Gi 14:1-31.

 

Chén

Năm 1910, giữa đống hoang tàn của một đại giáo đường ở vị trí thánh An-ti-ốt thời xưa, người ta tìm thấy một cái chén,bên trong lại có một cái chén nữa. Các nhà học giả có thẩm quyền cho rằng đó có thể là chính cái chén mà Đức Chúa Jêsus đã dùng trong đêm thánh đó. Cái chén bên trong bằng bạc, không chạm trổ chi hết. Cái chén bên ngoài cũng bằng bạc,nhưng chạm trổ tuyệt xảo 12 hình người, tức là Đấng Christ và các Sứ đồ. Tay mặt của Chúa đụng tới một dĩa có 5 ổ bánh và 2 con cá. Bên kia dĩa có con bò câu;bên cạnh Chúa có con chiên con và những cây nho. Hết thảy là biểu hiện của đạo Đấng Christ. Rõ ràng lắm, cái chén bên ngoài dùng để giữ cái chén bên trong, là một vật thánh và quí báu, lâu đời hơn cái chén bên ngoài. Người ta cho là mỹ thuật và thủ công thuộc về thế kỷ thứ nhứt. Theo ý kiến nhiều người, thì Bữa Tối Cuối cùng có lẽ đã dọn trong nhà thân mẫu của Mác. Mác thường ghé thăm thành An-ti-ốt. Sau khi Giê-ru-sa-lem bị hủy phá, thì An-ti-ốt trở thành trung tâm chánh yếu của đạo Đấng Christ. Không có gì tự nhiên hơn là vật quí báu vô biên cho tín đồ Đấng Christ nầy đã được gìn giữ trong nhà thờ chánh của thành An-ti-ốt;đến khi nhà thờ nầy bị phá hủy, thì vật ấy đã bị vùi trong đống hoang tàn cho đến khi tìm được cách đây ít lâu. Cái chén nầy thuộc quyền sở hữu của ông Fahim Kouchakji, ở Nữu-ước.

Mat 26:30-46.

Chúa hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-nê.

 Xem ở  Lu 22:39-46.

Mat 26:47-56.

Chúa bị phản nộp và bị bắt.

 Xem ở  Gi 18:1-12.

Mat 26:57-68.

Trước mặt thầy tế lễ thượng phẩm.

 Xem ở  Mac 14:53.

Mat 26:69-75.

Phi-e-rơ chối Chúa.

Xem ở  Gi 18:15-27.

Mat 27:1-2.

Đức Chúa Jêsus chánh thức bị lên án.

 Xem ở  Mac 14:53.

Mat 27:3-10.

Giu-đa tự sát.

Xem ở  Mac 14:10-11.

Mat 27:11-25.

Cuộc xét xử trước mặt Phi-lát

Về lời chú giải các giai đoạn kế tiếp nhau trong vụ xét xử Đức Chúa Jêsus, xin xem ở dưới  Mac 14:53.

Phi-lát là quan Thống đốc La-mã cai trị xứ Giu-đê (26-37 S.C.). Ông nhận chức vào khoảng Đức Chúa Jêsus bắt đầu thi hành chức vụ công khai. Ông có trú sở chánh thức tại thành Sê-sa-rê. Ông đến Giê-ru-sa-lem những khi có kỳ lễ để duy trì trật tự. Ông không có lòng thương xót, song tàn ác, và nổi tiếng vì quen thói hung bạo. Như các hoàng đế La-mã đương thời mình, ông hơi vui thích trước cảnh tượng một người bị tra tấn và xử tử. Có lần ông đã trộn huyết của mấy người Ga-li-lê với tế vật của họ (Lu 13:1).

Một trong những bức tranh kỳ lạ hơn hết của lịch sử là sự cảm xúc mà Đức Chúa Jêsus đã khơi trong quan Thống đốc La-mã có lòng cứng cỏi nầy. Hoặc Đức Chúa Jêsus đứng hiên ngang và đẹp đẽ theo như một truyền thoại đã kể, hay là Ngài khom vao xuống và xấu xí theo như một truyền thoại khác đã kể, nhưng trong vẻ mặt và dáng điệu của Ngài có một cái gì thiên thượng và oai nghi đến nỗi dầu Ngài đang mặc áo vua giả mạo, đội vương miện bằng gai trên đầu, và máu chảy ròng ròng trên mặt, Phi-lát cũng không xây mặt khỏi Ngài được.

Sự cố gắng của Phi-lát để cứu Đức Chúa Jêsus khỏi bị đóng đinh vào Thập tự giá, thật là một truyện đáng thương hại.Ông không muốn Ngài phải chết. Ông kêu gọi từ các quan trưởng Do-thái tới Hê-rốt:rồi từ Hê-rốt trở lại các quan trưởng; rồi từ quan trưởng đến đoàn dân đông đảo.Tới khi đoàn dân đông đảo xây qua nghịch cùng Đức Chúa Jêsus, thì ông kêu gọi lòng thương xót của họ bằng cách truyền lịnh đánh đòn Ngài, vì hy vọng rằng họ sẽ hài lòng khi thấy Ngài bị hình phạt một phần nào, chớ không đòi hỏi Ngài phải đi trọn đường chịu đóng đinh vào Thập tự giá. Khi biện pháp đó thất bại, thì ông không dám quyết định đóng đinh Đức Chúa Jêsus vào Thập tự giá cho đến khi dân Do-thái dọa mách ông với Sê-sa (hoàng đế La-mã). Rốt lại, khi ông bắt đầu lo sợ có thể mất địa vị Thống đốc xứ Giu-đê, thì ông mới bằng lòng cho chúng giết Đức Chúa Jêsus.

Sáu năm sau, Phi-lát bị triệu về La-mã để xét xử vì đã vô cớ tàn sát một nhóm người Sa-ma-ri; truyền rằng ông đã tự tử.Theo truyền thoại, thì vợ Phi-lát, là Pờ-rô-qui-la, đã trở lại tin theo Đấng Christ.

"Xin Huyết Người lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi!" (câu 25). Lời nầy đã được ứng nghiệm khủng khiếp biết bao!

Mat 27:26

 Đức Chúa Jêsus bị đánh đòn

Sự đánh đòn thường có trước khi xử tử.Trong trường hợp nầy, dường như Phi-lát đã hy vọng rằng đoàn dân đông coi sự đánh đòn Chúa là hình phạt đủ rồi. Thời ấy, họ đánh đòn với một cái roi làm bằng nhiều dây da có cột những miếng chì hoặc kim khí sắc bén. Nạn nhân bị lột áo tới ngang mình, bị trói lom khom vào một cái cột, rồi họ dùng roi ấy đánh đòn lưng trần cho đến khi thịt rách tươm. Có khi vì đòn mà chết.

Mat 27:27-31

 Đức Chúa Jêsus bị nhạo báng

Trong lúc xét xử, người Do-thái đã nhạo báng Ngài (Lu 22:63-65). Hê-rốt và quân lính ông đã chế giễu Ngài (Lu 23:11).Bây giờ tới phiên quân lính của Phi-lát nhạo báng Ngài. Sau đó ít lâu, khi Ngài đã bị đóng đinh trên Thập tự giá rồi, thì các thầy tế lễ cả, trưởng lão, thầy thông giáo và quân lính cũng chế giễu Ngài (Mat 27:39-43). Đối với tâm trí tàn ác của chúng, đó là một cảnh tượng vĩ đại, vì họ được thấy Người tự xưng là Con Đức Chúa Trời phải chịu sỉ nhục và khổ hình như vậy.

Mat 27:32

 Si-môn quê ở thành Sy-ren

Sách  Gi 19:17 có chép rằng Đức Chúa Jêsus bước ra, vác Thập tự giá. Ngài bị kiệt sức vì suốt đêm hấp hối và bị đánh đòn, nên chưa đi được bao xa, thì đã hoặc đã bị té dưới Thập tự giá, hoặc yếu quá, không vác được xa hơn nữa. Bấy giờ Si-môn bị chúng bắt phải vác giúp Ngài.Chúng ta ít biết về Si-môn. Nhưng trên Thiên đàng, suốt cả cõi đời đời, ông sẽ tự hào biết bao vì nghĩ rằng mình đã vác Thập tự giá giúp Đức Chúa Jêsus!

Mat 27:33

 Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên Thập tự giá

Cũng xem  Mac 15:21-41  Lu 23:32-43 và Gi 19:17-30.

 

Sự tối tăm

Suốt 3 giờ (câu 45), cõi thiên nhiên vô tri giác đã giấu mặt vì xấu hổ trước sự gian ác khôn tả xiết của loài người.Cũng có lẽ cõi thiên nhiên đã muốn tỏ thiện cảm với Con Đức Chúa Trời trong cuộc tranh đấu chung kết chí tử của Ngài với các quyền lực của địa ngục. Có lẽ Đức Chúa Trời định dùng sự tối tăm nầy tượng trưng cho cõi thiên nhiên để tang Đức Chúa Jêsus đang khi Ngài chịu khổ hình để cứu chuộc loài người hư mất. Đức Chúa Jêsus trút linh hồn chính giờ các chiên con Lễ Vượt qua được dâng lên trong Đền thờ.

 

Động đất

Có cơn động đất, các vầng đá nứt bể, và mồ mả mở ra (câu 51-55); đó là Đức Chúa Trời chào mừng Cứu Chúa đã toàn thắng.Bức màn trong Đền thờ xé hai (câu 51) là cách chính Đức Chúa Trời tuyên cáo rằng bởi sự chết của Đấng Christ, không còn chi phân cách Đức Chúa Trời với loài người nữa (He 9:8). Các thánh đồ sống lại (câu 52-53) là chứng cớ và đảm bảo của Đức Chúa Trời rằng quyền phép của sự chết đã bị hủy phá. Hãy chú ý: Cả đến viên bách nhân đội trưởng, là sĩ quan chỉ huy bọn lính La-mã đóng đinh Đức Chúa Jêsus vào Thập tự giá, cũng tin quyết rằng Ngài thật là Con Đức Chúa Trời (câu 54).

Mat 27:57-61.

Sự chôn Chúa.

Xem ở  Gi 19:38-42.

Mat 27:62-66.

Niêm phong phần mộ của Chúa.

 Xem ở  28:11-15.

 

"Ngày thứ ba"

"Ngày thứ ba" (câu 64) dùng đây cũng giống như "khỏi ba ngày" (câu 63). Theo cách tính của người Hê-bơ-rơ, thì những phần ngày vào lúc khởi đầu và lúc kết liễu, đều kể là những ngày trọn (Et 4:16  5:1). "Ba ngày ba đêm" (Mat 12:40) -- một cách nói dài để chỉ về "ba ngày" (xem thêm  ISa 30:12-13) --, "sau ba ngày" (Mac 8:31  10:34  Gi 2:19) và "đến ngày thứ ba" (Mat 16:21  17:23  20:19  Lu 9:22  Mat 24:7,21,46), đều là những cách nói chỉ về thời gian Đức Chúa Jêsus ở trong mồ mả, tức là từ chiều ngày thứ sáu đến sáng Chúa nhật (ngày thứ nhứt).

Mat 28:1-8

 Mấy bà thăm phần mộ Chúa

Việc nầy có chép trong cả 4 sách Tin Lành (Mac 16:1-8  Lu 24:1-11  Gi 20:1-3). Ma-ri Ma-đơ-len được ghi tên trong cả 4 sách. Ma-ri là mẹ của Gia-cơ và Giô-sê, cũng gọi là "Ma-ri khác"(Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca). Sa-lô-mê là mẹ của Gia-cơ và Giăng (Mác). Gian-nơ là vợ quan nội vụ của vua Hê-rốt (Lu-ca). Và "các đờn bà khác." Hết thảy là 6 người, hoặc có thể là 12 người và hơn nữa. Họ đem theo thuốc thơm để hoàn tất sự xức xác Ngài ngõ hầu an táng vĩnh viễn, và chẳng mảy may suy nghĩ rằng Ngài sống lại.

"Lúc tưng tưng sáng"(Ma-thi-ơ). "Sáng sớm, mặt trời mới mọc" (Mác). "Khi mờ sáng" (Lu-ca). "Lúc rạng đông, trời còn mờ mờ" (Giăng). Rõ ràng lắm, mấy cách ghi thì giờ khác nhau nầy có nghĩa rằng các bà đi ra lúc trời còn tối, và đến mộ phần vào khoảng mặt trời mọc. Họ ở làng Bê-tha-ni hoặc thành Giê-ru-sa-lem,cách phần mộ 1, 2 dặm, hoặc hơn nữa.

"Thiên sứ" ngồi trên vầng đá (Ma-thi-ơ). "Một người trẻ tuổi" ngồi trong phần mộ (Mác). "Hai vị thiên sứ" ngồi trong phần mộ (Giăng). Mấy lời khác nhau nầy chỉ có nghĩa rằng các thiên sứ mượn hình người, đang chờ ở phía ngoài phần mộ để đón chào các bà, rồi dẫn họ vào phía trong mà giải thích rằng Đức Chúa Jêsus đã sống lại rồi. Có lúc họ thấy hai thiên sứ, và có lúc chỉ thấy một. Có lẽ buổi sáng đó có muôn triệu thiên sứ bay là là trên phần mộ, chờ nghinh đón Cứu Chúa phục sanh, vì đó là một lúc toàn thắng trong sử ký của Thiên đàng. Các thiên sứ sẽ phụ trách sự sống lại toàn thể (Mat 24:31). Xem lời chú giải về "Thiên sứ"ở dưới  4:11.

"Sau ngày Sa-bát" (câu 1).Nói thật đúng, thì ngày Sa-bát kể từ lúc mặt trời lặn hôm trước tới lúc mặt trời lặn hôm sau. Nhưng theo cách dùng thông thường, như ở đây, thì nó kéo dài tới đêm khuya, và được chỉ rõ bởi lời nầy: "Khi bắt đầu hừng đông qua ngày thứ nhứt của tuần lễ" (theo nguyên văn). Có người cho rằng đây có nghĩa là các bà đi đến phần mộ nhằm buổi tối ngày thứ bảy, rồi lại đến nữa, nhằm sáng Chúa nhựt.

"Đất rúng động dữ dội" (câu 2). Cũng đã có động đất khi Đức Chúa Jêsus trút linh hồn trên cây Thập tự (Mat 27:51), và khi ban bố luật pháp tên núi Si-na-i (Xuất  Xu 19:16,18). Đó là một cách Đức Chúa Trời kêu gọi người ta chú ý vào những biến cố trọng đại.

Mat 28:9-10

 Đức Chúa Jêsus hiện ra với các bà

Do xem xét bài tường thuật trong các sách Tin Lành khác, chúng ta nhận thấy rằng giữa khoảng câu 8 và câu 9, mấy bà đã đi báo tin cho các môn đồ, rồi trở lại phần mộ; trong khoảng thì giờ đó,Phi-e-rơ và Giăng đã chạy tới phần mộ, rồi lại đi. Bấy giờ Ma-ri Ma-đơ-len chạy trước các bà kia, tới phần mộ một mình, và Đức Chúa Jêsus hiện ra với bà. Sau đó ít lâu, Ngài hiện ra với các bà kia. Xem ở dưới sách Mác, đoạn 16, mục "Thứ tự các Biến cố." Như vậy, hai lần hiện ra đầu tiên của Đức Chúa Jêsus dành cho phụ nữ. Tội lỗi do người đờn bà mà xen vào. Cũng do người đờn bà, không có đờn ông giúp đỡ, mà Cứu Chúa hiện đến. Và sau khi thắng tội lỗi, Đấng Cứu chuộc toàn thắng đã hiện ra với phụ nữ trước nhứt.

"Đi qua xứ Ga-li-lê" (câu 7,10). Họ chờ đợi một tuần lễ, cho đến khi xong lễ Vượt qua, rồi mới trở về xứ Ga-li-lê.

Mat 28:11-15

 Hối lộ bọn lính canh

Theo lời yêu cầu của tòa Công luận, bọn lính được đặt ở mộ phần Đức Chúa Jêsus để đề phòng có ai đánh cắp thi hài Ngài chăng. Bọn lính khủng khiếp trước cơn động đất cùng vị thiên sứ, và vì thi hài Đức Chúa Jêsus đã biến mất, bèn chạy đi báo với tòa Công luận. Tòa Công luận bèn hối lộ chúng để nói rằng mình đã ngủ quên (theo kỷ luật quân đội La-mã, người lính gác ngủ quên phải bị tử hình). Họ cũng nói rằng nếu cần, họ sẽ khuyên giải(1) (bằng cách hối lộ) Phi-lát để che chở chúng. Sự hiểu biết (trong nội bộ) việc xảy ra ở mồ mả chắc có liên quan tới sự hối cải của "rất nhiều thầy tế lễ"sau đó ít lâu (Cong 6:7).

Chiều hôm đó, Đức Chúa Jêsus hiện ra với hai môn đồ (Lu 24:13-32).

Và với Phi-e-rơ cũng vào khoảng ấy (Lu 24:34).

Và buổi tối, Ngài hiện ra với 11 sứ đồ (Gi 20:19-25).

Một tuần sau, Ngài hiện ra với 11 sứ đồ tại thành Giê-ru-sa-lem (Gi 20:26-29).

Sau đó ít lâu, Ngài hiện ra với 7 sứ đồ (Gi 21:1-25).

Và Ngài hiện ra với Gia-cơ nhằm một thì giờ và tại một chỗ mà ta không biết (ICo 15:7).

Mat 28:16-20

 Đức Chúa Jêsus hiện ra với 11 Sứ đồ

Trên một hòn núi thuộc xứ Ga-li-lê,theo lời Ngài hẹn trước (26:32  28:7). Người ta cho rằng đây là cơ hội "hơn 500 anh em" có mặt (ICo 15:6). "Sứ mạng trọng đại" được chép đại cương 4 lần (xem ở  Mac 16:14-18). "Làm lễ báp-têm cho họ"(câu 19) là mạng lịnh trực tiếp của Đức Chúa Jêsus, và là lời Ngài phê chuẩn lễ báp-têm đẹp đẽ trong đạo Đấng Christ (xem ở  Cong 8:36-39).

"Ta thường ở cùng các ngươi luôn" (câu 20). Đây là câu chúng ta ưa thích nhứt trong cả Kinh Thánh. Đức Chúa Jêsus sống lại và không hề chết nữa. Hiện nay Ngài SỐNG, và ở cùng con cái Ngài luôn, tỏ quyền phép để dắt dẫn và che chở họ.

Chẳng những Ngài là Tổng tư lịnh một tổ chức lớn lao gồm các thiên sứ và thiên sứ trưởng. Ngài thật là như vậy. Chúng tôi tin có thiên sứ hộ vệ tín đồ. Nhưng còn hơn nữa. Vị Tổng tư lịnh các đạo thiên binh cũng đặc biệt chú ý tới và đặc biệt ở với mỗi con cái Ngài luôn luôn.

Chúng ta không hiểu thể nào một Đấng lại có thể đồng thời ở cùng hàng triệu, hàng tỉ người. Nhưng Đấng nầy là Đức Chúa Trời. Và Đức Chúa Jêsus phán điều đó bằng lời lẽ rõ ràng hơn hết: "Ta Thường ở Cùng Các Ngươi Luôn." Đức Chúa Jêsus đã phán lời đó, và Ngài chẳng dùng những lời vô ích đâu. Ngài chẳng phán chỉ để mà phán suông thôi. Khi phán như vậy, thì Ngài có ý bày tỏ một điều gì. Chúng ta tin rằng Ngài ở với mỗi người chúng ta theo một ý nghĩa thiết thực, vượt quá sự hiểu biết của ta, một cách thần bí nhưng hiển nhiên.

Bất cứ chúng ta yếu đuối, hoặc hèn hạ,hoặc thấp thỏi chừng nào, Ngài vẫn là Thiết hữu của ta. Ta không thể thấy Ngài, nhưng Ngài có đó. Chính lúc nầy. Ban đêm, đang khi ta ngủ. Ngày mai, đang khi chúng ta làm việc. Tuần lễ sau. Năm tới. Ngài che chở ta dưới bóng Ngài trọn đời. Ngài đi bên cạnh ta. Do sự chăm chút từ ái, Ngài canh chừng mỗi một chi tiết trong cuộc tranh đấu đáng thương của đời người, và lấy lòng nhịn nhục mà dẫn dắt chúng ta lên nơi hạnh phước bất diệt trong Nhà Cha Ngài. Mọi sự nầy giống như một giấc mộng đẹp. Nhưng đó là một Thực Sự, -- thực sự căn bản duy nhứt của đời chúng ta.

Sau đó, Đức Chúa Jêsus còn hiện ra một lần nữa (Lu 24:44-51)."