Đương nhiên, Đức Chúa Trời Ba Ngôi không phải là một từ ngữ của Kinh Thánh. Những chữ Ba Ngôi Hiệp Một, Ba Ngôi, thuộc về ba ngôi, bản thể, thể yếu cũng không phải là những từ ngữ của Kinh Thánh. Tuy nhiên, chúng ta dùng chúng, và thường là rất hữu ích, để cố gắng diễn tả giáo lý nầy - một giáo lý đầy dẫy những điều khó hiểu. Hơn nữa, đây là giáo lý không tỏ tường trong Tân Ước, dẫu người ta thường nói giáo lý nầy được hàm ý bóng gió trong Cựu Ước và được diễn đạt rõ ràng trong Tân Ước. Nhưng tính từ “được diễn đạt rõ ràng” (explicit) với ý nghĩa “được đặc trưng bởi sự diễn đạt đầy đủ, rõ ràng” thật khó mà áp dụng được cho giáo lý nầy. Dầu vậy, giáo lý này ra từ Kinh Thánh, nên đó là sự dạy dỗ của Kinh Thánh.

I. ĐÓNG GÓP CỦA CỰU ƯỚC.

Rõ ràng, Cựu Ước nhấn mạnh tính có một không hai của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, có những gợi ý rõ ràng rằng có nhiều Ngôi Vị trong bản thể Đức Chúa Trời. Do đó, người ta chắc có thể nói Cựu Ước chứa đựng nhiều lời gợi ý mà chúng có tính đến sự khải thị sau nầy về Ba Ngôi hiệp một của Đức Chúa Trời. Đây là những gợi ý nào?

A. Tính Duy Nhất Của Đức Chúa Trời.

Tuyên ngôn đức tin Shema nổi tiếng trong Phu 6:4 (mà nó đã trở thành lời tuyên xưng đức tin căn bản của Do Thái Giáo) dạy về sự có một không hai của Đức Chúa Trời. Có thể dịch câu nầy là: “Giêhôva, Đức Chúa Trời của chúng ta, là Đức Giêhôva có một,” hoặc: “Đức Giêhôva là Đức Chúa Trời của chúng ta, Đức Giêhôva là Đấng Có Một,” hoặc “Đức Giêhôva là Đức Chúa Trời của chúng ta, chỉ một mình Đức Giêhôva mà thôi.” Cách dịch cuối nầy nhấn mạnh đến tính độc nhất vô nhị của Đức Chúa Trời hơn là tính hiệp nhất, nhưng hàm ý sự có một mà thôi bằng cách loại bỏ đa thần thuyết. Những phân đoạn khác như là Xu 20:3; Phu 4:35; 32:29; Es 45:14; và 46:9 khăng khăng đòi hỏi lòng trung thành của Ysơraên đối với Đức Chúa Trời có một nầy.

B. Những Từ Ngữ Ở Dạng Số Nhiều.

Chúng ta đã gợi ý rồi rằng danh xưng ở dạng số nhiều dành cho Đức Chúa Trời, Elohim, biểu thị sự cao trọng, vĩ đại vô biên và quyền tối cao của Đức Chúa Trời. Nếu dựa vào chính danh xưng nầy để kết luận về tình trạng số nhiều của Đức Chúa Trời thì sẽ không có kết luận chắc chắn.Tuy nhiên, khi Đức Chúa Trời nói về chính Ngài bằng những đại từ số nhiều (Sa 1:26; 3:22; 11:7; Es 6:8) và những động từ ở dạng số nhiều (Sa 1:26; 11:7), thì việc đó dường như chỉ ra những sự phân biệt các Ngôi Vị, dầu vậy chỉ là tình trạng có số nhiều, chứ không nói cụ thể là có Ba Ngôi Đức Chúa Trời.

C. Thiên Sứ Của Đức Giêhôva.

Dầu danh hiệu nầy có thể chỉ về bất kỳ thiên sứ nào của Đức Chúa Trời (ISu 19:7; đối chiếu c.5), nhưng đôi khi Thiên Sứ nầy được nói đến như là Đức Chúa Trời, song được phân biệt với Đức Chúa Trời (Sa 16:7-13; 18:1-21; 19:1-28; Ma 3:1). Điều nầy chỉ ra những sự khác biệt về ngôi vị bên trong bản thể Đức Chúa Trời. Vì Thiên Sứ nầy được gọi là Đức Chúa Trời,nên hầu như Ngài không thể nào chỉ là một tiên tri, hoạt động trước các thời tiên tri giống như các tiên tri trong thời kỳ sau đó (như Edmond Jacob gợi ý trong The Theology of Old Testament (New York: Harper & Row, 1958), trang 75-77).

D. Sự Phân Biệt Các Ngôi Vị.

Một số những phân đoạn dường như có phân biệt các Ngôi Vị bên trong bản thể Đức Chúa Trời.

1. Đức Giêhôva được phân biệt với Đức Giêhôva (Sa 19:24; Os 1:7).

2. Đấng Cứu Chuộc (chắc chắn phải là Đấng thiên thượng) được phân biệt với Đức Giêhôva (Es 59:20).

3. Thần được phân biệt với Đức Giêhôva (Es 48:16; 59:21; 63:9-10). Trong những câu Kinh Thánh nầy, “Thần” là một đấng có thân vị và đang hành động.

E. Sự Khôn Ngoan Của Đức Chúa Trời (?).

Nhiều nhà thần học (Berkhof, Payne,Thiessen) xem sự nhân cách hóa cho sự khôn ngoan trong Ch 8:12-31 là để chỉ về Đấng Christ, và như thế, đây là một dấu hiệu của Cựu Ước chỉ về sự tồn tại của một Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Tuy nhiên, dường như đúng hơn nên hiểu phân đoạn nầy không nhằm phác họa về Đấng Christ, nhưng để mô tả đặc tánh đời đời của sự khôn ngoan với tư cách một thuộc tánh của Đức Chúa Trời (xem Louis Goldberg,“Wisdom,” Theological Wordbook of the Old Testament (Chicago: Moody, 1980),1:283).

Vậy chúng ta sẽ đánh giá thế nào về đóng góp của Cựu Ước cho giáo lý nầy? Berkhof kết luận có “sự tiên liệu rõ ràng”(Systematic Theology, trang 86) về một khải thị đầy đủ hơn trong Tân Ước, nhưng cách dùng chữ “rõ ràng” nầy có thể khiến câu đó trở thành phép cường điệu. Kết luận của Payne chính xác hơn, nói rằng Cựu Ước chứa đựng “những gợi ý đích thực về các Ngôi Vị hợp nên bản thể Đức Chúa Trời” (trang 166). Chúng ta cũng có thể đánh giá thế nầy: giáo lý nầy chỉ tồn tại trong Cựu Ước dưới dạng cơ sở để giúp phát triển về sau mà thôi. Nếu không nhờ sự nở hoa của giáo lý nầy trong Tân Ước,thì từ một mình Cựu Ước, không biết liệu chúng ta có biết nổi những hạt giống đó là gì không nữa.

II. ĐÓNG GÓP CỦA TÂN ƯỚC.

Dầu Tân Ước không có câu tuyên bố tỏ tường nào về giáo lý ba ngôi hiệp một của Đức Chúa Trời, (vì IGi 5:7 dường như không phải là một phần trong bản văn đích thực của Kinh Thánh), nhưng Tân Ước có chứa rất nhiều bằng chứng. Bằng chứng đó phân ra thành hai tuyến: tuyến bằng chứng quả quyết chỉ có một Đức Chúa Trời chân thần có một không hai, và một tuyến bằng chứng khác trình bày cả Đức Chúa Jesus, là Con Người, lẫn Đức Thánh Linh đều tuyên bố chính Ngài là Đức Chúa Trời. Nhấn mạnh sự có một không hai mà bỏ qua tính có ba ngôi thì dẫn đến Duy Nhất Thần Thuyết. Nhấn mạnh tính có ba ngôi vị mà bỏ qua tính có một không hai thì dẫn đến Tam Thần Thuyết (như trong đạo Mormon vậy). Chấp nhận cả hai thì đưa đến giáo lý Ba Ngôi Hiệp Một của Đức Chúa Trời.

A. Bằng Chứng Cho Tính Có Một Không Hai.

Giống như Cựu Ước, Tân Ước cũng xác quyết chỉ có một Đức Chúa Trời chân thần. Những phân đoạn như ICo 8:4-6; Eph 4:3-6; và Gia 2:19 nói rõ ràng vấn đề nầy.

B. Bằng Chứng Cho Tính Có Ba Ngôi Vị.

1. Đức Chúa Cha được công nhận là Đức Chúa Trời. Vấn đề nầy không hề bị đem ra tranh luận, và có rất nhiều phân đoạn dạy điều nầy (Gi 6:27; IPhi 1:2).

2. Đức Chúa Jesus Christ được công nhận là Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã tuyên bố có những thuộc tánh mà duy chỉ có Đức Chúa Trời mới có, chẳng hạn như sự toàn tri (Mat 9:4), toàn năng (28:18), toàn tại (câu 20). Ngài làm những việc mà chỉ một mình Đức Chúa Trời mới làm được (và dân chúng thời của Ngài đã công nhận điều nầy, tuy đôi khi miễn cưỡng), như là tha tội (Mac 2:1-12), và kêu kẻ chết sống lại (Gi 12:9). Hơn nữa, Tân Ước đem những công việc khác nữa mà chỉ Đức Chúa Trời mới làm được để qui cho Chúa Jesus Christ, chẳng hạn như việc bảo tồn, nâng đỡ mọi vật (Co 1:17), sự sáng tạo (Gi 1:3), và sự đoán xét mọi người trong tương lai (5:27).

Cụm từ cuối trong Gi 1:1 liên hệ thần tánh thật và đầy trọn với Ngôi Lời (Đấng Christ). Cụm từ nầy được dịch đúng nhất là “Ngôi Lời đã là Đức Chúa Trời.” Phép giải kinh nhất quán sẽ không chấp nhận cách dịch của Chứng Nhân Giêhôva: “Ngôi Lời đã là một Đức Chúa Trời (vị thần)”(có mạo từ bất định). Chữ “Đức Chúa Trời” không có mạo từ đi kèm, nhưng nếu phải hiểu như một từ bất định (an indefinite) ("một vị thần nào đó"), thì đây sẽ là lần duy nhất dùng hình thức nầy trong sách Tin Lành Giăng, khiến càng không thể có những cơ sở văn phạm chứng minh ở đây là từ bất định. Hẳn Giăng đã không còn chọn cách nào chính xác hơn thế để diễn tả những lẽ thật rằng Ngôi Lời đã là Đức Chúa Trời song Ngài còn khác biệt với Đức Chúa Cha.

3. Đức Thánh Linh được công nhận là Đức Chúa Trời. Ngài được gọi là Đức Chúa Trời (Cong 5:3-4), Ngài có những thuộc tánh mà chỉ một mình Đức Chúa Trời mới có, như toàn tri (ICo 2:10) và toàn năng (6:19),và Ngài tái sanh con người (Gi 3:5-6,8), một công việc duy chỉ Đức Chúa Trời mới làm được.

C. Bằng Chứng Cho Ba Ngôi Hiệp Một.

Mat 28:19 trình bày hay nhất về cả sự độc nhất vô nhị lẫn tính có ba ngôi vị bằng cách liên kết bình đẳng ba ngôi vị và hiệp nhất ba ngôi vị nầy chỉ trong một danh xưng ở dạng số ít. Những phân đoạn khác như là Mat 3:16-17 và IICo 13:14 liên hệ bình đẳng ba ngôi vị nhưng không nhấn mạnh đến tính độc nhất vô nhị và hiệp một như trong Mat 28:19.

III. MỘT SỐ KHẢO SÁT VỀ ĐỊNH NGHĨA.

Không phải dễ thiết lập định nghĩa về Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Có một số định nghĩa dùng cách phát biểu rất nhiều định đề.Những định nghĩa khác thì sai lầm hoặc trong phương diện tính độc nhất vô nhị,hoặc trong phương diện tính ba ngôi vị. Một trong những định nghĩa đúng nhất,hay nhất là định nghĩa của Warfield: “Chỉ có một Đức Chúa Trời chân thật và duy nhất có một không hai, nhưng ở trong sự hiệp một của bản thể Đức Chúa Trời thì có ba Ngôi Vị đồng bình đẳng và cùng đời đời như nhau, có cùng bản thể (substance) như nhau nhưng khác nhau trong tình trạng hiện hữu thiết yếu để trở thành cá thể (subsistence)” (B. B. Warfield, “Trinity,” The International Standard Bible Encyclopaedia, soạn giả: James Orr (Grand Rapids: Eerdmans, 1930,5:3012).Chữ “các Ngôi Vị” có thể gây hiểu lầm như là đã có ba Cá Thể trong bản thể Đức Chúa Trời, nhưng còn chữ nào khác diễn đạt thỏa đáng hơn? Chữ “bản thể” cũng có thể quá mang tính duy vật; có người thích dùng chữ “thể yếu” (essence) hơn. Nhiều người sẽ không biết ý nghĩa của chữ “tình trạng hiện hữu thiết yếu để trở thành cá thể” (subsistence), nhưng tự điển có thể giải quyết vấn đề nầy ("sự hiện hữu thiết yếu").

Nói cách tích cực, định nghĩa nầy khẳng định rõ ràng cả tính có một không hai lẫn tính ba ngôi vị, và cẩn thận duy trì tính bình đẳng và tính đời đời của Ba Ngôi. Dẫu chữ “ngôi vị” chưa phải là chữ đúng nhất, nhưng ngăn ngừa Hình Thức Thuyết (modalism) và đương nhiên, cụm từ “có cùng bản thể như nhau” (hoặc có lẽ hay hơn sẽ là: “thể yếu") đã chống lại Tam Thần Thuyết (tritheism). Toàn bộ thể yếu không phân chia của Đức Chúa Trời đều thuộc về mỗi ngôi vị trong Ba Ngôi một cách bình đẳng.

Gi 10:30: “Ta với Cha là một,” đã phát biểu tuyệt vời cho sự quân bình giữa tính khác biệt của các ngôi vị với tính hiệp nhất thể yếu. “Ta với Cha” phân biệt rõ ràng hai ngôi vị và động từ “Chúng ta là,” cũng là động từ ở dạng số nhiều. Nhưng Chúa phán: “Chúng Ta Là Một,”và chữ “một” là chữ trung tính; điều nầy có nghĩa là một trong bản tánh hay thể yếu, nhưng không phải là một Ngôi Vị (là điều buộc sẽ đòi hỏi một chữ ở giống đực).Vì thế, Chúa đã phân biệt chính Ngài với Đức Chúa Cha song đã tuyên bố sự hiệp nhất và sự bình đẳng với Đức Chúa Cha.

Trong truyền thống, khái niệm về Đức Chúa Trời Ba Ngôi đã được xem xét từ: (a) góc độ bản thể luận và (b) góc độ phương thức kế hoạch hoạt động (economical) hoặc quản trị. Giáo lý Ba Ngôi về mặt bản thể luận tập trung vào những sự vận hành cá nhân của các ngôi vị hay opera ad intra (các công việc ở bên trong), hay những thuộc tánh cá nhân để dựa vào đó phân biệt các Ngôi Vị. Điều nầy liên quan với sự phát sanh (mối liên quan của người con với người cha hay việc sanh ra) và sự lưu xuất (hay sự ra từ) nhằm cố gắng chỉ ra một trật tự hợp lý bên trong Đức Chúa Trời Ba Ngôi nhưng tuyệt đối không ám chỉ đến sự bất bình đẳng, tính ưu tiên về thời gian, hay các mức độ đáng tôn kính. Sự phát sanh hay sự lưu xuất diễn ra bên trong Hữu Thể Đức Chúa Trời, và không hề kèm theo ý diễn tả tính thấp kém hơn về thể yếu. Do đó, xét về mặt bản thể, có thể nói như sau về các Ngôi Vị của Đức Chúa Trời Ba Ngôi: (1) Đức Chúa Cha sanh Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh lưu xuất ra từ chính Đức Chúa Cha, dầu vậy Đức Chúa Cha không hề được sinh ra cũng chẳng hề được lưu xuất ra. (2) Đức Chúa Con được sanh ra và Đức Thánh Linh lưu xuất ra từ chính Ngài, nhưng Đức Chúa Con không sanh ra cũng không lưu xuất ra từ ngôi vị nào. (3) Đức Thánh Linh lưu xuất ra từ cả Đức Chúa Cha lẫn Đức Chúa Con, nhưng Ngài không hề sinh ra ngôi vị nào, mà cũng không ngôi vị nào lưu xuất ra từ Ngài.

Tôi đồng ý với Buswell (Systematic Theology of the Christian Religion, trang I:105-112) rằng sự phát sanh không phải là một giáo lý phát xuất từ cơ sở giải kinh. Tuy nhiên, khái niệm mà chữ nầy cố gắng truyền đạt không phải là phi Kinh Thánh, và đương nhiên giáo lý về tư cách Đức Chúa Con là giáo lý Kinh Thánh. Cụm từ “sự phát sanh đời đời” chỉ là một nỗ lực để mô tả mối liên hệ Đức Chúa Cha - Đức Chúa Con trong Đức Chúa Trời Ba Ngôi,và dùng chữ “đời đời” để bảo vệ mối quan hệ nầy khỏi sự bất bình đẳng hay trình tự thời gian. Nhưng dầu muốn dùng ý kiến về sự phát sanh đời đời hay không đi nữa,thì vẫn bắt buộc phải khẳng định mối liên hệ cá nhân, đời đời và đồng bình đẳng của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Ít nhất sự phát sinh đời đời cũng đã được căn cứ vào Thi 2:7.

Sự lưu xuất (ra từ) dường như là khái niệm mang tính Kinh Thánh nhiều hơn, dựa vào Gi 15:26. Berkhof định nghĩa sự lưu xuất như là “hành động đời đời và cần thiết của Ngôi Thứ Nhất và Ngôi Thứ Hai trong Đức Chúa Trời Ba Ngôi, để bởi đó Họ trở thành cơ sở của một sự tồn tại có ngôi vị của Đức Thánh Linh bên trong Hữu Thể Thiên Thượng nầy, và đặt Ngôi Thứ Ba trong sự lưu xuất của toàn bộ thể yếu thiên thượng, không có sự phân chia, xa cách hay sự thay đổi nào” (Systematic Theology, trang 97). Ý về sự lưu xuất đời đời phải phụ thuộc sát vào thì hiện tại của chữ “lưu xuất” (“ra từ”) trong Gi 15:26, một điểm nhấn mạnh mà theo tôi đánh giá thì đã bị đặt sai chỗ. Câu Kinh Thánh nầy thực sự dường như không thuật lại bất cứ điều gì về những mối liên hệ hỗ tương đời đời bên trong Đức Chúa Trời Ba Ngôi, nhưng trái lại là việc mà Đức Thánh Linh sẽ làm để tiếp tục công tác của Đức Chúa Jesus Christ sau khi Ngài thăng thiên.

Khái niệm Đức Chúa Trời Ba Ngôi về mặt kế hoạch quản lý (economical) thì quan tâm đến sự quản trị, quản lý các hành động của các ngôi vị, hay opera ad extra ("những công việc ở bên ngoài,” có nghĩa là trong sự sáng tạo và những tạo vật của sự sáng tạo đó). Đối với Đức Chúa Cha, khái niệm nầy bao gồm những công việc chọn lựa (IPhi 1:2), yêu thương thế gian (Gi 3:16), và ban các ơn phước tốt lành (Gia 1:17). Đối với Đức Chúa Con,điều nầy nhấn mạnh sự chịu thương khó của Ngài (Mac 8:31), công tác cứu chuộc (IPhi 1:18), và nâng đỡ mọi vật (He 1:3). Đối với Đức Thánh Linh, điều nầy tập trung vào những công tác đặc thù của Ngài là tái sanh (Tit 3:5), ban quyền năng (Cong 1:8), và thánh hóa (Ga 5:22-23).

Thậm chí với toàn bộ cố gắng để thảo luận và phác họa về Đức Chúa Trời Ba Ngôi, chúng ta vẫn phải công nhận rằng: phân tích tận tường thì đây vẫn là sự mầu nhiệm. Chúng ta chấp nhận toàn bộ dữ liệu nầy là lẽ thật, dầu chúng vượt quá sức hiểu biết của chúng ta.

IV. MINH HỌA VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI BA NGÔI

Không minh họa nào có thể diễn đạt hết mọi điều trong khải thị Kinh Thánh về Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Hầu hết các minh họa may lắm cũng chỉ là những điểm tương đồng với ý “ba ngôi trong một.”

Một biểu đồ phổ thông nhằm minh họa hình ảnh Đức Chúa Trời là một nhưng cũng cho thấy mỗi Ngôi Vị là Đức Chúa Trời và mỗi ngôi cũng khác biệt nhau."

 

 002

 

Nước có thể minh họa “ba trong một” vì giữ lại được những hoạt tính hóa học của nó dầu ở dạng rắn, hơi, hay lỏng. Cũng có một điểm bộ ba mà tại đó tình trạng nước đá, hơi nước và nước dạng lỏng đồng tồn tại trong trạng thái cân bằng. Cả thảy đều là nước nhưng khác biệt với nhau.

Mặt trời, ánh sáng và năng lượng mặt trời cũng có thể giúp minh họa Đức Chúa Trời Ba Ngôi (The Pilgrim Bible (New York:Oxford, 1948 trang ix-x). Chưa hề có ai thực sự nhìn thấy mặt trời, cũng như chưa hề có ai thấy Đức Chúa Cha. Tuy nhiên, chúng ta biết rất nhiều về mặt trời nhờ nghiên cứu ánh sáng mặt trời, cũng như chúng ta biết về Đức Chúa Cha qua Đức Chúa Jesus, tức là Đấng chiếu ra vinh hiển của Cha (He 1:3). Chúng ta nhìn thấy năng lượng của mặt trời khi nó tham gia vào sự lớn lên của hạt giống và cỏ cây,và khi được hỏi điều gì khiến sự vật phát triển, chúng ta trả lời là chính nhờ mặt trời. Đức Thánh Linh cũng giống với năng lượng của mặt trời, và Ngài là Đức Chúa Trời.

Dầu những minh họa nầy có những điểm hữu dụng hoặc những giới hạn nào đi nữa, thì chúng ta nhắc lại lần nữa: chúng ta đang đối diện với một lẽ mầu nhiệm.

V. KHẢO CỨU LỊCH SỬ GIÁO LÝ BA NGÔI

A. Duy Nhất Thần Thuyết (Monarchianism).

Các giáo phụ của Hội Thánh đầu tiên không tuyên bố điều nào về giáo lý Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Có người không nói rõ về Logos, và hầu hết không lưu ý về Đức Thánh Linh, ngoại trừ nhắc đến công tác của Ngài trong đời sống tín đồ. Để trả lời Praxeus, Tertullian (vào khoảng 165-220 S.C.) đã khẳng định phương diện Ba Ngôi của Đức Chúa Trời, và là người đầu tiên dùng chữ Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Tuy nhiên, ông chưa hiểu biết đầy đủ và chính xác về Đức Chúa Trời Ba Ngôi, nên quan điểm của ông đã mang ảnh hưởng của Hạ Thuộc Thuyết (subordinationism).

Tertullian đã phản bác phái Duy Nhất Thần Thuyết, tức phái ủng hộ tính có một không hai của Đức Chúa Trời và phủ nhận Tam Vị Thuyết. Duy Nhất Thần Thuyết tồn tại dưới hai hình thức.

1. Duy Nhất Thần Động Lực Thuyết (Dynamic Monarchianism hay Dưỡng Tử Thuyết “Adoptionism” - Thuyết Nhận làm Con). Thuyết nầy được đề xướng đầu tiên bởi Theodotus ở Byzantium vào khoảng năm 210 S.C. và xem Đức Chúa Jesus là một con người đã được Đức Thánh Linh ban quyền năng đặc biệt tại lúc chịu phép Báptêm.

2. Duy Nhất Thần Hình Thức (Modalistic Monarchianism). Thuyết nầy có nhiều ảnh hưởng hơn, nhằm nỗ lực duy trì không những tính có một của Đức Chúa Trời mà còn cả thần tính đầy trọn của Đấng Christ, bằng cách khẳng định Đức Chúa Cha đã nhập thể trong Đức Chúa Con. Ở Tây Giáo Hội,thuyết nầy được gọi là Patripassianism (thuyết Đức Chúa Cha đồng chịu thương khó với Đức Chúa Con), vì Cha nhập thể cũng đã chịu khổ trong Con; và trong Đông Giáo Hội được gọi là thuyết Sabellianism theo tên người đại diện nổi tiếng nhất của thuyết nầy, là người dạy rằng các ngôi vị trong bản thể Đức Chúa Trời là những phương thức Đức Chúa Trời dùng để biểu hiện chính Ngài. Dầu dùng chữ “các Ngôi Vị,” nhưng Sabellius dùng để nói đến vai trò hay biểu hiện của một thể yếu thiên thượng duy nhất.

B. Thuyết Arius (Arianism).

Arius (vào khoảng 250-336), một trưởng lão phản bác Tam Vị Thuyết ở Alexandria, đã phân biệt một Đức Chúa Trời đời đời duy nhất với Đức Chúa Con, tức Đấng được phát sanh bởi Đức Chúa Cha và như thế Con đã có một khởi đầu. Ông cũng dạy rằng Thánh Linh là điều trước tiên đã được dựng nên bởi Đức Chúa Con, vì mọi vật đều đã được dựng nên bởi Đức Chúa Con. Ông hậu thuẫn quan điểm của mình bằng những phân đoạn Kinh Thánh dường như mô tả Đức Chúa Con là thấp kém hơn Đức Chúa Cha (Mat 28:18; Mac 13:32; ICo 15:28). Arius đã bị phản đối bởi Athanasius (vào khoảng 296-373), là người tuy bênh vực tính có một không hai của Đức Chúa Trời, nhưng vẫn phân biệt ba bản tánh cơ bản trong Đức Chúa Trời, và xác quyết Đức Chúa Con có đồng bản thể với Cha.Athanasius dạy rằng Đức Chúa Con đã được phát sanh, nhưng đây là một hành động đời đời và bên trong nội bộ của Đức Chúa Trời, trái với cách của Arius là người đã bác bỏ sự phát sanh đời đời. Khi Giáo Hội Nghị Nicea được triệu tập để giải quyết cuộc tranh luận, Athanasius và người theo ông muốn Giáo Hội Nghị phát biểu rằng Đức Chúa Con có cùng một bản thể (homoousios) như Đức Chúa Cha, trong khi một nhóm người ôn hòa đông hơn gợi ý nên thay bằng chữ omoiousios ("có bản thể tương tự"). Những người hoàn toàn theo phái Arius nói Đức Chúa Con có một bản thể khác (“heteroousios”). Hoàng đế Constantine cuối cùng đứng về phe Athanasius để đem lại bản tuyên bố rõ ràng và không lập lờ của Bản Tín Điều Nicene rằng: Đức Chúa Jesus Christ đã có cùng một bản thể với Đức Chúa Cha (homoousios).

Còn về phần Thánh Linh, bản Tín Điều chỉ nói đơn thuần: “Tôi tin Đức Thánh Linh.” Tuy nhiên, trong các bài dạy của mình,chính Athanasius vẫn cho rằng Đức Thánh Linh cũng giống như Đức Chúa Con, Thánh Linh có cùng bản thể với Đức Chúa Cha. Sau Giáo Hội Nghị Nicea, rất nhiều tư liệu đã được lưu hành trong thế kỷ thứ tư, và phe Arians được mến mộ - một phần do ảnh hưởng của vua Constantius (kế vị Constantine), là vị vua ủng hộ Arius.

Trong nửa cuối thế kỷ thứ tư, ba nhà thần học từ vùng Cappadocia phía đông Tiểu Á đã định hình rõ ràng cho giáo lý Đức Chúa Trời Ba Ngôi và đánh bại thuyết Arianism. Những vị nầy là Basil xứ Caesarea (Sêsarê), em của ông là Gregory xứ Nyssa, và bạn thiết của Basil là Gregory xứ Nazianzus. Họ có công làm sáng tỏ từ vựng liên quan đến giáo lý Đức Chúa Trời Ba Ngôi, bằng cách dùng chữ ousia chỉ về một thể yếu của Đức Chúa Trời và chữ hypostasis để chỉ về các Ngôi Vị. Điểm nhấn mạnh của họ vào ba bản tánh cơ bản trong một Đức Chúa Trời đã giúp bản Tín Điều Nicene khỏi bị những người theo phái ôn hòa nghi là thiên về thuyết Sabellianism. Họ cũng đã bảo vệ mạnh mẽ tính homoousios của Đức Thánh Linh.

C. Giáo Hội Nghị Constantinople (381).

Năm 373, một nhóm người do Eustath lãnh đạo gọi là nhóm Pneumatomachians (“Những Chiến Binh Chống Thánh Linh”) đã xem cả Đức Chúa Con lẫn Đức Thánh Linh đều chỉ có bản thể giống với Đức Chúa Cha (một số người phái ôn hòa thực sự có khẳng định tính đồng bản thể của Đức Chúa Con). Cuộc tranh luận lan rộng đến đỗi hoàng đế Theodosius triệu tập Giáo Hội Nghị tại Constantinople, gồm 150 giám mục chánh thống đại diện cho Đông Giáo Hội. Dưới sự hướng dẫn của Gregory ở Nazianzus, Giáo Hội Nghị đưa ra tuyên bố sau về Đức Thánh Linh: “Và chúng tôi tin Đức Thánh Linh, là Chúa, Đấng ban sự sống, tức Đấng ra từ Đức Chúa Cha, Đấng đáng được tôn vinh hiển cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, và là Đấng đã phán truyền qua các tiên tri.” Dầu Bản Tín Điều nầy tránh dùng từ “có cùng bản thể,” là từ đã dùng để nói về Đấng Christ trong bản Tín Điều Nicene, nhưng bài tín điều nầy đã mô tả công tác của Đức Thánh Linh bằng những từ ngữ không thể dùng cho bất cứ loài thọ tạo nào. Bởi đó, bài tín điều nầy giải quyết xong vấn đề thần tánh của Đức Thánh Linh, dầu vậy vẫn chưa phải là tuyên ngôn hoàn toàn thỏa đáng, vì đã không dùng chữ omoousios để chỉ về Thánh Linh,và đã không xác định rõ mối quan hệ của Thánh Linh với hai Ngôi Vị kia.

D. Augustine (354-430).

1. Tác Phẩm De Trinitate. Tuyên ngôn về giáo lý Đức Chúa Trời Ba Ngôi trong Tây Giáo hội đã được trình bày chung kết trong tác phẩm nầy của Augustine. Trong chuyên luận nầy, ông nói mỗi ngôi vị của Ba Ngôi Đức Chúa Trời đều có trọn toàn bộ thể yếu, và cả ba ngôi đều phụ thuộc lẫn nhau. Dầu ông vẫn chưa thỏa lòng khi dùng chữ “các Ngôi Vị” để biểu thị ba bản tánh cơ bản, nhưng đã dùng chữ đó “để khỏi phải nín lặng.” Ông cũng dạy rằng Đức Thánh Linh lưu xuất từ cả Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.

2. Cuộc tranh luận của phái Pelagian (431).Augustine cũng nhấn mạnh đặc biệt ân điển hiệu nghiệm (efficacious grace) là công tác của Đức Thánh Linh. Điều nầy không những ảnh hưởng sâu rộng đến giáo lý của ông về con người và tội lỗi, song còn ảnh hưởng đến giáo lý của ông về Đức Thánh Linh nữa.

E. Giáo Hội Nghị Toledo (589).

Tuy các nhà thần học Tây Giáo hội nói chung ủng hộ quan điểm Đức Thánh Linh ra từ cả Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, nhưng quan điểm nầy vẫn chưa được tuyên bố chính thức mãi đến khi mệnh đề filioque ("và Đức Chúa Con") được thêm vào Bản Tín Điều Constantinople tại Giáo Hội Nghị Toledo. Đông Giáo Hội không hề chấp nhận quan điểm nầy, tuyên bố đó là tà giáo, rồi tách ra thành hai nhóm mãi đến ngày nay.

Photius, giáo phụ ở Constantinople và đối thủ của Giáo Hoàng Nicholas ở Rome, đã dùng mệnh đề filioque như một phần nỗ lực hạ uy tín những lời Nicholas tuyên bố là giám mục phổ thông. Ông kết tội Tây Giáo Hội đã giới thiệu những cách tân giáo lý, tuyên bố rằng filioque đã làm sai lạc bản Tín Điều Thánh ở Constantinople.

F. Sự Dạy Dỗ Của Các Nhà Cải Chánh Về Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

Những nhà Cải Chánh và toàn bộ những Tuyên Ngôn Đức Tin Cải Chánh đều diễn tả giáo lý Đức Chúa Trời Ba Ngôi dưới hình thức chánh thống như đã được trình bày trong Hội Thánh đầu tiên (chẳng hạn, xem Calvin, Institutes, 1. 13). Calvin dường như thấy ý về sự phát sanh đời đời của Đức Chúa Con là khó hiểu - nếu không nói là vô ích - dầu vậy ông không phủ nhận giáo lý ấy.

Luther chấp nhận giáo lý chánh thống về Đức Chúa Trời Ba Ngôi, vì cảm thấy giáo lý đó được dạy trong Kinh Thánh, dầu vậy cảm thấy chỉ một mình đức tin mới có thể hiểu thấu lẽ đạo ấy. Tuyên Ngôn Đức Tin Augsburg (1530) công bố rõ ràng: “có một thể yếu thiên thượng được gọi là và cũng chính là Đức Chúa Trời... song có ba Ngôi Vị có cùng thể yếu và quyền năng như nhau, và cũng đồng đời đời như nhau, đó là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh” (III. 7). Tương tự, Tuyên Ngôn Đức Tin Westminster (1647) phát biểu:“Trong sự hiệp một của Đức Chúa Trời, có ba Ngôi Vị đồng bản thể, quyền năng và đời đời như nhau: Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Trời là Đức Chúa Con và Đức Chúa Trời là Đức Thánh Linh. Đức Chúa Cha không thuộc về ngôi vị nào,cũng không được sinh ra và cũng không ra từ ngôi vị nào; Đức Chúa Con được sinh ra đời đời từ Đức Chúa Cha; Đức Thánh Linh lưu xuất đời đời từ Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con” (II. 3).

Thuyết Socinianism ở thế kỷ thứ mười sáu phủ nhận sự thực hữu từ trước của Đức Chúa Con, xem Ngài chỉ là một con người. Thuyết nầy dạy: chỉ có duy nhất một thể yếu thiên thượng chứa chỉ một Ngôi Vị. Những quan điểm nầy đã ảnh hưởng đến Duy Nhất Thần Thuyết Anh Quốc (Unitarianism)cũng như Tự Nhiên Thần Luận (Deism) Anh Quốc. Đa số phái Duy Nhất Thần Thuyết không phải là người theo phái Tự Nhiên Thần Luận, nhưng toàn bộ người theo Tự Nhiên Thần Luận đều có khái niệm Duy Nhất Thần về Đức Chúa Trời.

G. Những Quan Điểm Hiện Đại.

Quan điểm chánh thống về Đức Chúa Trời Ba Ngôi đã và hiện đang được rất nhiều người ở thời hiện đại giữ theo. Tuy nhiên xưa nay có rất nhiều người đặt nghi vấn. Kant và Hegel phản đối sự dạy dỗ chánh thống, và đã tin theo Dưỡng Tử Thuyết hoặc Phiếm Thần Thuyết phi thân vị.Swedenborg và Schleiermacher lập lại thuyết Sabellianism. Nhiều người cảm thấy khái niệm của Barth thiên về Hình Thức Thuyết (Leonard Hodgson, The Doctrine of the Trinity (London: Nisbet, 1955, trang 229). Nhiều người khác bênh vực ông là chánh thống, vì ông bác bỏ thuyết Sabellianism, và họ dùng khái niệm của ông về “những phương thức tồn tại” trong Đức Chúa Trời thay cho khái niệm các Ngôi Vị.Paul Tillich cảm thấy giáo lý Đức Chúa Trời Ba Ngôi là do con người tạo ra để thỏa đáp cho nhu cầu của riêng họ. Thực ra, Tillich thậm chí còn không tin có một Ngôi Vị nào trong bản thể Đức Chúa Trời, chứ đừng nói đến Ba Ngôi Vị.

Phái Giêhôva Chứng Nhân tán thành một Cơ đốc Luận giống như thuyết của Arius, bằng cách không chấp nhận tính đời đời của Đức Chúa Con cũng như giáo lý Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Cũng giống như Arius, họ xem Logos là một hữu thể trung gian ở giữa Đấng Tạo Hóa và loài thọ tạo.

VI. MỘT SỐ NHỮNG HỆ QUẢ THỰC TIỄN

Tính phong phú của khái niệm về Đức Chúa Trời Ba Ngôi đã tuôn tràn khắp nhiều lãnh vực của thần học.

Giáo lý sự cứu chuộc là một ví dụ hiển nhiên, vì toàn bộ Ba Ngôi Vị của Đức Chúa Trời đều tham gia vào công tác vĩ đại đó (Gi 3:6,16; Kh 13:8).

Giáo lý về sự khải thị là một ví dụ khác nữa,cả Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh đều tham gia truyền đạt lẽ thật của Đức Chúa Trời (Gi 1:18; 16:13).

Sự thông công và tình yêu thương bên trong Đức Chúa Trời chỉ có được trong khái niệm Đức Chúa Trời Ba Ngôi hiệp một, và sự thông công đó là giống như sự thông công của tín đồ với Đấng Christ (14:17).

Tính ưu tiên nhưng không hề thấp kém hơn được nhìn thấy trong Đức Chúa Trời Ba Ngôi chính là cơ sở cho những mối tương quan phải lẽ giữa người nam và người nữ (ICo 11:3).

Cầu nguyện được thực hành theo phương cách của Ba Ngôi hiệp một. Dầu chúng ta có thể trình dâng lời cầu nguyện với bất cứ Ngôi Vị nào trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, nhưng thường theo tiền lệ của Kinh Thánh,chúng ta thưa với Đức Chúa Cha trong danh của Đấng Christ theo như Đức Thánh Linh chỉ dạy chúng ta (Gi 14:14; Eph 1:6; 2:18; 6:18)."