Cấu Tạo Tân Ước

Kinh điển Tân Ước.

Theo nguyên văn, chữ "canon"  (Kinh điển) nghĩa là "cây gậy" hoặc "cây đo." Theo cách dùng trong đạo Đấng Christ, nó có nghĩa là: "sách chép qui tắc của đức tin," nghĩa là toàn thể các sách nguyên văn và có thẩm quyền, hợp thành Lời do Đức Chúa Trời soi dẫn. Các sách của "Kinh điển Tân Ước " chính là những quyển được toàn thể Hội Thánh nhìn nhận là tác phẩm đích thực và chân chánh của các Sứ đồ.

Kinh Thánh Cựu Ước.

Đương thời Đấng Christ, trong văn chương của dân Do-thái có một bộ sách gọi là "Kinh Thánh," và bây giờ gọi là "Cựu Ước," mà nhân dân kể là phát xuất từ nơi Đức Chúa Trời. Họ gọi bộ sách ấy là Lời Đức Chúa Trời.Chính Đức Chúa Jêsus cũng thừa nhận bộ sách ấy như vậy. Bộ sách ấy được đọc trước công chúng và được đem ra dạy thường xuyên trong các nhà hội của dân Do-thái.

Hội Thánh Đấng Christ,ngay từ lúc đầu, đã công nhận Kinh Thánh của người Do- thái là Lời Đức Chúa Trời, và trong các Hội nghị, đã dành cho Kinh Thánh ấy địa vị vốn có trong các nhà hội. Khi những tác phẩm của các Sứ đồ xuất hiện, thì đã được thêm vào Kinh Thánh của người Do-thái và cũng được coi là thánh như vậy. Mỗi chi hội chẳng những muốn có tác phẩm đã gởi cho mình, song cũng muốn có những tác phẩm đã gởi cho các chi hội khác.

Khởi đầu của Kinh điển Tân Ước.

Chính trong Tân Ước có nhiều chỗ ngụ ý rằng đang khi các Sứ đồ còn sống và do chính họ giám thị, người ta đã bắt đầu sưu tầm tác phẩm của họ cho các chi hội và đem đặt ngang hàng với Cựu Ước, kể là Lời do Đức Chúa Trời soi dẫn.

Phao-lô tự nhận rằng sự dạy dỗ của ông do Đức Chúa Trời soi dẫn  (ICo 2:7-13; 14:37;; ITe 2:13;).

Giăng cũng tự nhận như vậy cho sách Khải Huyền  (Kh 1:2).

Phao-lô nhất định rằng thơ tín của ông phải được đọc trong các chi hội  (Co 4:16; ITe 5:27;; IITe 2:15;).

Phi-e-rơ gởi thơ tín hầu cho "sau khi" ông "đi," các chi hội "có thể hằng nhớ điều" ông "đã nói"  (IIPhi 1:15; 3:1-2;).

Phao-lô trưng dẫn một quyển sách của Tân Ước và gọi là "Kinh Thánh"  (ITi 5:18) - "Người làm công thì đáng được tiền công mình." Ta không thấy câu nầy ở sách nào trong Kinh Thánh, trừ ra ở Mat 10:10; và Lu 10:7;. Đó là bằng cớ tỏ ra rằng sách Ma-thi-ơ hoặc sách Lu-ca đã có khi Phao-lô viết thơ I Ti-mô-thê và đã được kể là "Kinh Thánh."

Phi-e-rơ sắp thơ tín của Phao-lô chung hàng với "các phần Kinh Thánh khác"  (IIPhi 3:15,16).

Chúng ta không biết các Sứ đồ đã nhìn nhận tới mức nào rằng tác phẩm của họ sẽ trở thành một phần của Lời Đức Chúa Trời được chép ra cho các thời đại tương lai. Họ đã viết nhiều thơ tín, và trong trí họ nghĩ đến những nhu cầu tức thời, chớ ít biết số phận các thơ tín ấy sẽ ra sao. Chúng tôi tin rằng chính Đức Chúa Trời đã theo dõi vấn đề nầy, và theo đường lối riêng của Ngài, đã chọn định tác phẩm nào cần được bảo tồn.

Các sác Tân Ước đã xuất hiện lần đầu tiên ở đâu? Ma-thi-ơ, Gia-cơ, Hê-bơ-rơ  (?) ở xứ Pa-lét-tin; Giăng, Ga-la-ti, Ê-phê-sô, Cô-lô-se, I và II Ti-mô-thê ,Phi-lê-môn, I và II Phi-e-rơ , I, II và III Giăng, Giu-đe, Khải Huyền ở Tiểu-Á-tế-á; I và II Cô-rinh-tô , Phi-líp, I và II Tê-sa-lô-ni-ca, Lu-ca  (?) ở Hy-lạp ; Tít ở Cơ-rết; Mác, Sứ đồ, Rô-ma tại kinh thành La-mã.

Pa-lét-tin, Tiểu-Á-tế-á, Hy-lạp và La-mã cách xa nhau nhiều lắm. Các sách của Cựu Ước đã phát xuất trong cương giới một xứ nhỏ bé; còn các sách của Tân Ước phát xuất tại những xứ cách xa nhau nhiều lắm.

Các bộ sách đầu tiên không đầy đủ.

Thế giới thời đó không có hỏa xa, phi cơ và máy thâu, phát thanh như thế giới ngày nay. Sự du hành và giao thông rất chậm chạp và nguy hiểm. Hành trình mà thời nay chỉ mất mấy giờ, thì thời đó phải mất mấy tháng hoặc mấy năm. Thời ấy chưa có nghề in, và việc chép bằng tay rất chậm chạp, nhọc nhằn. Hơn nữa, đương thời ấy có sự bắt bớ, nên các tác phẩm quí giá của đạo Đấng Christ phải được cất kỹ.

Mãi tới đời trị vì của Constantin,mới có các Giáo hội nghị và Hội đồng để các tín đồ ở các phương xa họp lại mà so sánh lời chú giải những tác phẩm họ có trong tay. Như vậy, lẽ tự nhiên, các bộ sách Tân Ước lâu đời nhứt khác nhau từ miền nọ đến miền kia, và phải mất nhiều thì giờ mới đi đến chỗ đồng quan điểm nhất định những sách nào thật thuộc về Tân Ước.

Các sách Tân Ước giả mạo.

Ngoài các sách thuộc về "Kinh điển" Tân Ước, còn có nhiều sách khác,vừa tốt, vừa giả, mà ta sẽ nhận thấy trong những trang sau đây. Có sách hay và quí giá đến nỗi trải một thời gian, ở một vài miền, nó được coi là Kinh Thánh;có sách lại hoàn toàn giả mạo Tiêu chuẩn duy nhất để phán đoán một quyển sách trước khi tiếp nhận nó là: Nó có thật do các Sứ đồ trứ tác chăng? Điều tra như vậy không phải trong trường hợp nào cũng dễ dàng đâu, nhứt là đối với những sách ít ai biết và phát xuất tại một miền xa xôi.

Lời làm chứng lâu đời nhứt về các sách Tân Ước.

Ngày nay chỉ có ít sách của các tín đồ còn sống đương thời đó, khi các Sứ đồ đã qua đời rồi; ấy vì vật liệu dùng để viết rất mau hư, lại cũng vì thời đó có sự bắt bớ Hội Thánh và tiêu diệt các tác phẩm của đạo Đấng Christ. Nhưng dầu ít, nó cũng làm chứng quả quyết rằng đương thời ấy, có một bộ tác phẩm đầy đủ thẩm quyền mà tín đồ Đấng Christ kể là "Kinh Thánh." Các sách ấy trưng dẫn hoặc tham chiếu rất nhiều câu trong bộ tác phẩm gọi là "Kinh Thánh" đó.

Clément ở La-mã, trong thơ tín gởi cho người Cô-rinh-tô  (95 S.C.), có trưng dẫn hoặc tham chiếu các sách Ma-thi-ơ, Lu-ca, Rô-ma, I và II Cô-rinh-tô , Hê-bơ-rơ, I Ti-mô-thê, I Phi-e-rơ.

Polycarpe, trong thơ tín gởi cho người Phi-líp  (khoảng 110 S.C.), có trưng dẫn thơ Phi-líp, và chép lại nhiều câu trong 9 thơ tín khác của Phao-lô và trong thơ I Phi-e-rơ. Ông nói rằng:"Tôi có nhận được thơ của anh em và của Ignacegởi đến. Tôi sẽ gởi thơ của anh em đi Sy-ri, theo như anh em đã yêu cầu; tôi cũng gởi thư của Ignace cho anh em, cùng với mấy bức thơ khác, và thơ nầy của chính tôi." Lời nầy tỏ ra rằng đương thời Polycarpe, các chi hội đã bắt đầu thâu thập những tác phẩm của đạo Đấng Christ.

Ignace, trong bảy bức thơ, viết khoảng 110 S.C., đang khi đi đường từ An-ti-ốt đến La-mã để chịu tuận đạo, có trưng dẫn sách Ma-thi-ơ, I Phi-e-rơ, I Giăng, và 9 thơ tín của Phao-lô. Các bức thơ của ông có in dấu ba sách Tin lành khác.

Papias (70 - 155 S.C.), một môn đệ của Sứ đồ Giăng, có viết sách nhan đề là:"Giải thích các bài giảng của Chúa," trong đó ông trưng dẫn sách Giăng và chép những truyền thoại về sách Ma-thi-ơ cùng sách Mác.

Quyển"Didache," viết khoảng năm 80 và 120 S.C., trưng dẫn sách Ma-thi-ơ 22 lần, tham chiếu các sách Lu-ca, Giăng, Sứ đồ, Rô-ma, I và II Tê-sa-lô-ni-ca, I Phi-e-rơ; cũng nói "sách Tin lành" là một tài liệu đã được chép ra.

Thơ tín của Ba-na-ba viết khoảng năm 90 và 120 S.C., có trưng dẫn các sách Ma-thi-ơ, Giăng, Công-vụ các Sứ đồ, II Phi-e-rơ, và dùng mấy chữ: "Có lời chép rằng..." Đó là một cách nói thường chỉ áp dụng riêng cho Kinh Thánh.

"Người chăn chiên của Hermas,"viết khoảng 100 hoặc 140 S.C., là cuốn "Thiên lộ lịch trình" của Hội Thánh thời xưa; có trưng dẫn thơ Gia-cơ và rất nhiều lần tham chiếu các sách khác của Tân Ước.

Tatien, khoảng 160 S.C., làm một bản "Hòa hiệp Bốn Sách Tin Lành," nhan đề là: "Diatessaron." Đó là bằng cớ tỏ ra rằng bốn sách Tin Lành,và chỉ bốn thôi, thường được các chi hội nhìn nhận.

Justin Martyr (Tuận đạo), sanh ra khoảng năm Sứ đồ Giăng qua đời, trong sách "Biện giải" viết khoảng 140 S.C., có nói đến sách Khải Huyền và tỏ ra có biết sách Công-vụ các Sứ đồ và 8 thơ tín. Ông gọi các sách Tin lành là "Bút ký của các Sứ đồ," và nói rằng người ta đọc nó luân phiên với các sách "tiên tri" trong những cuộc nhóm họp của tín đồ Đấng Christ.

Basilide, một tay theo tà giáo thuộc phái duy tri  (Gnostique), đã giảng dạy tại thành Alexandrie dưới đời trị vị của Hadrien  (117-138), và đã tự nhận là biết những truyền thoại bí mật lưu truyền từ đời các Sứ đồ. Trong khi viết sách để cố gắng làm sai lệch giáo lý của Đấng Christ mà ai nấy đều công nhận, ông đã trưng dẫn các sách Ma-thi-ơ, Lu-ca, Giăng, Rô-ma, I Cô-rinh-tô,Ê-phê-sô, Cô-lô-se mà người ta đã nhìn nhận là Kinh Thánh của đạo Đấng Christ.

Marion, một tay khác theo tà giáo, khoảng 140 S.C., để ủng hộ tà giáo của mình, đã tự đặt ra một kinh điển gồm các sách Lu-ca, Rô-ma, I và II Cô-rinh-tô , Ga-la-ti,Ê-phê-sô, Phi-líp, Cô-lô-se, I và II Tê-sa-lô-ni-ca, Phi-lê-môn.

Irénée (130-200 S.C.), một môn đệ của Polycarpe, trưng dẫn hầu hết các sách của Tân Ước và gọi là "Kinh Thánh." Đương thời ấy, các sách của Tân Ước được gọi là "Tin Lành và các Sứ đồ," cũng như các sách của Cựu Ước được gọi là "Luật pháp và các tiên tri."

Tertullien (160-220 S.C.), ở Carthage, sống đương thời còn nguyên bản thảo của các thơ tín; ông gọi Kinh Thánh của đạo Đấng Christ là "Tân Ước"  (danh hiệu nầy xuất hiện lần đầu tiên trong văn phẩm của một tác giả vô danh khoảng 193 S.C.). Trong các tác phẩm của Tertullien còn đến ngày nay, có trưng dẫn 1800 câu Tân Ước. Trong sách nhan đề: "Chống bọn tà giáo," Tertulliencó viết:

"Nếu anh em muốn sử dụng tánh tọc mạch một cách hữu ích cho vấn đề cứu rỗi linh hồn mình, thì nên đến thăm những nhà thờ của các Sứ đồ, tại đó ghế của họ còn đặt nguyên chỗ cũ; tại đó, người ta đã đọc những thơ tín chân chánh của họ, gợi lên tiếng nói và vẻ mặt của từng vị Sứ đồ. Anh em ở gần A-chai chăng? Anh em có thể đi tới Cô-rinh-tô . Nếu anh em ở gần xứ Ma-xê-đoan, thì có thể đi đến thành Phi-líp và Tê-sa-lô-ni-ca. Nếu anh em có thể đi đến xứ A-si, thì ghé Ê-phê-sô được. Nếu anh em ở gần xứ Ý-đại-lợi, thì ghé thành La-mã được.

Tân bản Muratorien, trứ tác tại La-mã, khoảng 170 S.C., trong có một bản liệt kê các quyển gọi là "Kinh Thánh" của đạo Đấng Christ. Nó bỏ sót các thơ Hê-bơ-rơ, I và II Phi-e-rơ, Gia-cơ, nhưng thêm vào sách "Khôn ngoan" và sách "Khải Huyền" của Phi-e-rơ.

Bản Syriaque cũ,trứ tác khoảng giữa thế kỷ thứ 2 S.C., bỏ sót các thơ Gia-cơ, I và II Phi-e-rơ,I, II, và III Giăng, và sách Khải Huyền.

Bản La-tinh cũ,trứ tác khoảng giữa thế kỷ thứ 2 S.C., bỏ sót các thơ Hê-bơ-rơ, Gia-cơ và II Phi-e-rơ.

Origène (185-254), ở thành Alexandrie, là một học giả tin theo Đấng Christ, đi rất nhiều, học rất cao, suốt đời chuyên chú nghiên cứu Kinh Thánh. Ông viết rất nhiều, có khi dùng đến 20 thư ký một lúc. Trong những tác phẩm của ông còn lại tới ngày nay, ta thấy trưng dẫn tới 2 phần 3 Tân Ước. Ông nhìn nhận 27 quyển của Tân Ước như ta có ngày nay, mặc dầu ông không biết chắc ai là tác giả thơ Hê-bơ-rơ, và tỏ ý nghi ngờ các thơ Gia-cơ, II Phi-e-rơ, II và III Giăng.

Những sách nào hợp thành Tân Ước?

Do những đoạn dẫn chứng trên đây và do lời trưng dẫn của Eusèbe, ta sẽ thấy rằng trong một thời gian, có những ý kiến hơi khác nhau về sách nào được coi là thuộc về Kinh điển. Đây, lý do giản dị của tình trạng ấy: Vì cớ phương tiện giao thông chậm chạp trên lãnh thổ bao la của đế quốc La-mã, và vì cớ cơn bắt bớ tàn ác kéo dài không dứt trong 300 năm, nên các chi hội không có lấy một cơ hội để thực hiện sự cố gắng khả quan,công khai và hợp lý, mong đạt tới chỗ toàn thể đồng ý về những sách nào thật có thẩm quyền của các Sứ đồ. Mãi tới đầu thế kỷ thứ 4, hoàng đế Constantinra chiếu chỉ khoan dung tín ngưỡng, thì sự cố gắng ấy mới thực hiện được.

Còn những sách"khả nghi" thì sao?

Nó vốn không phải là "khả nghi" ở những khu vực nó xuất hiện lần đầu tiên. Các nỗi khó khăn đương thời đó đã ngăn trở, khiến nó không được nhiều người biết trong một thời gian.Nó chậm được toàn thể tiếp nhận,-- đó là bằng cớ tỏ ra các chi hội rất thận trọng đối với những kẻ phỉnh gạt.

Eusèbe (264-340 S.C.), Giám mục tại thành Sê-sa-rê, chuyên chép sử ký Hội Thánh, đã bị cầm tù, nhưng sống sót trong cơn bắt bớ tín đồ Đấng Christ dưới đời trị vì của Dioclétien.Cơn bắt bớ nầy là sự cố gắng sau chót và tuyệt vọng của đế quốc La-mã để xóa bỏ Danh Đấng Christ. Một mục đích đặt biệt của nó là tiêu diệt hết Kinh Thánh của đạo Đấng Christ. Trải qua 10 năm, Kinh Thánh đã bị các cán bộ của đế quốc La-mã săn bắt và bị thiêu đốt tại những khu chợ công cộng. Trong những ngày khủng khiếp ấy, đối với tín đồ Đấng Christ, vấn đề những sách nào hợp thành Kinh Thánh không phải là chuyện chơi đâu.

Eusèbe sống tới đời trị vì của Constantin, là hoàng đế tiếp nhận đạo Đấng Christ, đặt làm tôn giáo của triều đình và đế quốc mình. Eusèbe trở thành trưởng ban cố vấn tôn giáo của Constantin. Một hành động đầu tiên của Constantin khi lên ngôi là ra lịnh chép NĂM CHỤC KINH THÁNH cho các chi hội tại Constantinople, do tay những ký lục tài khéo, trên giấy da bò non tốt nhứt, và phải dùng xe ngựa của nhà vua mà chở từ Sê-sa-rê đến Constantinople.Trong lịnh gởi cho Eusèbe, Constantin viết rằng:

"Trẫm nghĩ nên chỉ thị cho ông khiến người ta chép 50 bản Kinh Thánh. Ông biết rằng sự cấp phát và sử dụng Kinh Thánh nầy là rất cần thiết cho cuộc giáo huấn Hội Thánh . Vậy, phải chép trên giấy da tốt, viết rõ ràng, dưới một hình thức tiện lợi, dễ đem theo, do tay của những ký lục hoàn toàn thông thạo.. Chiếu theo thơ nầy, ông cũng có quyền dùng hai chiếc xe ngựa công cộng để chở Kinh Thánh. Nhờ sắp đặt như vậy,sẽ có thể rất dễ dàng gởi các bản Kinh Thánh đã sao cẩn thận đến cho Trẫm khám xét. Có thể giao công việc nầy cho một viên chấp sự trong Hội Thánh của ông;khi tới đây, viên chấp sự ấy sẽ biết Trẫm rộng rãi dường nào. Hỡi người anh em yêu dấu, nguyện Đức Chúa Trời gìn giữ ông!"

Tân Ước của Eusèbe gồm những sách nào? Đúng là những sách ngày nay hợp thành Tân Ước.

Nhờ dày công nghiên cứu, Eusèbebiết rõ những sách nào đã được toàn thể Hội Thánh công nhận. Trong quyển "Sử ký Hội Thánh" do ông trứ tác, ông nói đến bốn loại sách:

1.-- Những sách đã được toàn thể nhìn nhận.

2.-- Những sách "đang tranh luận": Gia-cơ, II Phi-e-rơ, Giu-đe, II và III Giăng; những sách nầy dầu có gồm trong các bản Kinh Thánh của ông, song bị một số người nghi ngờ.

3.-- Những sách "giả mạo,"trong số đó ông có ghi sách "Công vụ các sứ đồ" của Phao-lô, sách "người chăn chiên của Hermas," sách "Khải Huyền" của Phi-e-rơ, "Thơ tín của Ba-na-ba" và sách "Didache."

4.-- Những "tác phẩm giả mạo của bọn theo tà giáo": "Tin Lành của Phi-e-rơ," "Tin Lành của Thô-ma," "Tin Lành của Ma-thia," "Công vụ các sứ đồ"của Anh-rê, "Công- vụ các Sứ-đồ" của Giăng.

Giáo hội nghị tại Carthage (năm 397 S.C.) đã phê chuẩn 27 quyển Tân Ước như chúng ta được biết ngày nay.Giáo hội nghị nầy không thiết lập Tân Ước làm Kinh điển; song chỉ bày tỏ cái đã trở thành sự phán đoán chung của các chi hội, và nhìn nhận Quyển Sáchđược chỉ định làm Gia Tài Quí Báu Nhứt Của Loài Người.

Sự phê bình kim thời

Kinh Thánh, gồm cả Kinh điển Tân Ước có 27 quyển, đã được các Giáo phụ Hội Thánh đầu tiên nhìn nhận và, rốt lại, được Giáo hội nghị Carthage phê chuẩn. Như vậy, không còn nghi ngờ chi nữa,Kinh Thánh đã được giới tín đồ Đấng Christ thừa nhận trải qua 1000 năm.

Vì tinh thần phê bình kim thời dấy lên,nên lại có cuộc điều tra căn nguyên và tánh cách chân chánh của các sách trong Kinh Thánh và của tất cả các sách từ thượng cổ.

Chữ "phê bình" đem áp dụng cho Kinh Thánh, là một danh từ hơi sai, mặc dầu nhiều kẻ tự phụ và bất kính thật đã phê bình Kinh Thánh; hơn nữa, danh từ ấy thường được dùng để chỉ về sự cố gắng của giới trí thức kim thời, hòng phá hoại thẩm quyền thiên thượng của Kinh Thánh. Nếu danh từ ấy có nghĩa là phê bình và bình tâm cứu xét các thực sự hoặc các thực sự dẫn chứng, cốt để thành thực tìm tòi chân lý trong lịch sử,thì nó rất tự nhiên, hữu lý, chánh đáng, và mở rộng sự hiểu biết Kinh Thánh của chúng ta.

Phê bình lịch sử.

Sự phê bình nầy liên quan với tánh cách chân chánh của các sác Kinh Thánh, tức là: Ai đã trứ tác mỗi quyển sách? trứ tác khi nào? và mỗi quyển sách có phù hợp với lịch sử chăng?

Nói về các sách Tân Ước, thì đó chỉ là tại nêu lên vấn đề mà thế hệ các Giáo phụ Hội Thánh đầu tiên đã nêu lên để được giải đáp mỹ mãn. Sự cố gắng kiên quyết và uyên bác của các nhà phê bình kim thời để xác định tánh cách chân chánh của các sách Tân Ước, cũng chẳng hơn gì sự cố gắng của những thế hệ đương thời các sách ấy được phát hành lần đầu tiên.Quả thật, đối với các nhà phê bình thời xưa, họ ở cương vị tốt hơn để quyết định tánh chất của những sách đó. Đoàn xe lửa chạy qua đã lâu rồi, mới toan làm cho nó trật đường rầy, thì chẳng phải chuyện dễ đâu. Chẳng bao lâu, người ta cũng khám phá được các văn phẩm giả mạo. Ngay khi một quyển sách xuất bản,người ta đã nhận biết nó có tánh cách lịch sử, hay chỉ là truyện bịa. Nếu tôi viết lịch sử cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ quốc và ký tên tác giả là George Washington, thì tôi có thể khiến ai tin rằng Washinton đã trứ tác chăng?

Có một điểm đáng tiếc ở các nhà phê bình đã loại bỏ quan niệm truyền thống về căn nguyên của các sách trong Kinh Thánh,-- ấy là họ tự nhận lấy cái độc quyền làm "học giả." Ý kiến của họ là "ý kiến chung của giới học giả." Phải chăng họ có trí óc hẹp hòi đến nỗi nghĩ rằng chỉ những ai theo lý thuyết của họ mới là học giả? Hay là họ ngu dốt đến nỗi không biết rằng rất nhiều học giả uyên thâm nhứt thế giới lại thuộc phái bảo thủ? Quan điểm không phải là dấu hiệu của học giả, nhưng chỉ là dấu hiệu của một loại trí óc. Quyển Sách Cổ yêu dấu đã trải qua bao cuộc phê bình, và lâu lắm sau khi các nhà phê bình đã bị lãng quên, nó vẫn còn được hàng bao nhiêu triệu người yêu mến, tôn kính. Sách quí báu thay!

Phê bình bản văn.

Đây là so sánh các bản thảo khác nhau để chứng minh đâu là đúng nguyên văn mà họ đã sao ra. Kết quả là bản Cựu Ước tiếng Hê-bơ-rơ "Massocrétique"cùng bản Tân Ước tiếng Hy-lạp "Westcolt và Hort," về toàn thể, là nguyên văn Kinh Thánh đúng nhứt. Nghề in đã loại bỏ được nguy cơ sai lạc về bản văn.

Những Ngụy Kinh Tân Ước

Đây là những sách Tin Lành, Công vụ các sứ đồ và các thơ tín huyền hoặc, giả mạo, bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ thứ hai.Phần lớn giả mạo, và ngay từ lúc đầu đã bị nhận ra là giả mạo. "Những sách nầy đầy dẫy truyện tích phi lý và không xứng đáng về Đấng Christ và các Sứ đồ,đến nỗi không hề được kể là do Đức Chúa Trời mà ra, và không hề được sắp trong Kinh Thánh." Trong khi cố quyết thử lấp những khoảng trống của truyện tích Đức Chúa Jêsus trong Tân Ước, người ta đã dùng điển cứ giả dối để lan truyền những ý niệm tà giáo."

Người ta biết rằng có chừng 50 sách "Tin Lành" giả mạo, ấy là chưa kể nhiều sách "Công vụ các sứ đồ" và "Thơ tín" giả mạo. Những tác phẩm giả mạo nầy nhiều quá,nên Hội Thánh đầu tiên rất cần phải phân biệt sự giả với sự thật.

Người ta nói rằng Mahomet, giáo chủ Hồi giáo, đã nhờ loại sách nầy phần lớn mà có những ý niệm về đạo Đấng Christ. Loại sách nầy cũng là căn nguyên các giáo lý của Giáo hội La-mã.

Ta không nên lẫn lộn nó với tác phẩm của các "Giáo phụ Hội Thánh đầu tiên" có nói đến sau đây.

Dưới đây liệt kê những sách giả mạo được nhiều người biết nhứt:

Tin Lành của Ni-cô-đem.

Thể hiện các "Hành động của Phi-lát," tức là bản được mạo nhận là chánh thức báo cáo cuộc xét xử Đức Chúa Jêsus lên Hoàng đế Tibère, sáng tác nhằm thế kỷ thứ 2 hoặc thứ 5. Hoàn toàn tưởng tượng.

Mở đầu Tin Lành của Gia-cơ.

Tường thuật từ lúc Ma-ri sanh ra tới khi các con trẻ vô tội bị tàn sát. Những truyện tích nầy bắt đầu lưu hành ở thế kỷ thứ 2. Hoàn tất ở thế kỷ thứ 5.

Ma-ri biến hóa.

Đầy dẫy những phép lạ khó tin, mà tuyệt điểm là "thân thể không tì vít và quí báu" của Ma-ri được dời lên Thiên đàng. Sáng tác ở thế kỷ thứ 4, khi người ta bắt đầu thờ lạy Nữ đồng trinh.

Tin Lành theo người Hê-bơ-rơ.

Thêm vào bốn sách Tin Lành trong Kinh điển; có ít nhiều lời phán mạo nhận là của Đức Chúa Jêsus. Khoảng 100 S.C.

Tin Lành của phái Ebionite.

Soạn thảo dựa theo bốn sách Tin lành, có lợi cho giáo lý của phái Ebionite.Giữa thế kỷ thứ 2 và thứ 4.

Tin Lành của người Ai-cập.

Những cuộc đàm thoại tưởng tượng giữa Đức Chúa Jêsus và Sa-lô-mê. Giữa khoảng 130 và 150 S.C. Do phái Sabellius sử dụng.

Tin Lành của Phi-e-rơ.

Giữa thế kỷ thứ 2. Căn cứ trên bốn sách Tin Lành trong Kinh điển. Sáng tác để ủng hộ giáo lý của phái Docétique bài Do-thái.

Tin Lành giả mạo của Ma-thi-ơ.

Một bản dịch giả mạo sách Ma-thi-ơ, về thế kỷ thứ 5, đầy dẫy các phép lạ Đức Chúa Jêsus đã làm khi còn thơ ấu.

Tin Lành của Thô-ma.

Thế kỷ thứ 2. Đời sống của Đức Chúa Jêsus, từ lúc 5 đến lúc 12 tuổi. Mô tả Ngài là Đấng làm phép lạ để thỏa mãn tánh trẻ con thất thường của mình.

Ma-ri sanh ra.

Một tác phẩm quyết tâm giả mạo để phát triển sự thờ lạy Nữ đồng trinh Ma-ri.Truyện tích thiên sứ hằng ngày đến viếng thăm Ma-ri. Cùng với sự dấy lên của chế độ Thủ lãnh kia, sách nầy được hoan nghinh nhiệt liệt.

Tin Lành Ả-rập về tuổi thơ ấu.

Thế kỷ thứ 7. Truyện tích các phép lạ đang khi Chúa kiều ngụ ở Ai-cập. Dị thường cực điểm.

Tin Lành của Giô-sép, người thợ mộc.

Thế kỷ thứ 4. Phát xuất từ Ai-cập. Cốt để tôn vinh Giô-sép.

Sách Khải Huyền của Phi-e-rơ.

Những sự hiện thấy cố ý tạo ra về Thiên đàng và địa ngục mà Phi-e-rơ đã được xem. Eusèbe cho là "giả mạo."

Công vụ của Phao-lô.

Giữa thế kỷ thứ 2. Một quyển tiểu thuyết cốt ghi khắc sự tiết dục vào trí óc người ta. Có chứa thơ tín gởi cho Hội Thánh Cô-rinh-tô mà người ta giả định là đã thất lạc.

Công vụ của Phi-e-rơ.

Cuối thế kỷ thứ 2. Một truyện tình của con gái Phi-e-rơ. Tương phản với sách "Simon Magus." Chứa truyện "Quo Vadis."

Công vụ của Giăng.

Cuối thế kỷ thứ 2. Tường thuật một cuộc viếng thăm kinh thành La-mã. hoàn toàn tưởng tượng. Chứa một đoạn mô tả nhục dục làm cho ta kinh tởm.

Công vụ của Anh-rê.

Truyện tích Anh-rê thuyết phục Maximilla hãy đoạn tuyệt với chồng nàng;kết quả là Anh-rê phải tuận đạo.

Công vụ của Thô-ma.

Cuối thế kỷ thứ 2. Cũng như sách "Công vụ của Anh-rê," đây là một tiểu thuyết phiêu lưu, cốt khuyên bảo hãy tuyệt dục.

Thơ của Phi-e-rơ gởi cho Gia-cơ.

Cuối thế kỷ thứ 2. Kịch liệt công kích Phao-lô. Một tác phẩm bịa đặt hoàn toàn, có lợi cho phái Ebionite.

Thơ từ Lao-đi-xê gởi tới.

Tự nhận là bức thơ có nói đến ở Co 4:16. Thâu thập nhiều câu nói của Phao-lô.

Các thơ của Phao-lô gởi cho Sénèque.

Gồm cả các thơ của Sénèque gởi cho Phao- lô. Một tác phẩm giả mạo ở thế kỷ thứ 4. Mục đích hoặc để giới thiệu đạo Đấng Christ với các môn đệ của Sénèque, hoặc để giới thiệu Sénèquevới các môn đồ Đấng Christ.

Đặc điểm chính của những tác phẩm trên đây là nó hoàn toàn bịa đặt, song lại tự nhận là lịch sử. Phần lớn nó hoàn toàn phi lý đến nỗi sự giả mạo đã hiển nhiên.

Các thơ của Abgarus.

Các thơ nầy có thể có căn bản thực sự một phần nào. Eusèbe tưởng vậy.Ông kể rằng Arbarus, vua thành Edesse, lâm bệnh, và nghe nói về quyền phép của Đức Chúa Jêsus. Vua bèn gởi thơ mời Ngài đến chữa lành cho mình,và Ngài gởi thơ trả lời rằng: "Ta cần phải làm xong những việc Ta được sai đến để làm, sau đó, Ta sẽ được tiếp lên với Đấng đã sai Ta đến. Vậy, khi được tiếp lên Thiên đàng rồi, Ta sẽ sai một môn đồ tới chữa lành cho ngươi."Người ta kể rằng Tha-đê đã được sai đi, và được họ chỉ cho xem các bức thơ trong văn khố thành Edesse. Có lẽ Đức Chúa Jêsus đã nhắn tin ấy, và họ chép lại.

Tác phẩm của các Giáo phụ Hội Thánh

Ta không nên lẫn lộn những tác phẩm nầy với những sách giả mạo kể ở mấy trang trước, trong những sách giả mạo ấy, tác giả lấy tên các Sứ đồ để làm cho người ta tin truyện tích hoang đường của họ.

Giáo phụ Hội Thánh là những người còn sống sau thế hệ các Sứ đồ. Chỉ có ít tác phẩm của họ còn lại đến ngày nay  (chúng ta mong ước còn có nhiều hơn là dường nào!), vì vật liệu họ dùng để viết rất mau hư, và vì đương thời họ có sự bắt bớ dữ dội.

Nhưng dầu ít, nó cũng quí giá vô cùng,vì nó là vòng xích nối liền giữa các Sứ đồ và Lịch sử Hội Thánh về sau. Một vài tác phẩm thuộc loại nầy được coi quí đến nỗi ở ít nhiều địa phương, nó tạm thời được coi như là Kinh Thánh.

Thơ tín của Clément gởi cho tín đồ Cô-rinh-tô  (95 S.C.).

Clémentlàm Giám mục tại La-mã  (91-100 S.C.), là bạn hữu của Phao-lô và Phi-e-rơ. Chắc ông có quen biết Sứ đồ Giăng. Ông viết thơ tín nầy trong năm Giăng bị đày ở đảo Bát-mô. Sử chép rằng ông bị lên án phải đi làm việc trong các hầm mỏ, và đã tuận đạo trong năm thứ 3 đời trị vì của Trajan. Người ta cho rằng có lẽ ông là "Cơ-lê-măn" chép ở Phi 4:3.

Cơ hội viết thơ tín nầy là một cuộc chia rẽ trong Hội Thánh Cô-rinh-tô , và một số trưởng lão ở đó bị đám thanh niên ham mến thế gian trục xuất. Thơ tín nầy viết nhơn danh Hội Thánh ở La-mã,đầy dẫy lời cao đẹp khuyên bảo phải khiêm nhường, và luận nhiều về sự sống lại.Thơ tín được quí chuộng tột bậc đến nỗi nhiều chi hội đem đọc công khai mãi tới thế kỷ thứ 4. Trong bản thảo Kinh Thánh "A-léc-xăn-đơ-ri," ta thấy nó ở cuối Tân Ước.

Thơ tín của Polycarpe gởi cho tín đồ Phi-líp  (khoảng 110 S.C.).

Polycarpe,môn đệ của Sứ đồ Giăng, Giám mục tại Si-miệc-nơ, đã viết nhiều bức thơ, nhưng chỉ có bức thơ nầy còn lại. Ông viết nó để trả lời bức thơ của tín đồ Phi-líp thỉnh vấn ông. Thơ tín nầy rất giống thơ tín của Phao-lô mà ông khuyên họ phải kê cứu cẩn thận.

Các thơ tín của Ignace (khoảng 110 S.C.).

Ignace là môn đệ của Giăng, Giám mục tại thành An-ti-ốt;ông tuận đạo tại thành La-mã năm 110 S.C.. Trên đường từ An-ti-ốt đến La-mã,trải qua miền Tiểu-Á-tế-á, ông đã viết 7 thơ tín cho các chi hội Ê-phê-sô, Magnésie,Trallie, Phi-la-đen-phi, Si-miệc-nơ, La-mã, và cho Polycarpe. Trong số ấy, Phao-lô đã gởi thơ tín cho hai chi hội, và Giăng  (trong sách Khải Huyền)đã gởi thơ tín cho ba chi hội. Các thơ tín của Ignace đó đầy dẫy lời khuyên bảo êm ái, và tỏa ra tinh thần vui mừng, hớn hở của ông trước triển vọng sắp tuận đạo. Những thơ tín nầy nhấn mạnh vào sự tai hại của tà giáo và chia rẽ, lại cũng khuyên phải phục tòng các trưởng lão trong Hội Thánh.

Thơ tín của Ba-na-ba.Viết giữa khoảng 90 và 120 S.C..

Có người tưởng đây là Ba- na-ba trong Tân Ước,song có kẻ lại nghi ngờ điều đó. Đây là một bức thơ chung, gởi cho hết thảy tín đồ Đấng Christ, trong đó lược giải Kinh Thánh, đặc biệt cốt để chống lại sự quay về với đạo Do-thái. Ta thầy thơ tín nầy trong bản thảo Kinh Thánh " Sinaitique,"ở cuối phần Tân Ước; vậy, tỏ ra nó được quí trọng lắm.

Các tàn bản của Papias.

Papias là môn đệ của Giăng và Giám mục tại Hiérapolis.Ông tuận đạo gần cùng một lúc với Polycarpe. Ông viết một quyển:"Giải thích các bài giảng của Chúa," còn lưu lại tới thế kỷ thứ 13.Nhưng bây giờ chỉ còn lại ít đoạn trưng dẫn trong các sách của Irénée,Eusèbe và một vài tác giả khác.

"Didache," hoặc "Sự dạy dỗ của 12 Sứ đồ," hoặc -- với một nhan đề dài hơn -- "Sự dạy dỗ của Chúa cho các dân ngoại bởi 12 Sứ đồ."

Viết khoảng giữa năm 80 và 120, có lẽ lắm chừng 100 S.C.. Không phải thật là tác phẩm của các Sứ đồ,nhưng chỉ là một tác giả vô danh tuyên bố mình hiểu sự dạy dỗ của các Sứ đồ là gì. Nó giống như thơ tín của Gia-cơ. Các trứ giả trong Hội Thánh đầu tiên không nhìn nhận nó là Kinh điển, song cũng quí trọng nó lắm. Nó đầy dẫy những lời trưng dẫn của các sách Tân Ước.

Người chăn chiên của Hẹt-ma.

Viết khoảng 100 hoặc 140 S.C.. Đây là một tỷ dụ lâu đời nhứt về loại văn ngụ ngôn trong đạo Đấng Christ, tức là quyển "Thiên lộ Lịch trình" của Hội Thánh đầu tiên, và đương thời ấy, nó cũng được hoan nghinh như vậy. Tác giả là người mộ đạo nồng nhiệt, và đã thấy những khải tượng mà ông viết trong sách nầy; ông nhấn mạnh vào sự ăn năn, đời thiêng liêng và sự tái lâm hầu gần của Chúa. Sách nầy được đọc trong nhiều chi hội cho đến thời Thánh Jérôme. Ta thấy nó trong bản thảo Kinh Thánh "Sinaitique," ở cuối phần Tân Ước. Nói rằng tác giả là Hẹt-ma ở Ro 16:14 thì chỉ là đoán phỏng.

Biện giải của Aristide.

Ông là một triết gia ở thành A-thên. Ông viết quyển: "Binh vực đạo Đấng Christ," gởi cho Hadrien năm 125 S.C., và cho Antonin năm 137 S.C., thỉnh cầu hãy che chở tín đồ Đấng Christ khỏi sự bắt bớ. Ông nói rằng: "Giới tín đồ Đấng Christ đáng được phước hơn mọi người, vì họ có tín điều chân chánh, cao thượng, và vì đời sống họ trong sạch, từ thiện." Đây là văn phẩm lâu đời nhứt mà ta được biết, của một triết gia dành cho đạo Đấng Christ. Nó lại phát xuất từ A-thên, là "quê hương" của triết lý.

Justin Martyr.

(100-167 S.C.). Một triết gia sau khi thử theo triết lý khắc kỷ  (stoicisme),triết lý của Aristole, Pythagore, và Platon, ông đã tìm được sự thỏa mãn trong đạo Đấng Christ. Ông viết các sách "Biện giải" gởi cho hoàng đế Antonin, để binh vực đạo Đấng Christ và phản đối sự hành quyết ba tín đồ mà không xét xử hợp lệ. Ông cũng viết sách "Đàm thoại với Trypho,"tức là bài lý luận với một người Do-thái về Đức Chúa Jêsus là Đấng Mê-si.

Thơ tín thứ hai của Clément.

Giữa khoảng 120 và 140 S.C.. Đây là một bài giảng. Không biết chắc có phải là cùng một Clément trên kia chăng.Không được quí trọng bằng thơ tín thứ nhứt.

Thơ tín của Diognetus.

Sách binh vực đạo Đấng Christ, do một tác giả vô danh tự nhận là "môn đệ của các Sứ đồ."

Các Bản Thảo

Theo chỗ chúng ta biết, thì bản thảo nguyên văn của hết các sách trong Tân Ước đều đã thất lạc.

Ngay từ lúc đầu, người ta đã khởi sự sao các tác phẩm quí báu ấy cho những chi hội khác. Hết thế hệ nầy tới thế hệ khác, người ta đã sao đi sao lại mỗi khi các bản sao cũ rách nát.

Vật liệu thường dùng để viết là giấy chỉ thảo  (papyrus). Giấy nầy làm bằng những lát mỏng của một loại cây mọc dưới nước ở Ai-cập. Hai lát mỏng, một dọc, một ngang, được ép lại làm một, rồi đánh bóng. Mực thì làm bằng than, keo và nước.

Những tấm nhỏ dùng để chép bản văn ngắn. Muốn chép bản văn dài, họ dán nhiều tấm liền gốc nhau, làm thành một cuốn. Một cuốn thường dài chừng 10 thước tây, và cao chừng 23 hoặc 26 phân tây.

Nhằm thế kỷ thứ 2 S.C., người ta bắt đầu chép các sách của Tân Ước dưới hình thức sách vở ngày nay, tức là bất cứ bao nhiêu tờ cũng có thể đóng thành một quyển, có đánh số trang. Như vậy, một quyển có thể gồm nhiều sách Tân Ước hơn một cuốn trước kia.

Giấy chỉ thảo không bền lắm. Với thời gian, nó hóa ra dòn, hoặc vì ẩm mà mục đi, và chẳng bao lâu đã rách nát. Chỉ trừ ra ở Ai-cập, khí hậu khô ráo và bãi cát dời chuyển đã giữ một mớ tài liệu lạ lùng từ thượng cổ cho tới ngày nay, chúng ta khám phá được.

Nhằm thế kỷ thứ 4 S.C., giấy da bò non thay thế giấy chỉ thảo, làm vật liệu chánh yếu để biên chép. Giấy da bò non mỏng mịn và bền hơn bội phần, có thể đóng thành sách, chớ không phải cuốn nữa.

Mãi sau đây mới khám phá được những cuốn sách bằng giấy chỉ thảo Ai-cập; ngoài ra, hết thảy bản thảo Kinh Thánh còn lưu truyền lại và ta được biết đều bằng giấy da bò non.

Khi máy in được phát minh nhằm thế kỷ thứ 15, thì người ta không còn dùng tay chép Kinh Thánh nữa.

Ngày nay, theo chỗ ta biết, có chừng 4000 bản thảo Kinh Thánh hoặc một phần Kinh Thánh, chép giữa khoảng thế kỷ thứ 2 và thế kỷ 15. Đối với ta, dường như là ít, nhưng còn nhiều hơn bội phần bản thảo của bất cứ tác phẩm thượng cổ nào khác. Người ta không biết có một toàn bộ văn phẩm của Homère trước năm 1300 S.C., hoặc của Hérodote trước năm 1000 S.C..

Các bản thảo trên giấy da bò non mà ta được biết ngày nay đã được chép giữa khoảng thế kỷ thứ 4 và thứ 15. Người ta gọi nó là bản "hình chữ hoa La-mã"  (oncial) và bản "viết tháu"  (cursif). Bản "hình chữ hoa La-mã" viết bằng chữ hoa lớn. Có chừng 160 bản thuộc loại nầy, chép giữa thế kỷ thứ 4 và thứ 10. Bản "viết tháu" bằng chữ nhỏ thoăn thoắt liền nối với nhau, và chép giữa thế kỷ thứ 10 và thứ 15. Các bản "hình chữ hoa La-mã" quí giá bội phần hơn vì lâu đời hơn.

Ba bản thảo lâu đời nhứt, đầy đủ nhứt,nổi tiếng nhứt và quí giá nhứt, vẫn gọi là "Codices," là: bản "Sinaitique," bản "Vatican," và bản "A-léc-xăn-đơ-ri."Cả ba vốn là toàn bộ Kinh Thánh.

Bản thảo "Sinaitique."hoặc "Codex Sinaiticus," do một học giả người Đức, tên là Tischendorf,tìm thấy năm 1844, tại tu viện Sainte Catherine, trên núi Si-na-i. Trong giỏ lá bỏ ra để đốt, ông nhận thấy những trang giấy da bò non viết chữ Hy-lạp.Xem xét kỹ hơn, ông nhận thấy là những phần bản thảo cổ của bộ Cựu Ước Septante, gồm 43 tờ. Ông hết sức tìm kiếm, nhưng không kiếm được chi hơn nữa.Năm 1853, ông trở lại tu viện ấy để tìm kiếm nữa, nhưng khô