NHỮNG GỢI Ý:

Ma-thi-ơ 27 là đoạn Kinh Thánh ghi chép lại cuộc xét xử vô lý và không công bằng dành cho Chúa Jêsus, nhưng mục đích cuối cùng của kẻ thù Ngài dường như đắc thắng, họ đã đóng đinh Chúa Jêsus trên thập tự giá. Nhưng đó chính là điều Chúa Jêsus đã tự phó mình để thực hiện chương trình cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại. Ngài đã trở nên con chiên của Lễ Vượt Qua cất tội lỗi của thế gian đi.

Vào thời đó, dù người La Mã cai trị tất cả các quốc gia họ chinh phục, nhưng chính sách của họ là không loại bỏ tổ chức chính quyền của dân bản xứ. Vì thế, tại xứ Pa-lét-tin, họ cho phép Tòa Công luận có quyền phân xử các vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên, trong trường hợp có bản án tử hình, thì bản án đó chỉ được thi hành sau khi đã được viên Thống đốc La Mã duyệt lại trong tòa án dân sự. Đây là lý do vì sao Chúa phải bị xử tại hai phiên tòa:

  • Tòa án tôn giáo: Tòa Công luận, còn gọi là Tòa án Do Thái.
  • Tòa án dân sự: Trước Tổng đốc Bôn-xơ Phi-lát, còn gọi là Tòa án La Mã.

I. TÒA ÁN TÔN GIÁO (PHIÊN TÒA DO THÁI)

1. Tòa Công luận: Là tòa thượng thẩm của người Do Thái, gồm hai đảng tôn giáo là Sa-đu-sê và Pha-ri-si. Đảng Sa-đu-sê hầu hết là các thầy tế lễ là đảng giao du thân thiện với người La Mã nên là đảng kiểm soát Tòa Công luận với Thầy tế lễ thượng phẩm đứng đầu, do người La Mã chọn và bổ nhiệm.

2. Hai quan tòa: Theo Ma-thi-ơ 26:57 quan tòa tôn giáo là Cai-phe, Thầy tế lễ thượng phẩm đương niên, được La Mã bổ nhiệm vào năm 15. S.C.

Tuy nhiên, khi đối chiếu với Giăng 18:13-24 thì trước khi đến tòa án Cai-phe, Chúa đã bị xử tại tòa án An-ne. An-ne là Thầy tế lễ thượng phẩm từ năm thứ 6. S.C đến 15. S.C. Ông bị La Mã cách chức và bổ nhiệm Cai-phe là con rể của ông thay thế ông làm Thầy tế lễ thượng phẩm.

Dầu vậy, An-ne vẫn được gọi là Thầy cả thượng phẩm (Giăng 18:19, 22) vì đối với người Do Thái, chức vụ Thầy cả (tế lễ) thượng phẩm là một chức vụ suốt đời. Hơn nữa, vì là ông gia của Cai-phe nên An-ne vẫn có ảnh hưởng lớn trên dân Do Thái.

3. Nhân chứng: Theo Ma-thi-ơ 26:59-60, các thầy cả thượng phẩm và cả Tòa Công Luận đều tìm những chứng dối để buộc tội Chúa, nhưng những lời chứng ấy không phù hợp nhau.

4. Lời buộc tội: Theo Ma-thi-ơ 26:63-64, lời buộc tội đưa Chúa Jêsus đến bản án tử hình là lời cáo buộc Ngài phạm thượng vì tự xưng là Đức Chúa Trời.

012 Hoi dong do thai

 

TÒA ÁN DÂN SỰ (PHIÊN TÒA LA MÃ)

1. Lý do có phiên tòa La Mã: Vì tòa án tôn giáo không có quyền tử hình phạm nhân (Giăng 18:31). Án tử hình phải được Tổng đốc La Mã xét duyệt.

2. Hai quan tòa: Theo Ma-thi-ơ 27:1-2 Chúa Jêsus đã bị đưa đến quan Tổng đốc La Mã là Bôn-xơ Phi-lát. Ông cai trị Giu-đê và Sa-ma-ri thay thế cho A-chê-lau. Nhân lễ Vượt qua, ông đã từ Sê-sa-rê đến ở tại tháp Antonia để bảo đảm an ninh cho kỳ lễ.

Đối chiếu với Lu-ca 23:6-12, ta thấy Phi-lát đã gửi Chúa Jêsus đến Hê-rốt An-ti-pa vì Chúa sống tại Ga-li-lê là vùng trách nhiệm của Hê-rốt. Hê-rốt mong gặp Chúa Jêsus để xem phép lạ nhưng Chúa chẳng đáp lại một lời. Hê-rốt và lính của ông nhạo báng Chúa rồi giao Chúa lại cho Phi-lát. Một điểm đáng lưu ý là qua Chúa Jêsus mà Phi-lát và Hê-rốt lại kết bạn với nhau!

Như thế, từ Cung điện thầy cả thượng phẩm, Chúa bị đưa đến tháp Antonia, sau đó bị đưa đến cung điện Macabe nơi Hê-rốt An-ti-pa ở, và cuối cùng bị đưa trở về tháp Antonia để bị xét xử trước Phi-lát.

3. Lời buộc tội: Theo Ma-thi-ơ 27:11 thì câu hỏi đầu tiên của Phi-lát là “Ngươi có phải là vua dân Giu-đa không? Sau đó, lính La Mã chế giễu Chúa Jêsus rằng: Lạy vua dân Giu-đa. Họ đã dùng chiếc mão miện bằng gai làm biểu tượng về Vương quyền của Chúa Jêsus.

Như thế, tại phiên tòa tôn giáo, Chúa bị kết án tử hình vì xưng Ngài là Đức Chúa Trời, thì tại tòa án dân sự, Chúa bị kết án tử hình vì Ngài xưng Ngài là Vua.

4. Bản án tử hình: Khi Phi-lát tìm cách tha Chúa Jêsus thì người Do Thái cho biết: Ví bằng quan tha người nầy, thì quan không phải là trung thần của Sê-sa; Vì hễ ai tự xưng làm vua, ấy là xướng lên nghịch cùng Sê-sa (Giăng 19:12).

Cuối cùng, để thuyết phục Phi-lát, người Do Thái đã phải tuyên bố: Chúng tôi không có vua khác, chỉ Sê-sa mà thôi! (Giăng 19:15).

Dưới áp lực chính trị nặng nề của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Phi-lát đành phải rửa tay để tránh chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Jêsus (Ma-thi-ơ 27:24) rồi giao Ngài cho chúng đặng đóng đinh trên cây thập tự. Như thế, Vị Vua của Tình Yêu đã bị giải từ tháp Antonia đến núi Sọ (đồi Gô-gô-tha) để bị đóng đinh bên ngoài thành.

Phiên tòa Phi-lát kéo dài đến hơn 6 giờ sáng. Sau đó Chúa bị giao cho bọn lính La Mã để đóng đinh trên thập tự giá vào 9 giờ sáng. Tại đây, Chúa Jêsus đã phải trải qua nhiều nỗi đau đớn từ thân xác đến tinh thần và tâm linh.

023 Ghe xu an o Gie ru sa lem

 

 

SỰ CHẾT CỦA CHÚA JÊSUS

1. Hiện tượng lạ trong Đền thờ: Ma-thi-ơ 27:51-52 mô tả một số hiện tượng lạ xảy ra khi Chúa chết. Quan trọng nhất là hiện tượng bức màn trong Đền thờ bị xé ra làm đôi từ trên chí dưới.

2. Bức màn trong Đền thờ: Giữa Nơi thánh và Nơi Chí thánh có một bức màn ngăn cách. Người dân chỉ được vào hành lang Đền thờ. Các thầy tế lễ được vào Nơi thánh, nhưng chỉ có thầy tế lễ thượng phẩm mới được vào Nơi Chí thánh, mỗi năm một lần. Khi vào Nơi Chí thánh, thầy tế lễ thượng phẩm phải đem theo huyết chiên con được dâng làm sinh tế.

3. Ý nghĩa bức màn bị xé: Bức màn ngăn không cho người ta vào Nơi Chí thánh, biểu tượng cho tội lỗi ngăn cách tội nhân bước vào sự hiện diện thánh khiết của Đức Chúa Trời (Ê-sai 59:2).

Bức màn bị xé làm hai từ trên chí dưới tượng trưng cho sự kiện: Sự chết của Chúa Jêsus đã mở cho con người một con đường bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 10:19-20).

Vì thế, chúng ta phải lấy lòng thật thà, với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa (Hê-bơ-rơ 10:22). Hãy cảm tạ Chúa về đặc ân nầy và hãy đến gần Đức Chúa Trời ngay bây giờ.

 

Câu Kinh Thánh ghi nhớ Ma-thi-ơ  27:54 (BDHD): 

 

Khi viên đội trưởng và quân lính canh giữ Đức Chúa Jêsus, thấy đất rúng động cùng những gì đã xảy ra thì vô cùng kinh hãi và nói: “Thật, Người nầy là Con Đức Chúa Trời.”

 

Các nhân vật:

Giô-sép người A-ri-ma-thê

1. Sự kiện: Giô-sép người A-ri-ma-thê, môn đồ của Chúa Jêsus, đã đến nơi Phi-lát để xin xác Chúa Jêsus. Giô-sép lấy xác Chúa bọc trong tấm vải liệm trắng và đưa để trong một cái huyệt mới mà ông đã sai đục cho mình trong hòn đá. Giăng 19:39-40 cho biết Ni-cô-đem cũng đem 100 cân một dược hòa với lư hội để cùng với Giô-sép khâm liệm xác Chúa.

2. Giá trị việc làm của Giô-sép: Giô-sép đã dâng ngôi mộ của mình để chôn Chúa. Nếu không, xác Chúa có thể bị chôn bừa trong mộ, chung với các tử tội khác.

Những người hạ xác Chúa để khâm liệm chứng tỏ mình đang đứng về phía Chúa Jêsus, Đấng bị giới lãnh đạo Do Thái thù ghét. Nghĩa là họ sẵn sàng cùng chịu bách hại với Chúa. Đây là việc làm vô cùng can đảm.

Trước ngày lễ lớn mà họ đã dành thì giờ và tâm sức để lo cho Chúa, thật là một việc làm vô cùng quý giá.

3. Động cơ hành động: Tuy nhiên khi Giô-sép và Ni-cô-đem chôn Chúa Jêsus, các môn đồ đều tản lạc, Chúa Jêsus đã chết, mọi hy vọng về Nước Trời của Chúa thiết lập dường như đã mất. Vì thế, họ hành động, không mong được tưởng thưởng, chấp nhận... Họ hành động chỉ vì yêu Chúa chứ không vì một mục đích nào khác. Chúng ta đang làm công việc Chúa với động cơ nào?

 

Địa danh:

  • Gô-gô-tha là tiếng A-ra-mê-ên có nghĩa là “cái sọ”. Đó là nơi Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá (Ma-thi-ơ 27: 33). Ấy là một chỗ có sọ người lăn lóc vì có lẽ nơi đây là một pháp trường. Jérôme (346 - 420 S.C.) nói rằng: “Đây là một nơi ngoài thành, không có cửa, tại đó những tội nhân bị chém đầu, bởi vậy có tên là Calvaire: nghĩa là nơi chém đầu.

 

 


Nội dung

1 Đến sáng, tất cả các thầy tế lễ cả và các trưởng lão của dân chúng bàn mưu chống lại Đức Chúa Jêsus để giết Ngài. 2 Họ trói Ngài lại, rồi giải đi giao nộp cho tổng đốc Phi-lát.

Sự chết của Giu-đa

3 Khi Giu-đa, kẻ phản Ngài, thấy Ngài bị kết án thì hối hận, đem ba mươi miếng bạc trả lại cho các thầy tế lễ cả và các trưởng lão, 4 mà nói rằng: “Tôi đã phạm tội vì nộp huyết vô tội!” Nhưng họ đáp: “Việc ấy thì có liên can gì đến chúng tôi? Đó là việc của anh.” 5 Giu-đa ném bạc vào đền thờ, rồi trở ra, đi thắt cổ. 6 Nhưng các thầy tế lễ cả nhặt những miếng bạc và nói: “Để bạc nầy vào công quỹ là không hợp lệ, vì là giá của máu.” 7 Vì vậy, họ bàn với nhau dùng bạc ấy mua đồng ruộng của thợ gốm để chôn cất các kiều dân. 8 Vì lý do đó mà đồng ruộng ấy được gọi là Ruộng Máu cho đến ngày nay. 9 Như vậy, lời của nhà tiên tri Giê-rê-mi nói đã được ứng nghiệm: “Họ lấy ba mươi miếng bạc, là giá mà con cái Y-sơ-ra-ên đã định cho Ngài, 10 và dùng bạc ấy mua đồng ruộng của thợ gốm, như Chúa đã truyền cho ta.”

Đức Chúa Jêsus trước mặt Phi-lát

11 Lúc ấy, Đức Chúa Jêsus đứng trước mặt tổng đốc; viên tổng đốc hỏi: “Ngươi có phải là vua dân Do Thái không?” Đức Chúa Jêsus đáp: “Chính ngươi đã nói thế.” 12 Nhưng khi các thầy tế lễ cả và các trưởng lão tố cáo Ngài, Ngài không trả lời. 13 Phi-lát hỏi Ngài: “Ngươi không nghe biết bao điều họ làm chứng chống lại ngươi sao?” 14 Nhưng Đức Chúa Jêsus không đáp một lời nào khiến viên tổng đốc rất đỗi kinh ngạc.

15 Theo thông lệ, cứ vào dịp lễ, tổng đốc ân xá cho một tù nhân theo ý dân muốn. 16 Lúc ấy, họ đang giữ một tù nhân khét tiếng tên là Ba-ra-ba. 17 Vì vậy, khi họ tụ họp lại, thì Phi-lát hỏi: “Các ngươi muốn ta tha người nào, Ba-ra-ba hay Jêsus gọi là Christ?” 18 Vì ông biết, bởi lòng đố kỵ nên họ đã nộp Ngài. 19 Ngoài ra, trong lúc ông ngồi xử án, vợ ông cho người đến thưa rằng: “Xin đừng đụng đến người công chính ấy, chính vì người mà hôm nay tôi bị dằn vặt nhiều trong chiêm bao.” 20 Nhưng các thầy tế lễ cả và các trưởng lão xúi giục dân chúng xin tha Ba-ra-ba và giết Đức Chúa Jêsus. 21 Tổng đốc lại hỏi: “Trong hai người nầy các ngươi muốn ta tha ai?” Họ trả lời: “Ba-ra-ba.” 22 Phi-lát nói: “Vậy ta phải xử thế nào với Jêsus gọi là Christ?” Họ đồng loạt trả lời: “Đóng đinh nó trên cây thập tự!” 23 Tổng đốc hỏi: “Người nầy đã làm điều ác gì?” Nhưng họ lại la lớn hơn: “Đóng đinh nó trên cây thập tự!”

24 Vì vậy, khi Phi-lát thấy mình chẳng làm được gì, lại còn có thể nẩy sinh bạo động, nên lấy nước và rửa tay trước dân chúng, rồi nói: “Ta vô tội về huyết của người nầy; đó là việc của các ngươi.” 25 Cả dân chúng đều trả lời: “Xin huyết của nó đổ trên chúng tôi và con cháu chúng tôi!” 26 Vậy Phi-lát tha Ba-ra-ba cho họ, và đánh đòn Đức Chúa Jêsus,rồi giao Ngài để đóng đinh vào thập tự giá.

27 Sau đó, lính của tổng đốc đem Đức Chúa Jêsus vào tư dinh tổng đốc và tập trung cả đội binh chung quanh Ngài. 28 Chúng lột áo Ngài ra và khoác cho Ngài một chiếc áo điều, 29 đan một chiếc mão gai và đội trên đầu Ngài, rồi đặt một cây sậy trong tay phải Ngài. Chúng quỳ trước mặt Ngài, nhạo báng rằng: “Lạy Vua dân Do Thái.” 30 Chúng khạc nhổ trên Ngài, lấy cây sậy đánh vào đầu Ngài. 31 Sau khi đã chế nhạo Ngài, chúng lột áo điều ra, mặc áo của Ngài vào, rồi giải đi để đóng đinh vào thập tự giá.

Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh

32 Lúc đi ra, chúng gặp một người Sy-ren tên là Si-môn, và bắt người nầy vác thập tự giá của Đức Chúa Jêsus. 33 Khi đến một nơi gọi là Gô-gô-tha, có nghĩa là Đồi Sọ, 34 chúng cho Ngài uống rượu hòa với mật đắng; nhưng khi đã nếm,thì Ngài không uống. 35 Sau khi đã đóng đinh Ngài vào thập tự giá, chúng bắt thăm chia nhau y phục của Ngài. 36 Rồi chúng ngồi đó canh giữ Ngài. 37 Phía trên đầu Ngài có để một cáo trạng ghi rằng: “ĐÂY LÀ JÊSUS, VUA DÂN DO THÁI.” 38 Lúc ấy, có hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài: một tên ở bên phải, một tên bên trái. 39 Những kẻ đi qua đều chế giễu, lắc đầu 40 và nói: “Ngươi là người có thể phá đền thờ và xây lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi! Nếu ngươi là Con Đức Chúa Trời, hãy xuống khỏi thập tự giá đi!” 41 Các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo và các trưởng lão cũng chế nhạo Ngài rằng: 42 “Nó đã cứu người khác mà không thể tự cứu chính mình. Nó là vua Y-sơ-ra-ên mà! Bây giờ hãy để nó xuống khỏi thập tự giá đi thì chúng ta sẽ tin ngay. 43 Nó tin cậy Đức Chúa Trời. Nếu Ngài yêu thương nó thì bây giờ hãy để Ngài giải cứu nó;vì nó nói: 'Ta là Con Đức Chúa Trời.’ ” 44 Hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng mắng nhiếc Ngài như vậy.

45 Từ giữa trưa đến ba giờ chiều, bóng tối bao trùm khắp đất. 46 Khoảng ba giờ chiều, Đức Chúa Jêsus kêu lớn tiếng: “Ê-li, Ê-li, lam-ma-sa-bách-ta-ni?” nghĩa là: “Đức Chúa Trời của con! Đức Chúa Trời của con! Sao Ngài lìa bỏ con?” 47 Nghe vậy, vài người đứng gần đó nói: “Người nầy gọi Ê-li.” 48 Một người trong bọn họ liền chạy đi lấy một miếng bọt biển thấm đầy giấm, để trên đầu cây sậy và đưa cho Ngài uống. 49 Nhưng các kẻ khác lại bảo: “Hãy đợi, xem Ê-li có đến giải cứu nó không.” 50 Đức Chúa Jêsus kêu một tiếng lớn nữa, rồi trút linh hồn.

51 Và kìa, bức màn bên trong đền thờ bị xé làm đôi từ trên xuống dưới, đất rúng động, đá tảng vỡ ra; 52 các mồ mả cũng mở tung, nhiều thi thể của các thánh đã qua đời được sống lại 53 và ra khỏi mộ. Sau khi Đức Chúa Jêsus sống lại, các thánh ấy đi vào thành thánh và hiện ra cho nhiều người. 54 Khi viên đội trưởng và quân lính canh giữ Đức Chúa Jêsus, thấy đất rúng động cùng những gì đã xảy ra thì vô cùng kinh hãi và nói: “Thật, Người nầy là Con Đức Chúa Trời.” 55 Tại đó có nhiều phụ nữ đứng nhìn từ xa. Họ là những người đã theo Đức Chúa Jêsus từ miền Ga-li-lê, để phục vụ Ngài. 56 Trong số nầy có Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri mẹ Gia-cơ và Giô-sép, cùng với mẹ của hai con trai Xê-bê-đê.

Sự an táng Đức Chúa Jêsus

57 Đến chiều tối, có một người giàu ở thành A-ri-ma-thê, tên là Giô-sép, cũng là môn đồ của Đức Chúa Jêsus, 58 đến với Phi-lát và xin nhận thi thể Đức Chúa Jêsus. Phi-lát ra lệnh giao cho ông. 59 Giô-sép nhận xác và khâm liệm bằng vải gai sạch, 60 rồi đặt trong ngôi mộ mới của mình mà ông đã cho đục trong đá. Ông lăn một tảng đá lớn chận cửa mộ, rồi đi. 61 Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri khác có mặt tại đó, ngồi đối diện với mộ.

62 Hôm sau, tức là sau ngày Chuẩn Bị, các thầy tế lễ cả và những người Pha-ri-si tụ họp lại trước mặt Phi-lát, 63 và nói: “Thưa quan, chúng tôi nhớ tên lừa bịp nầy lúc còn sống có nói: 'Sau ba ngày Ta sẽ sống lại.’ 64 Vì vậy, xin quan ra lệnh bảo vệ kỹ ngôi mộ cho đến ngày thứ ba, kẻo các môn đồ của nó đến lấy trộm xác đi, rồi nói với mọi người rằng 'Ngài đã từ cõi chết sống lại,’ và sự lừa bịp sau còn tệ hại hơn sự lừa bịp trước.” 65 Phi-lát nói với họ: “Các ngươi có lính canh, hãy đi canh mộ cẩn thận theo ý các ngươi.” 66 Vậy họ đi niêm phong mộ Ngài và cắt lính canh giữ nghiêm nhặt.