Những Bài Hát Tin cậy

Trong tiếng Hê-bơ-rơ, gọi là "Sách Ngợi khen"

150 Bài Thơ Phổ Nhạc để dùng khi thờ phượng

Quyển Thánh Ca và Quyển Cầu nguyện của dân Y-sơ-ra-ên

để dùng trong đời tư và trong cuộc thờ phượng công cộng

Quyển Sách Cựu Ước được quí mến hơn hết

Tác phẩm vinh hiển hơn hết trong Hoàng kim thời đại của dân Y-sơ-ra-ên

Trong số283 câu Tân Ước trưng dẫn Cựu Ước, thì 116 câu ở sách Thi Thiên

 

Tác giả của các Thi Thiên

Cứ theo các đầu đề, thì 73 Thi Thiên là của Đa-vít; 12 của A-sáp; 11 của con cháu Cô-rê; 2 của Sa-lô-môn (72, 127); 1 của Môi-se (90); 1 của Ê-than (89); và 50 không ghi tên tác giả. Người ta cho rằng một vài Thi Thiên vô danh có thể kể là của tác giả Thi Thiên ngay trước đó. Chắc Đa-vít là tác giả của một số Thi Thiên vô danh.

Đầu đề không hẳn chỉ rõ tác giả, vì trong tiếng Hê-bơ-rơ, những chữ "của," "cho," và "vì" là một. Một Thi Thiên "của" Đa-vít có thể do chính ông viết ra, hoặc do người khác viết "cho" Đa-vít, nghĩa là để tặng Đa-vít.

Tuy nhiên, những đầu đề đã có từ lâu đời, và ta rất tự nhiên giả định rằng nó chỉ tỏ tác giả. Theo truyền thoại lâu đời, phổ thông và liên tục, thì Đa-vít là tác giả chánh yếu của các Thi Thiên.Một vài nhà phê bình kim thời đã cố gắng tuyệt vọng để loại trừ Đa-vít ra khỏi sân khấu. Nhưng có đủ lý do để thừa nhận (chớ không có lý do vững vàng nào để nghi ngờ) phần lớn sách Thi Thiên là tác phẩm của Đa-vít. Tân Ước cũng thừa nhận như thế.

Vậy, chúng ta nói rằng các Thi Thiên là của Đa-vít, vì ông là tác giả hoặc soạn giả chánh yếu. Nói chung, người ta thừa nhận rằng một ít Thi Thiên đã có trước thời Đa-vít, làm thành nguyên điểm của cuốn Thánh ca thờ phượng. Cuốn Thánh ca nầy đã được Đa-vít bổ sung, rồi từ thế hệ nọ tới thế hệ kia cứ thêm vào, và rốt lại, do E-xơ-ra hoàn thành dưới hình thức hiện tại.

Đa-vít là một chiến sĩ can đảm chưa từng thấy, có tài thao lược, và cũng là một nhà chánh trị đưa quốc gia lên tuyệt điểm hùng cường. Ông lại là một thi sĩ kiêm nhạc sĩ, và hết lòng kính mến Đức Chúa Trời. Quả thật, việc ông sáng tác các Thi Thiên là một công trạng bội phần vĩ đại hơn việc ông sáng lập nước Y-sơ-ra-ên. Đây là một công trình cao quí hơn hết của mọi thời đại. Các Thi Thiên nầy diễn tả tâm tình thật của Đa-vít; và trong đó, con cái Đức Chúa Trời thường thấy bức tranh khá đẹp mô tả chính mình họ, cùng những tranh đấu, tội lỗi, sầu khổ, hoài vọng, vui mừng và đắc thắng của họ. Vì cớ các Thi Thiên, cho đến đời đời vô cùng. Đa-vít sẽ nhận được lòng cảm kích bất diệt của muôn triệu người mà Đức Chúa Trời đã cứu chuộc.

 

Đức Chúa Jêsus rất ưa thích các Thi Thiên

Các Thi Thiên thật đã trở thành một phần của trí óc Ngài, đến nỗi khi thốt lời hấp hối trên Thập tự giá, Ngài cũng trưng dẫn Thi Thiên (Thi 22:1  31:5  Mat 27:46  Lu 23:46). Ngài phán rằng nhiều điều viết trong các Thi Thiên chỉ về Ngài (Lu 24:44).

 

Ông W.E.Gladstone luận về các Thi Thiên

"Tất cả kỳ quan của nền văn minh Hy-lạp chất lại một chỗ, vẫn chưa lạ lùng bằng quyển Thi Thiên đơn sơ nầy."

 

Các Thi Thiên được viết ra để ca hát

Môi-se đã hát và dạy dân chúng ca hát (Xu 15:1-27  Phu 32:1-33:29). Dân Y-sơ-ra-ên ca hát suốt cả hành trình tới Đất Hứa (Dan 21:17). Đê-bô-ra và Ba-rác đã ca hát (Cac 5:1-31). Đa-vít là một nhạc sĩ đại tài, và ông hết lòng ca hát (IISa 6:5,14,16). Những ca công của Ê-xê-chia ca hát lời Đa- vít theo tiếng kèn thổi (IISu 29:28-30). Những ca công của Nê-hê-mi hát lớn tiếng lúc khánh thành vách lũy (Ne 12:42). Phao-lô và Si-la hát trong khám tù (Cong 16:25). Lúc mới dựng nên muôn vật "các sao mai đồng hát hòa nhau, và các con trai Đức Chúa Trời cất tiếng reo mừng" (Giop 38:7). Trên Thiên đàng, muôn vàn thiên sứ ca hát, và cả muôn vật được cứu chuộc hòa theo (Kh 5:11-13). Trên Thiên đàng, mọi người sẽ ca hát, và suốt cõi đời đời, ai nấy sẽ không ngớt tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời, chẳng hề mệt mỏi.

 

Nhạc cụ

Họ dùng nhạc cụ có dây, nhứt là đờn cầm và đờn sắt; nhạc cụ hơi gió, như quyển, sáo, còi, kèn; và nhạc cụ đánh bằng tay như trống, chập chỏa. Đa-vít có một ban nhạc 4000 người (ISu 23:5).

 

Phân loại các Thi Thiên

Các Thi Thiên sắp thành năm quyển:1-41; 42-72; 73-89; 90-106; 107-150. Sự phân chia nầy có trong cả bản Septante và bản Hê-bơ-rơ, từ thời thượng cổ, và người ta cho là làm vậy để bắt chước năm sách (Ngũ kinh) của Môi-se. Cuối mỗi quyển có một bài chúc tụng Đức Chúa Trời.Thi Thiên chót cũng là một bài chúc tụng Đức Chúa Trời.

 

Những bộ Thi Thiên nhỏ hơn nữa

Những Thi Thiên của các con trai Cô-rê (Thi 42:1-49:20 xem ở  Thi 42:1-11); những Thi Thiên của A-sáp (73:1-83:18 xem ở 73:1-28) những Thi Thiên Michtam (56:1-60:12 xem ở Thi Thiên 56; những bài ca từng bậc (Thi 120:1-134:3 xem ở Thi 120:1-7). Các bộ nhỏ nầy dường như đã được phân ra nhiều lúc khác nhau, rồi sau được nhập vào những quyển lớn hơn.

 

Những cách phân loại khác

Tùy theo cách cấu tạo và vấn đề: Về Đấng Mê-si (xem ở  Thi 2:1-12) về lịch sử (xem ở  Thi 78:1-72) về sự ăn năn (xem ở Thi 32:1-11) về sự rủa sả (xem ở Thi Thiên 35); theo thể chiết cú thi (acrostiche), hoặc theo thứ tự chữ cái (xem ở Thi Thiên 9); về thần chánh (xem ở  Thi 95:1-11)các Thi Thiên Hallel (xem ở  Thi 113:1-9); các Thi Thiên A-lê-lu-gia (xem ở Thi 146:1-10).

Một vài Thi Thiên rất dài. Một vài Thi Thiên lại rất ngắn. Tính theo quyển Kinh Thánh cỡ trung bình, thì mỗi Thi Thiên được chừng nửa trang. Thi 119:1-176 dài nhứt, và cũng là đoạn dài nhứt trong Kinh Thánh  Thi 117:1-2 ngắn nhứt, cũng là đoạn ngắn nhứt và ở chính giữa Kinh Thánh. 118:8 là câu ở chính giữa Kinh Thánh, và cũng là một câu quí báu.

 

Những ý tưởng chính của các Thi Thiên

"Tin Cậy" là ý tưởng đầu tiên và chánh yếu của cả sách nầy, và được lặp đi lặp lại mãi. Bất cứ hoàn cảnh thể nào, hoặc vui mừng, hoặc kinh khiếp, Đa-vít cũng đi thẳng tới Đức Chúa Trời. Dầu Đa-vít có những nhược điểm nào, ông cũng Sống Trong Đức Chúa Trời.

"Sự ngợi khen" ở trên môi miệng ông luôn. Đa-vít luôn luôn xin Đức Chúa Trời ban cho một ơn nào, và ông luôn luôn hết linh hồn cảm tạ Ngài đã đáp lại các lời cầu nguyện của mình.

"Vui mừng" cũng là một tiếng mà ông ưa thích lắm. Những hoạn nạn không dứt của Đa-vít vẫn chẳng bao giờ làm giảm được sự vui vẻ của ông trong Đức Chúa Trời. Ông luôn luôn kêu lên rằng:"Hãy hát," và "Khá hát mừng rỡ" (Thi 67:4), nhắc cho ta nhớ Phao-lô (Phi 4:4).

Chữ "nhơn từ" (thương xót)được nhắc hàng mấy trăm lần. Đa-vít thường nói đến sự công bình và cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời. Nhưng ông khoe mình về lòng nhơn từ của Ngài.

"Kẻ ác." Đa-vít rất bối rối vì cớ sự gian ác thắng thế. Đối với ông cũng như đối với các tác giả khác của Kinh Thánh, chỉ có hai hạng người: Người công bình và kẻ gian ác, mặc dầu lắm kẻ muốn vừa là công bình, vừa là gian ác.

"Kẻ thù nghịch." Ta ngạc nhiên vì Đa-vít luôn luôn nói đến kẻ thù nghịch. Chúng ta tự hỏi tại sao một vua nhơn đức và công bình như Đa-vít lại bị kẻ thù nghịch khuấy rối luôn? Trong một vài trường hợp, ông nói đến kẻ thù nghịch riêng của mình; trong những trường hợp khác, ông nói đến kẻ thù nghịch của dân Y-sơ-ra-ên, hoặc của Đức Chúa Trời.

Thi 1:1-8.

Hạnh phước của những kẻ lấy Lời của Đức Chúa Trời làm vui thích. Nếu Đa-vít quí mến những tác phẩm ngắn ngủi hợp thành Lời Đức Chúa Trời, thì ngày nay chúng ta lại càng phải yêu quí Kinh Thánh đã được hoàn thành và có trung tâm là Truyện tích kỳ diệu của Đấng Christ! Quí báu thay, lời hứa rằng những kẻ lấy Lời Đức Chúa Trời làm nguồn tư tưởng của đời mình sẽ giống như cây trồng gần dòng nước!  Thi 19:1-14  Thi 119:1-176 cũng luận về Lời Đức Chúa Trời.

Thi 2:1-12.

Một bài Thánh ca luận về Đấng Mê-si hầu đến, về Thần tánh Ngài, và về lúc Ngài trị vì cả thế giới. Đây là Thi Thiên đầu tiên luận về Đấng Mê-si.

 

Các Thi Thiên luận về Đấng Mê-si

Nhiều Thi Thiên chứa lời chỉ về Đấng Christ; dầu được viết ra hàng ngàn năm trước khi Ngài giáng sanh, nhưng ta hoàn toàn không thể ứng dụng nó cho một nhơn vật nào khác trong lịch sử ngoài ra Đấng Christ. Trong các Thi Thiên có một vài lời tuyên bố dường như chỉ về Đa-vít theo một nghĩa không quan trọng và không hoàn toàn; nhưng rõ ràng lắm,Đức Chúa Trời định dùng nó để chỉ tỏ Một Nhơn Vật thuộc về gia tộc Đa-vít,trong Ngài lời hứa ban ngôi vua đời đời cho Đa-vít sẽ được ứng nghiệm tối hậu (xem ở II Sa-mu-ên 7). Ngoài những câu chỉ rõ về Đấng Mê-si, trong các Thi Thiên còn có nhiều từ ngữ dầu kém trực tiếp, song dường như làm hình bóng lờ mờ về Đấng Mê-si.

 

Những Thi Thiên chỉ rõ về Đấng Mê-si là:

Thi 2:1-12-- Thần tánh và đời trị vì thế giới của Đấng được Đức Chúa Trời xức dầu.

Thi 8:1-9.-- Bởi Đấng Mê-si, loài người được trở thành chúa tể muôn vật.

Thi 16:1-5.-- Ngài sống lại từ trong kẻ chết.

Thi 22:1-31.-- Sự thương khó của Ngài.

Thi 45:1-17.-- Tân phụ và Ngôi đời đời của Ngài.

Thi 69:1-36.-- Lại luận về sự thương khó của Ngài.

Thi 72:1-30.-- Sự trị vì vinh hiển và đời đời của Ngài.

Thi 89:1-52.-- Đức Chúa Trời thề rằng Ngôi Ngài sẽ tồn tại đời đời vô cùng.

Thi 110:1-7.-- Ngài là Vua và Thầy Tế lễ đời đời.

Thi 118:1-29.-- Ngài bị các tay thủ lãnh của dân tộc Ngài chối bỏ.

Thi 132:1-18.-- Ngài kế tự ngôi Đa-vít đời đời.

 

Những câu luận về Đấng Mê-si

Dưới đây là những câu Thi Thiên mà Tân Ước tuyên bố rõ ràng là chỉ về Đấng Christ (xem thêm ở dưới  Mat 2:22): --

"Ngươi là Con Ta; ngày nay Ta đã sanh ngươi" (Thi 2:7  Cong 13:33).

"Chúa khiến muôn vật phục dưới chơn người" (Thi 8:6  He 2:6-10).

"Chúa sẽ chẳng bỏ linh hồn tôi trong Âm phủ, cũng không để cho người thánh Chúa thấy sự hư nát" (Thi 16:10  Cong 2:27).

"Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?" (Thi 22:1  Mat 27:46).

"Người phú thác mình cho Đức Giê-hô-va, Ngài khá giải cứu người" (Thi 22:8  Mat 27:43).

"Chúng nó đâm lủng tay và chơn tôi" (Thi 22:16  Gi 20:25).

"Chúng nó chia nhau áo xống tôi,bắt thăm về áo dài tôi" (Thi 22:18  Gi 19:24).

"Nầy, tôi đến; trong quyển sách đã có chép về tôi: Hỡi Đức Chúa Trời tôi, tôi lấy làm vui mừng làm theo ý muốn Chúa" (Thi 40:7,8  He 10:7).

"Người bạn thân tôi... đã ăn bánh tôi, cũng giơ gót lên nghịch cùng tôi" (Thi 41:9  Gi 13:18).

"Hỡi Đức Chúa Trời, Ngôi Chúa còn mãi đời nọ qua đời kia" (Thi 45:6  He 1:8).

"Sự sốt sắng về Đền Chúa tiêu nuốt tôi" (Thi 69:9  Gi 2:17).

"Chúng nó ban mật đắng làm vật thực tôi, và cho tôi uống giấm trong khi khát" (Thi 69:21  Mat 27:34,48).

"Nguyện kẻ khác chiếm lấy chức phận nó đi!" (Thi 109:8  Cong 1:20).

"Đức Giê-hô-va phán cùng Chúa tôi rằng: Hãy ngồi bên hữu Ta, cho đến chừng Ta đặt kẻ thù nghịch ngươi làm bệ chơn cho ngươi" (Thi 110:1  Mat 22:44).

"Đức Giê-hô-va đã thề... rằng:Ngươi là Thầy tế lễ đời đời , tùy theo ban Mên-chi-xê-đéc" (Thi 110:4  He 7:17).

"Hòn đá mà thợ xây loại ra, đã trở nên đá đầu góc nhà" (Thi 118:22  Mat 21:42).

"Đáng ngợi khen Đấng nhơn Danh Đức Giê-hô-va mà đến!" (Thi 118:26  Mat 21:9). Xem thêm ở dưới  IISa 7:1-20 và  Mat 2:22.

Thi 3.

Đa-vít tin cậy Đức Chúa Trời trong lúc Áp-sa-lôm phản nghịch (IISa 15:1-37). Ông có thể ngủ yên vì "bàn tay Đức Chúa Trời là cái gối của ông."

"Sê-la" (câu 2). Chữ nầy dùng 71 lần trong các Thi Thiên. Người ta cho là dấu bảo ngừng trong khi hòa nhạc.

Thi 4:1-8.

Lại một Thánh ca tỏ lòng tin cậy, vì Đa-vít dường như dựa vào ngực Đức Chúa Trời mà ngủ bình an.

Ở đầu đề của các Thi 4:1-8 Thi 6:1-10 Thi 61:1-8, nguyên văn có chữ "Neginoth," nghĩa là: "đờn dây."

Thi 5:1-12.

Một lời cầu nguyện buổi sáng.Đa-vít bị những kẻ thù nghịch xảo quyệt vây quanh, bèn cầu nguyện, rồi reo mừng vì tin rằng Đức Chúa Trời sẽ binh vực mình. Trong nguyên văn, ở đầu đề có chữ "Nehiloth," nghĩa là: "Kèm theo nhạc cụ hơi gió."

Thi 6:1-10.

Tiếng kêu la của một tấm lòng tan vỡ, trong lúc bịnh hoạn, nhục nhã và hổ thẹn, có thể là vì cớ Đa-vít đã phạm tội cùng Bát-sê-ba. Đây là Thi Thiên Ăn năn thứ nhứt (xem thêm Thi 32:1-11).Trong nguyên văn, ở đầu đề Thi Thiên nầy và Thi 12:1-8 có chữ "Sheminith,"nghĩa là "thứ tám" hoặc bát độ âm giai (octave), có lẽ chỉ về giọng trầm, hoặc giọng đờn ông.

Thi 7:1-17.

Lại một lời cầu xin Đức Chúa Trời che chở mình khỏi những kẻ thù nghịch gian ác, giống như Thi Thiên 5.Đa-vít binh vực sự công bình của mình (xem thêm Thi 32:1-11).

"Cút" ở đầu đề có lẽ là một võ tướng của Sau-lơ đang đuổi theo Đa-vít (xem thêm Thi 54:1-7).

Theo nguyên văn, ở đầu đề có chữ "Shiggaion,"có lẽ là tên của một âm điệu linh hoạt.

Thi 8:1-9.

Loài người được làm chúa tể muôn vật Đức Chúa Trời dựng nên (câu 6). Việc nầy sẽ thực hiện khi Đấng Christ toàn thắng và trị vì (He 2:6-10). Xem thêm  Thi 2:1-12.

Chữ "Ghi-tít" ở đầu đề Thi Thiên nầy và những Thi 81:116 Thi 84:1-12, có thể là tên một nhạc cụ hoặc nhạc điệu của xứ Gát.

Thi 9:1-20.

Một Thi Thiên cảm tạ vì thắng trận. Đức Chúa Trời ngự làm Vua cho đến đời đời. Các dân tộc hãy biết rằng mình chỉ là người. Thi Thiên nầy và  Thi 10:1-18 là những chiết cú thi.

Những Thi Thiên theo thể chiết cú hoặc theo thứ tự chữ cái là những Thi Thiên trong đó chữ đầu của các câu kế tiếp nhau theo thứ tự chữ cái Hê-bơ-rơ, người ta cho rằng đó là một phương pháp giúp cho dễ nhớ. Những Thi Thiên chương 25, 34, 37, 111, 112, 119, 145 cũng thuộc về loại nầy.

"Mút-la-bên" ở đầu đề có lẽ là tên một nhạc điệu.

"Hi-gai-ôn" (câu 16) có lẽ là một âm hiệu.

Thi 10:1-18.

Đa-vít cầu xin Đức Chúa Trời tiếp trợ mình để chống trả sự gian ác, hà hiếp và trộm cắp, dường như ở trong chính nước ông.

Thi 11:1-7.

Số phận của kẻ ác. Đức Chúa Trời chẳng bỏ mặc chúng đâu. Ngài sẽ mưa lửa, diêm sanh trên kẻ ác, và thổi gió nóng vào chúng.

Thi 12:1-13:6.

Kẻ ác đi bốn phía. Dầu Đa-vít đau đớn thấm thía, nhưng ông tin cậy ở kết cuộc và hoan hỉ trong Đức Chúa Trời.

Thi 14:1-7.

Cả loài người có tội; gần giống như Thi 53:1-6 được trưng dẫn ở  Ro 3:10-12 để chứng tỏ loài người có cần Cứu Chúa.

Thi Thi 15:1-5.

Công dân chơn chánh của Si-ôn. Thomas Jefferson gọi Thi Thiên nầy là chơn dung của bậc quân tử.

Thi 16:1-11.

Thi Thiên về sự sống lại.Đa-vít dường như nói về chính mình ông; dầu sao, môi miệng Đa-vít cũng thốt ra những lời thần bí của Vua hầu đến thuộc dòng Đa-vít (câu 10). Tân Ước đã trưng dẫn câu nầy như là dự ngôn về Đức Chúa Jêsus phục sanh (Cong 2:27). Xem thêm Thi 2:1-12.

Thi 17:1-15.

Đa-vít bị kẻ thù nghịch gian ác vây kín, bèn cầu nguyện và binh vực sự công bình của mình (xem thêm Thi 32:1-11).

Thi 18:1-50.

Người ta cho đây là bản Thánh ca của Đa-vít cảm tạ Đức Chúa Trời trong ngày ông lên ngôi vua. Địa vị "làm đầu các nước" (câu 43-45) chỉ đúng với Đa-vít một phần thôi. Nó vượt quá thời Đa-vít, và chỉ về ngôi Vua của Con Đa-vít vốn oai hùng hơn ông bội phần (xem thêm Thi 2:1-12).

Thi 19:1-14.

Vinh quang của cuộc sáng tạo và sự trọn lành của luật pháp Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời của cõi thiên nhiên được tỏ ra cho loài người bởi Lời Kinh Thánh. Những ý tưởng về Lời Đức Chúa Trời (câu 7-14) lại được giải luận sâu rộng hơn ở  119:1-176. Thi Thiên nầy có lẽ là hai bài thơ hiệp lại, cũng như các  Thi 24:1-9, Thi 27:1-14;  Thi 36:1-12

Thi 20:1-9.

Một Thi Thiên tỏ lòng tin cậy; người ta cho rằng Đa-vít hát Thi Thiên nầy lúc ra chiến trận. Có người tưởng rằng Thi Thiên nầy ám chỉ Vua Mê-si, như ta thấy ở các Thi Thiên chương 2, 18, 21, 45, 61, 72, 89, 110, 132.

Thi 21:1-13.

Sau cuộc chiến trận, cảm tạ Đức Chúa Trời vì được thắng; vả, ở Thi Thiên 20, trước khi ra trận, họ đã cầu xin Đức Chúa Trời cho được toàn thắng. Sự chỉ về Đấng Mê-si còn rõ hơn là ở Thi Thiên 20. Đặc tánh vĩnh viễn của đời Vua trị vì chắc chỉ về Đấng Christ, chớ không phải về Đa-vít.

Thi 22:1-31.

Thi Thiên về sự đóng đinh vào Thập tự giá, được trứ tác 1000 năm trước khi xảy ra. Lời mô tả linh động đến nỗi ta tưởng chính tác giả có mặt trước Thập tự giá: Nào lời của Đức Chúa Jêsus khi hấp hối, nào lời chế giễu của kẻ thù nghịch, nào tay và chơn Ngài bị đâm lủng, nào áo xống Ngài bị phân chia. Một vài lời nói ở đây không thể ứng dụng cho Đa-vít, hoặc cho một biến cố nào trong lịch sử mà ta được biết, duy chỉ có thể ứng dụng cho sự đóng đinh Đức Chúa Jêsus vào Thập tự giá (xem thêm Thi Thiên 2).

Ở đầu đề, chữ "Aijeleth-Shahar"trong nguyên văn có nghĩa là "con nai cái lúc rạng đông". Có lẽ là một dấu chỉ về thì giờ, hoặc tên của một nhạc điệu.

Thi 23:1-6.

Thi Thiên về Đấng Chăn Chiên.Đoạn Cựu Ước được quí mến hơn hết. Ông Beecher luận đại ý như thế nầy:"Như một con chim, Thi Thiên nầy bay lên, bay xuống trên mặt đất, hát bài du dương hơn hết mà ta từng được nghe. Nó ru cho người buồn phiền được yên nghỉ, còn hơn tất cả triết lý của trần gian. Nó cứ hát cho con cái của anh em và của tôi, rồi cho con cái chúng, mãi tới khi chấm dứt thời gian. Khi đã xong việc, nó sẽ bay trở về lòng Đức Chúa Trời, cụp cánh lại, và cứ hát đời đời trong điệp khúc vui tươi của những kẻ mà nó dự phần đưa tới đó."

Thi 24:1-9.

Vua ngự đến Si-ôn. Có lẽ Thi Thiên nầy được trước tác cho cuộc lễ rước hòm giao ước vào thành Giê-ru-sa-lem (IISa 6:12-15). Có lẽ chúng ta sẽ hát Thi Thiên nầy để nghinh đón Vua trong ngày vui mừng Ngài trở lại. Thi Thiên nầy giống như  Thi 15:1-5 một phần.

Thi 25:1-22.

Lời cầu nguyện của một linh hồn bị tội lỗi hà hiếp (câu 7, 11, 18). Đây, Đa-vít không tự nhận là công bình (xem thêm Thi 32:1-11).

Thi 26:1-12.

Đây, Đa-vít binh vực sự công bình của mình bằng những lời khá quả quyết; khác hẳn Thi Thiên trước (xem thêm Thi 32:1-11).

Thi 27:1-14.

Tận tụy với Nhà Đức Chúa Trời. Nếu Đa-vít thiết tha yêu mến chỗ thời đó gọi là Nhà Đức Chúa Trời, là nơi họ dâng súc vật làm tế lễ, thì chúng ta lại càng phải tận tụy với chỗ ngày nay gọi là Nhà Đức Chúa Trời, tại đó truyện tích kỳ diệu của Cứu Chúa được kể cho ta nghe mãi!

Thi 28:1-9.

Lời cầu nguyện và cảm tạ vì Chúa đã đáp lại. Đa-vít tin cậy Đức Chúa Trời và được cứu giúp. Vậy, ông ca hát và hoan hỉ.

Thi 29:1-11.

Tiếng phán của Đức Chúa Trời trong trận bão sấm. Ngài ngự làm Vua lúc có nạn lụt; Ngài ngự làm Vua đời đời.

Thi 30:1-12.

Bài ca ngợi khen của Đa-vít lúc khánh thành cung điện của ông (IISa 5:11  7:2). Đa-vít luôn luôn ngợi khen Đức Chúa Trời.

Thi 31:1-24.

Thi Thiên luận về sự thương khó và sự đắc thắng. Đức Chúa Jêsus ưa thích Thi Thiên nầy. Ngài trưng dẫn Thi Thiên nầy khi thốt lời cuối cùng trên Thập tự giá (câu 5  Lu 23:46).

Thi 32:1-11.

Một Thi Thiên luận về sự ăn năn, xưng tội và được tha thứ, chắc viết trong cơ hội Đa-vít phạm tội cùng Bát-sê-ba (IISa 11:1-12:31). Ông không tìm được đủ lời để diễn tả sự xấu hổ,nhục nhã của mình. Tuy nhiên, chính Đa-vít nầy cũng nhiều lần tự nhận mình là công bình (Thi 7:3,8  Thi 17:1-5 Thi 18:20-24  Thi 26:1-4). Làm sao dung hòa được những đặc điểm mâu thuẫn nầy trong cuộc đời Đa-vít? 1) Có lẽ các Thi Thiên "công bình" nầy được viết trước khi Đa-vít phạm lỗi lầm kinh khủng đó. 2) Người ta có thể cảm thấy mình mắc tội lỗi trong lúc nầy nhiều hơn trong lúc khác. 3)Sự công bình của Đa-vít chỉ tương đối, chớ không tuyệt đối. So sánh với hành vi tổng quát của những kẻ ác, thì Đa-vít là một vị thánh, đạo cao đức trọng; nhưng so sánh với Đức Chúa Trời, thì sự công bình của ông chỉ như giẻ rách dơ bẩn. 4)Một thiện nhân có thể phạm tội, mà vẫn là thiện nhân (xem thêm  IISa 11:1-27).Có sự khác nhau (như trời với đất) giữa người thiện, mặc dầu có khi họ chiều theo sự cám dỗ của xác thịt, và kẻ ác vẫn cố ý và cố quyết khinh dể tất cả qui tắc của sự đoan chánh (xem  IGi 3:1-24).

Người ta nói rằng Thánh Augustinđã viết Thi Thiên nầy trên tường, ngay trước giường ngủ của mình, để ông đọc không thôi, và mỗi lần đọc, thì ông khóc dầm dề.

Những Thi Thiên chương 6, 25, 38, 51,102, 130 và 143 cũng luận về sự ăn năn.

Trong nguyên văn, ở đầu đề Thi Thiên nầy và những Thi Thiên chương 42, 44, 45, 52, 53, 54, 55, 74, 78, 88, 89, 142,có chữ "Maschil;" người ta cho chữ nầy có nghĩa là một thi ca dùng để dạy dỗ, hoặc để suy gẫm.

Thi 33:1-22.

Thi Thiên vui mừng và ngợi khen. Trong sách Thi Thiên thường nói đến "một bài ca mới" (câu 3  40:3  96:1  98:1  144:9). Có một vài bài hát cũ mà không bao giờ cũ; vì đối với con cái Đức Chúa Trời, đang khi họ trải qua đường đời, thì luôn luôn có sự giải cứu và vui mừng mới mẻ, làm cho những bài hát cũ có ý nghĩa mới mẻ, và đến cuối cùng, sẽ lên tới tuyệt điểm mà trào ra sự vui mừng mới mẻ lúc vinh quang của Thiên đàng bắt đầu tỏ rõ (Kh 5:9  Kh 14:3).

Thi 34:1-22

Đa-vít cảm tạ và ngợi khen Đức Chúa Trời vì Ngài đáp lại lời cầu nguyện của ông ở Thi 54:1-7 mà giải cứu ông khỏi tay người Phi-li-tin. Mỗi khi được giải cứu, ông liền đến trước mặt Đức Chúa Trời mà cảm tạ và ngợi khen Ngài. Sống Trong Đức Chúa Trời như vậy, thật là vinh hiển biết bao, và cũng đẹp lòng Ngài biết bao! Có người nói rằng: "Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời vì có ánh sáng của ngôi sao, thì Ngài sẽ ban cho anh em ánh sáng của mặt trăng. Hãy cảm tạ Ngài vì có ánh sáng của mặt trăng, thì Ngài sẽ ban cho anh em ánh sáng của mặt trời. hãy cảm tạ Ngài vì có ánh sáng của mặt trời, thì một ngày kia, Ngài sẽ đưa anh em đến nơi chính Ngài là Sự Sáng."

Thi 35:1-28.

Một Thi Thiên rủa sả. Những Thi Thiên chương 52, 58, 59, 67, 109 và 137 cũng thuộc về loại nầy. Nó phừng ra sự báo trả kẻ thù nghịch. Đó chẳng phải lời Đức Chúa Trời tuyên bố giáng cơn thạnh nộ trên kẻ ác, nhưng là lời một người cầu xin Ngài báo trả kẻ thù nghịch của mình. Thật khác hẳn lời Đức Chúa Jêsus dạy rằng chúng ta phải yêu thương kẻ thù nghịch. Dưới đời Cựu Ước, mục đích của Đức Chúa Trời là bảo tồn một Dân Tộc trên thế giới để mở đường cho Đấng Christ ngự đến. Ngài dường như hành động theo bổn tánh loài người, và không buộc phải phê chuẩn mọi điều mà cả những tôi tớ tận tụy hơn hết của Ngài đã nói hoặc làm. Một vài Thi Thiên nầy là bài ca xuất trận, bày tỏ tinh thần yêu nước nồng nhiệt, cốt để giữ cho quốc gia được sống còn trong cuộc chiến đấu sanh tử với những quân thù hùng mạnh. Khi Đấng Christ ngự đến, thì sự khải thị của Đức Chúa Trời về ý nghĩa đời người và những mẫu mực hành vi của đời người đã được hoàn bị. Đức Chúa Trời bèn đổi hướng công việc Ngài,

không trực tiếp chú trọng vào sự duy trì một dân tộc nữa, nhưng trực tiếp chú trọng vào sự biến cải các Cá Nhân thành những người hợp với ý muốn của Ngài. Vậy, Ngày Nay Ngài không tha thứ nhiều điều mà Thời Đó Ngài đã bỏ qua. Trong thời Cựu Ước, vì cớ tùy nghi, Đức Chúa Trời đã hòa theo ý tưởng của loài người một phần nào. Trong thời Tân Ước,Đức Chúa Trời bắt đầu đối xử với loài người tùy theo ý tưởng của Ngài (xem thêm ở  Lu 6:27).

Thi 36:1-12.

Một bài suy gẫm về sự gian ác của loài người và sự công bình, thành tín, thương xót, từ ái của Đức Chúa Trời.

Thi 37:1-40.

Ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian. Đây là một trong những Thi Thiên được quí mến hơn hết.Đa-vít luôn luôn bối rối vì cớ ưu thế của tội ác, nhưng ở đây, ông bày tỏ triết lý của mình để sống giữa những kẻ ghét Đức Chúa Trời cùng các sự vật mà ông ưa thích: Ấy là hãy làm lành, tin cậy Đức Chúa Trời và chớ lo phiền. Thi Thiên nầy nhắc chúng ta nhớ sách  Gi 15:19 và thơ  Phi 2:15.

Thi 38:1-22.

Một Thi Thiên bày tỏ sự khổ não đắng cay. Một trong những Thi Thiên về sự ăn năn (xem thêm ở  32:1-11). Dường như Đa-vít đang chịu đau đớn vì bịnh tật gớm ghiếc do tội lỗi ông gây nên. Vì cớ bịnh tật ấy, bạn hữu thân thiết nhứt và bà con gần nhứt của ông đã thành ra xa lạ, còn kẻ thù ông đã gia tăng và hóa nên rất táo bạo. Thi Thiên nầy tỏ ra "người theo lòng Ngài" (ISa 13:14) thường khi cũng sa xuống vực sâu sầu thảm vì cớ tội mình.

Thi 39:1-13.

Một bản ai ca về đời người ngắn ngủi, yếu hèn và hư không. "Giê-đu-thun" ở đầu đề Thi Thiên nầy và các Thi 62:1-12  Thi 77:1-20, là một trong ba nhạc trưởng của Đa-vít, hai người kia là A-sáp và Hê-man (ISu 16:37-42). Theo  IISu 35:15, thì ông là "đấng tiên kiến của vua."

Thi 40:1-17.

Ngợi khen Đức Chúa Trời vì một sự giải cứu lớn lao. Luật pháp của Đức Chúa Trời ở trong lòng ông (câu 8), nhưng ông hoàn toàn bị tội ác của mình chà nát (câu 12). Phần cuối Thi Thiên nầy giống như  Thi 70:1-5.

Thi 41:1-13.

Đa-vít cầu xin Đức Chúa Trời giải cứu mình. Người ta cho Thi Thiên nầy thuộc về thời kỳ Áp-sa-lôm chiếm ngôi vua (IISa 15:1-37) khi ấy, vì Đa-vít lâm bịnh (câu 3-8), nên cuộc mưu phản có cơ hội chín mùi. "Người bạn thân" (câu 9) chắc là A-hi-tô-phe, tên Giu-đa của thời Cựu Ước (IISa 15:12  Gi 13:18).

Thi 42:1-43:5.

Người tha hương thèm khát Nhà Đức Chúa Trời. Tác giả dường như ở miền núi Hẹt-môn, thuộc phía Đông sông Giô-đanh, giữa các người không tin kính Đức Chúa Trời và thù nghịch với mình. Hai Thi Thiên nầy hợp thành một thi ca.

"Con cháu Cô-rê" ở đầu đề các Thi Thiên chương 42-49, 84, 85, 87, 88, là một chi tộc người Lê-vi có khiếu thi ca, do Đa-vít (đang khi dự bị cuộc thờ phượng ở Đền thờ) tổ chức thành một ban nhạc xuất sắc tồn tại trải qua nhiều thế hệ (ISu 6:31-48  ISu 9:19,22,23).

Thi 44:1-26.

Một tiếng kêu la tuyệt vọng trong lúc quốc gia bị tai họa,

dường như đạo quân của họ đã bị thảm bại.

Thi 45:1-17.

Bài ca hôn lễ của một Vua mang danh hiệu Đức Chúa Trời và ngự trên Ngôi đời đời. Thi Thiên nầy có lẽ trực tiếp liên quan đến Đa-vít, hoặc Sa-lô-môn. Nhưng có một vài lời hoàn toàn không thể ứng dụng cho Đa-vít, hoặc Sa-lô-môn, hoặc một ông vua nào khác. Đây chắc phải là bài ca của Đấng Mê-si, báo trước hôn lễ của Chiên Con (Kh 19:7).

Chữ "Sa-san-nim" ở đầu đề Thi Thiên nầy và những Thi Thiên 69, 80, có nghĩa là "bông huệ."Đây có lẽ là một bài ca mùa xuân, hoặc một ám dụ (métaphore) chỉ về điệp khúc của phụ nữ.

Thi 46:1-11.

Bài ca xuất trận của Si-ôn. Đây là nền tảng của bài Thánh ca nổi danh do Martin Luther trứ tác: "Đức Chúa Trời là Thành kiên cố ta." Thánh ca nầy là bài ca xuất trận của các nhà Cải chánh.

Chữ "A-la-mốt" ở đầu đề có nghĩa là "Trinh nữ," hoặc điệp khúc của các thiếu nữ.

Thi 47:1-48:14.

Đức Chúa Trời là Vua. Đức Chúa Trời trị vì. Si-ôn là thành của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời nầy là Đức Chúa Trời của chúng ta đời đời. Vậy, cả trái đất hãy mừng rỡ!

Thi 49:1-20.

Của cải trần gian là hư không. Giống như một vài lời dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus (Mat 6:19-34  Lu 12:16-21  Lu 16:19-31).

Thi 50:1-23.

Đức Chúa Trời là Chủ của trái đất và mọi vật trong đó. Khi ta dâng tài vật cho Đức Chúa Trời, thì chỉ trả lại những cái vốn thuộc về Ngài.

Thi 51:1-19.

Đa-vít cầu xin Đức Chúa Trời thương xót mình. Kết quả do tội lỗi ông đã phạm với bà Bát-sê-ba (IISa 11:1-12:31). Xem thêm ở  Thi 32:1-11.

Thi 52:1-9.

Bài ca của Đa-vít tỏ lòng tin cậy rằng ông sẽ được giải cứu khỏi tay Đô-e (ISa 21:1-22:23).

Thi 53:1-6

Cả loài người có tội.Giống như  14:1-7. Được trưng dẫn ở  Ro 3:10-12. Người ta cho rằng chữ "Ma-ha-lát" ở đầu đề có nghĩa là tật bịnh, hoặc một điệu nhạc u buồn.

Thi 54:1-7.

Lời cầu nguyện của Đa-vít tại Xíp, đang khi ông ẩn trốn khỏi Sau-lơ (ISa 23:19-28  26:1-25). Các Thi Thiên khác mà Đa-vít viết đang khi trốn khỏi Sau-lơ là: Thi Thiên chương 7 (?),34, 52, 54, 56, 57, 59, 63(?), 142.

Thi 55:1-23.

Đa-vít bị bạn hữu phản bội, nhưng tin cậy Đức Chúa Trời. Cũng như  41:1-13, Thi Thiên nầy dường như thuộc về thời kỳ Áp-sa-lôm dấy loạn; nhứt là nó ám chỉ A-hi-tô-phe (câu 12-14  IISa 15:12,13).

Thi 56:1-13.

Đa-vít cầu xin Đức Chúa Trời giải cứu mình khỏi tay người Phi-li-tin. Ông triệt để sử dụng các phương tiện của mình, thậm chí đã giả điên, theo như có chép ở  ISa 21:10-13. Nhưng ông đã cầu nguyện và tin cậy Đức Chúa Trời cho được kết quả tốt đẹp.  Thi 34:1-22 là bài ca cảm tạ của ông vì đã thoát nạn.

Trong nguyên văn, ở đầu đề các  Thi 16:1-11  Thi 56:1-60:12, có chữ "Michtam." Người ta cho rằng chữ nầy nghĩa là "châu ngọc" hoặc "bằng vàng," tức là những thi ca quí như vàng, có tư tưởng đáng ghi trên những bi văn vĩnh cửu.

"Giô-nát-ê-lem-Rô-hô-kim" có lẽ là tên một điệu nhạc.

Thi 57:1-11.

Lời cầu nguyện của Đa-vít đang khi ẩn trốn khỏi Sau-lơ (ISa 22:1  Thi 24:1  Thi 26:1). Trong nguyên văn, ở đầu đề các Thi Thiên chương 57, 58, 59, 75 có chữ "Al-tash-hesh,"nghĩa là: "Chớ phá hủy," và dường như ám chỉ vào  Thi 26:9.

Thi 58:1-11.

Một lời cầu nguyện nghịch cùng kẻ gian ác. Ngày báo trả chúng chắc sẽ tới. Xem thêm ở  Thi 35:1-28.

Thi 59:1-17.

Một lời cầu nguyện nữa, khi Sau-lơ sai lính tới vây bắt Đa-vít tại nhà (ISa 19:10-17). Nhưng Đa-vít tin cậy Đức Chúa Trời.

Thi 60:1-12.

Cầu nguyện lúc quốc gia lâm nạn, cũng như các Thi Thiên chương 44, 74, 79, 108. Chữ "Shushan-eduth"ở  Thi 60:1-12  Thi 80:1-13 nghĩa là: "Bông huệ chứng cớ." Xem thêm ở Thi 45:1-17.

Thi 61:1-8.

Một Thi Thiên tỏ lòng tin cậy đang khi xa nhà, có lẽ đương thời Áp-sa-lôm dấy nghịch.

Thi 62:1-12.

Một thi ca mô tả lòng sốt sắng tận tụy với Đức Chúa Trời và tin cậy Ngài, không chút lay chuyển. Hãy dốc lòng trước mặt Đức Chúa Trời và tin cậy Ngài luôn luôn.

Thi 63:1-11.

Một Thi Thiên của đồng vắng;người ta cho rằng có lẽ Thi Thiên nầy thuộc trong thời kỳ Đa-vít trốn khỏi Áp-sa-lôm, nhưng ông tin chắc sẽ khôi phục được ngôi vua.

Thi 64:1-10.

Đa-vít cầu xin Đức Chúa Trời che chở mình khỏi âm mưu của những kẻ thù bí mật, và ông tin chắc rằng nhờ Đức Chúa Trời, mình sẽ thắng trận.

Thi 65:1-13.

Một bài ca về biển cả và mùa gặt. Đức Chúa Trời ban ơn lành suốt cả năm. Trái đất reo mừng.

Thi 66:1-20.

Một Thi Thiên toàn quốc cảm tạ Đức Chúa Trời. Hãy ngợi khen và kính sợ Đức Chúa Trời. Hãy ca hát và vui vẻ.Con mắt Đức Chúa Trời xem xét các dân tộc.

Thi 67:1-7.

Một Thi Thiên truyền giáo,nói trước về Tin Lành truyền khắp trái đất. Các nước hãy hát mừng.

Thi 68:1-35.

Một hành khúc xuất trận. Thi Thiên nầy rất được các Thập tự quân, phái Huguenots(1), ông Savonarolevà ông Oliver Cromwell ưa thích.

Thi 69:1-36.

Một Thi Thiên luận về sự thương khó, giống như  Thi 22:1-31. Qua bức màn thương khó của Đa-vít, ta thoáng thấy sự thương khó của Đấng Christ, nên Thi Thiên nầy đã được trưng dẫn ở Tân Ước (câu 4, 9, 21, 22, 25  Gi 2:17 Gi 15:25  Gi 19:28-30  Cong 1:20  Ro 11:9  Ro 15:3).

Thi 70:1-5

Một tiếng kêu cứu khẩn cấp. Thi Thiên nầy gần giống như phần cuối Thi Thiên 40. Đức Chúa Trời không hề thất tín với ông.

Thi 71:1-24.

Một Thi Thiên về tuổi già. Hồi tưởng một cuộc đời tin cậy, bị hoạn nạn và quân thù bao vây suốt cả đường.

Thi 72:1-20

Vinh quang và sự vĩ đại của Đấng Mê-si trị vì. Thi Thiên nầy và Thi 127:1-5 là của Sa-lô-môn. Nước của Sa-lô-môn đã lên tới tuyệt điểm vinh quang. Chúng ta có thể nghĩ rằng Thi Thiên nầy mô tả đời trị vì thái bình và vinh hiển của Sa-lô-môn một phần nào. Nhưng một vài lời trong Thi Thiên nầy và nội dung của nó chỉ có thể ứng dụng cho nước của MỘT VUA hùng mạnh hơn Sa-lô-môn. Xem thêm ở  Thi 2:1-12.

Thi 73:1-28.

Về sự thạnh vượng của kẻ ác thì thế nào?  Thi 50:1-23  Thi 73:1-83:18 đều có ghi: "A-sáp làm." A-sáp là nhạc trưởng của Đa-vít (ISu 15:16-20  ISu 16:5). Ban hợp ca của Ê-xê-chia đã hát những Thi Thiên của A-sáp (IISu 29:30).

Thi 74:1-23.

Một lời cầu nguyện khi quốc gia lâm nạn, có lẽ là ám chỉ vào cuộc xâm lăng của Si-sắc (IVua 14:25,26  IISu 12:2,9).

Thi 75:1-10.

Kẻ ác chắc chắn bị hủy diệt. Người công bình chắc chắn sẽ đắc thắng. Mọi sự nầy sẽ xảy ra trong ngày trái đất tiêu tan.

Thi 76:1-12.

Cảm tạ Đức Chúa Trời vì đã đại thắng. Dường như ám chỉ vào sự tiêu diệt đạo quân của San-chê-ríp (IIVua 19:25).

Thi 77:1-20.

Lại một tiếng kêu cứu trong thời hoạn nạn. Tác giả nhắc Đức Chúa Trời nhớ những việc lạ lùng mà Ngài đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên trong thời quá khứ.

Thi 78:1-72.

Thi Thiên nầy và những Thi Thiên chương 81, 105, 106, 114 được gọi là Thi Thiên "lịch sử." Đây là những bài thơ thuật lại lịch sử quá khứ của dân Y-sơ-ra-ên để ai nấy nhớ lại những cách Đức Chúa Trời đối xử diệu kỳ với dân ấy.

Thi 79:1-13.

Một lời than vãn vì cớ thành Giê-ru-sa-lem bị hoang vu; người ta cho rằng Thi Thiên nầy ám chỉ về sự xâm lăng của Si-sắc hoặc của người Ba-by-lôn.

Thi 80:1-19.

Lại một Thi Thiên khác đương lúc quốc gia lâm nạn; có lẽ ám chỉ về sự suy sụp của nước phía Bắc.

Thi 81:1-16.

Sự không vâng lời của dân Y-sơ-ra-ên là nguyên nhơn họ bị hoạn nạn. Nếu họ chịu nghe theo Đức Chúa Trời,thì tình hình đã khác hẳn.

Thi 82:1-8.

Các quan án không công bình thật đáng trách vì để cho tội ác thắng thế; họ đã quên trách nhiệm của mình đối với Quan Án Tối cao.

Thi 83:1-18.

Lời cầu nguyện nghịch cùng sự âm mưu của những người Ê-đôm, Ả- rập, Mô-áp, Am-môn, A-ma-léc, Phi-li-tin,và nhiều dân khác.

Thi 84:1-12.

Phước lành cho những ai tận tụy với Nhà Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời yêu mến những ai yêu mến con đường đi tới Si-ôn. Xem thêm ở  Thi 27:1-14.

Thi 85:1-13.

Cảm tạ Đức Chúa Trời vì được từ chốn lưu đày trở về quê hương; cũng có lời cầu nguyện cho đất nước được khôi phục và cho tương lai được tốt đẹp hơn.

Thi 86:1-17.

Lời kêu xin Đức Chúa Trời thương xót; giống như nhiều Thi Thiên khác của Đa-vít. Ông là người hiền đức,tin kính, song vẫn cần được tha thứ. Xem thêm ở Thi 32:1-11.

Thi 87:1-7.

Si-ôn, thành của Đức Chúa Trời, là một trong những danh hiệu đầy thi vị của Hội Thánh. Si-ôn có sổ ghi tên những kẻ được kế tự Thiên đàng (câu 6  He 12:22).

Thi 88:1-18.

Tiếng kêu thương của một người đã chịu khổ nạn suốt đời. "Hê-man" ở đầu đề là một trong những trưởng ban hát của Đa-vít (ISu 15:17-19), đồng thời với Sa-lô-môn (IVua 4:31).Trong nguyên văn có chữ "Mahalath-Leannoth," nghĩa là:"Một bài hát trong cơn bịnh hoạn."

Thi 89:1-52.

Đức Chúa Trời thề rằng ngôi vua của Đa-vít sẽ vô cùng tận. Một Thi Thiên tuyệt mỹ (xem thêm ở  Thi 2:1-12 và  IISu 7:1-22) "Ê-than" là một trong những trưởng ban hát của Đa-vít, cùng với A-sáp và Hê-man (ISu 15:16-19).

Thi 90:1-17.

Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Vì Thi Thiên nầy của Môi-se và Môi-se đã sống 400 năm trước Đa-vít, nên có thể đây là Thi Thiên thứ nhứt đã được viết ra. Môi-se còn viết nhiều bài ca khác (Xu 15:1-27  Phu 32:1-52). Theo truyền thoại của các Ra-bi (đạo sư Do-thái), thì 10 Thi Thiên vô danh (91-100) là của Môi-se. Nếu vậy thì loạt Thi Thiên nầy có thể là nguyên điểm của sách Thi Thiên.

Thi 91:1-16.

Một Thi Thiên tuyệt mỹ về lòng tin cậy. Không một tai họa nào sẽ xảy đến cho anh em. Đức Chúa Trời sẽ sai thiên sứ gìn giữ anh em trong mọi bước đường. Có đức tin như vậy, thì vinh hiển biết bao!

Thi 92:1-15.

Một Thánh ca ngợi khen Chúa trong ngày yên nghỉ; dường như nhìn vào ngày yên nghỉ của công việc sáng tạo trong thời quá khứ và sự yên nghỉ đời đời trong thời tương lai.

Thi 93:1-5.

Ngôi Đức Chúa Trời có sự oai nghiêm, quyền phép, thánh khiết, và còn đến đời đời. Đức Chúa Trời trị vì từ đời đời cho đến đời đời.

Thi 94:1-23.

Một lời cầu xin Đức Chúa Trời báo thù kẻ gian ác và chấm dứt đời trị vì dai dẳng, nặng tội của chúng.Xem thêm ở Thi Thiên 35.

Thi 95:1-100:5.

Tiếp tục ý tưởng bày tỏ trong Thi Thiên 93, những Thi Thiên nầy gọi là Thi Thiên "thần chánh"vì nó liên quan đến quyền cao cả của Đức Giê-hô-va và ngụ ý nói đến đời trị vì của Đấng Mê-si hầu đến.

Thi 95:1-11.

Hãy ca hát và mừng rỡ. Đức Chúa Trời là Vua. Chúng ta hãy quì trước mặt Ngài. Chúng ta là dân của Ngài,hãy lắng tai nghe tiếng Ngài.

Thi 96:1-13.

Hãy ca hát. Đức Chúa Trời trị vì. Các từng trời hãy vui mừng, và trái đất hãy hớn hở! Ngày phán xét hầu gần.

Thi 97:1-12.

Đức Giê-hô-va ngự đến. Trái đất rung chuyển. Đây là một bản quốc thiều cử hành trong "Lễ Đăng quang," có lẽ ám chỉ về cả sự ngự đến thứ nhứt và sự ngự đến thứ hai của Đấng Christ.

Thi 98:1-9.

Đây dường như là bài ca của "Ngày Đăng quang." Vì là "một bài ca mới" (câu 1), nên có lẽ đây là một trong những bài ca sẽ hát ở trên trời (Kh 5:9-14).

Thi 99:1-9.

Đức Chúa Trời trị vì. Các dân hãy run rẩy. Đức Chúa Trời là Đấng Thánh. Ngài ưa thích sự sông bình và đáp lại lời cầu nguyện.

Thi 100:1-5.

Âm luật của Thi Thiên nầy được gọi là "Thứ một trăm xưa." Đây là điệu nhạc "Ngợi khen Đức Chúa Trời, từ Ngài mọi phước lưu ra."

Thi 101:1-8.

Người ta cho rằng có lẽ Thi Thiên nầy được trứ tác khi Đa-vít lên ngôi vua, và kể ra những nguyên tắc ông sẽ áp dụng để trị nước.

Thi 102:1-28.

Một lời cầu nguyện ăn năn trong lúc bị hoạn nạn ghê gớm, bị nhục nhã và hổ thẹn. Xem thêm ở  Thi 32:1-11. Câu 25-27 luận về sự vĩnh cửu của Đức Chúa Trời, đã được trưng dẫn ở  He 1:10-12 để ứng dụng cho Đấng Christ.

Thi 103:1-22.

Một Thi Thiên về sự thương xót của Đức Chúa Trời. Người ta cho rằng Thi Thiên nầy được trứ tác khi Đa-vít đã cao tuổi, và tóm tắt cách Đức Chúa Trời đối xử với ông. Đây là một trong những Thi Thiên được quí chuộng hơn hết. Chúng ta ưa đọc Thi Thiên nầy biết bao!

Thi 104:1-35.

Một Thi Thiên về cõi thiên nhiên. Đức Chúa Trời săn sóc các loài thọ tạo của Ngài. Nhắc ta nhớ lời Đức Chúa Jêsus phán rằng: "Ví không theo ý muốn Cha các ngươi, thì chẳng hề một con (chim sẻ) nào rơi xuống đất" (Mat 10:29).

Thi 105:1-15.

Một bài thơ tóm tắt lịch sử dân Y-sơ-ra-ên. Xem thêm ở Thi Thiên 78. Đặt biệt luận về Chúa giải cứu họ khỏi nước Ai-cập một cách kỳ diệu.

Thi 106:1-48.

Lại một Thi Thiên lịch sử nữa, đem sự thương xót lạ lùng của Đức Chúa Trời đối chiếu với sự cố quyết không vâng lời của dân Y-sơ-ra-ên.

Thi 107:1-43.

Những việc lạ lùng do lòng từ ái của Đức Chúa Trời đang khi đối xử với dân Ngài và đang khi cai quản mọi sự trong cõi thiên nhiên.

Thi 108:1-13.

Đây dường như là một trong những bài ca xuất trận của Đa-vít. Nó gần giống nhiều phần của Thi 57:1-11  Thi 60:1-12.

Thi 109:1-31.

Báo trả những kẻ thù nghịch Đức Chúa Trời. Đây là một trong các Thi Thiên rủa sả (xem thêm ở  35:1-28). Tên Giu-đa có mặt trong bức tranh nầy (câu 8  Cong 1:20).

Thi Thi 110:1-7.

Vua hầu đến sẽ trị vì đời đời và làm Thầy tế lễ đời đời. Thi Thiên nầy không thể ám chỉ vào một nhơn vật nào trong lịch sử trừ ra Đấng Christ; tuy nhiên, nó được trứ tác 1000 năm trước thời Đấng Christ (câu 1, 4  Mat 22:44  Cong 2:34  He 1:13  5:6).Xem thêm ở  Thi 2:1-12.

Thi 111:1-10.

Một Thi Thiên luận về sự oai nghiêm, tôn quí, công bình, thương xót, thành tín, chơn thật, thánh khiết và vĩnh cửu của Đức Chúa Trời.

Thi 112:1-10.

Phước lành của người nào công bình, hay thương xót và hay làm ơn như Đức Chúa Trời, nhơn từ đối với kẻ nghèo, và yêu mến các đường lối của Đức Chúa Trời.

Thi 113:1-118:29.

Những Thi Thiên nầy được gọi là Thi Thiên "Hallel." Người ta hát chung trong gia đình, nhằm đêm Lễ Vượt Qua:  Thi 113:1-114:9 lúc bắt đầu dùng bữa; Thi Thiên chương 115, 116, 117 và 118 lúc đã ăn xong. Đây chắc là những Thánh ca mà Đức Chúa Jêsus và các Sứ đồ đã hát khi ăn bữa tiệc cuối cùng (Mat 26:30).

Thi 113:1-9.

Một bài hát ngợi khen. Bắt đầu và chấm dứt bằng chữ "Ha-lê-lu- gia," nghĩa là: "Ngợi khen Chúa!" Hãy Ngợi khen Ngài đời đời.

Thi 114:1-8.

Một Thánh ca nhắc lại những phép lạ trong sự giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi Ai-cập, tức là lúc bắt đầu có Lễ Vượt Qua.

Thi 115:1-15.

Giê-hô-va là Đức Chúa Trời duy nhứt. Phước thay cho dân Ngài! Phước thay cho những kẻ tin cậy Ngài, chớ không tin cậy tà thần của các nước!

Thi 116:1-19.

Một bài ca tỏ lòng biết ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã giải cứu mình khỏi sự chết, khỏi sự cám dỗ, và đã nhiều lần đáp lại lời cầu nguyện.

Thi 117:1-2.

Một lời kêu gọi các dân hãy tiếp nhận Đức Giê-hô-va. Đã được trưng dẫn ở  Ro 15:11. Đây là đoạn ở chính giữa Kinh Thánh, và cũng là đoạn ngắn nhứt.

Thi 118:1-29

Đây là bài Thánh ca từ giã mà Đức Chúa Jêsus và các môn đồ đã hát khi Ngài dời khỏi phòng dự Lễ Vượt Qua để đi lên Thập tự giá (Mat 26:30). Thi Thiên nầy gồm có lời dự ngôn về Ngài bị chối bỏ (câu 22, 26  Mat 21:9,42).

Thi Thi 119:1-176.

Vinh quang của Lời Đức Chúa Trời. Đây là đoạn dài nhứt Kinh Thánh, gồm 176 câu. Trừ những câu 90, 121,122, 132, còn thì câu nào cũng nói đến Lời Đức Chúa Trời dưới một trong những danh hiệu nầy: Luật pháp, chứng cớ, đoán ngữ, luật lệ, điều răn, giềng mối,lời, mạng lịnh, đường lối.  Thi 119:1-176 là một bản giải rộng  Thi 1:1-8  Thi 19:1-14. Đây là một Thi Thiên theo thứ tự chữ cái, gồm 22 khúc, mỗi khúc có 8 dòng, và mỗi dòng trong 8 dòng ấy bắt đầu bằng cùng một chữ cái (xem thêm ở  Thi 9:1-20). Đây là Thi Thiên mà nhà văn hào Ruskin rất ưa thích.

Thi 120:1-134:3.

Những Thi Thiên nầy gọi là "bài ca đi lên từng bậc," hoặc "bài ca của kẻ đi dự lễ.". Những Thi Thiên nầy cốt để hát lên, và nói chung, người ta cho là dân Do-thái đã hát những Thi Thiên nầy trên đường đi dự các đại lễ ở thành Giê-ru-sa-lem, hoặc đang khi họ đi lên 15 bậc để tới hành lang Đền thờ dành cho đờn ông. Hoặc chữ "đi lên" còn có nghĩa là "hát cao giọng,"hay là "lối tư tưởng cao tột."

Thi 120:1-7.

Lời người sống giữa những kẻ lừa dối, phản phúc, cách xa Si-ôn, cầu xin Đức Chúa Trời che chở mình.

Thi 121:1-8.

Đây có lẽ là Thánh ca mà các người đi dự lễ đã hát khi vừa mới thấy các núi bao quanh thành Giê-ru-sa-lem.

Thi 122:1-9.

Đây có lẽ là Thánh ca mà các người đi dự lễ đã hát khi gần tới cổng Đền thờ, ở bên trong vách thành Giê-ru-sa-lem.

Thi 123:1-4.

Còn Thi Thiên nầy thì những người đi dự lễ hát ở bên trong Đền thờ, đang khi họ ngước mắt nhìn lên Đức Chúa Trời và cầu xin Ngài thương xót mình.

Thi 124:1-8.

Một bản Thánh ca cảm tạ và ngợi khen Đức Chúa Trời ở trong Đền thờ, vì Ngài luôn luôn giải cứu quốc gia những lúc có hiểm họa khủng khiếp.

Thi 125:1-5.

Một Thánh ca tỏ lòng tin cậy. Các núi bao quanh thành Giê-ru-sa-lem thể nào, thì Đức Chúa Trời cũng bao phủ dân Ngài đời đời thể ấy.

Thi 126:1-6.

Một bài hát cảm tạ Đức Chúa Trời vì được từ chốn lưu đày trở về cố hương. Phước tốt đẹp quá đến nỗi dường như không thật có, và dường như họ đang chiêm bao.

Thi 127:1-5.

Dường như là hai bài thơ hợp làm một, luận về sự xây dựng Đền thờ và xây dựng gia đình. Một trong hai Thi Thiên do Sa-lô-môn trứ tác. Thi Thiên kia là  Thi 72:1-20.

Thi 128:1-6.

Một bài ca hôn lễ. Tiếp tục phần cuối của  Thi 127:1-5, các gia đình đạo đức, tin kính là nền tảng của sự an lạc quốc gia.

Thi 129:1-8.

Dân Y-sơ-ra-ên cầu xin cho quân thù của mình bị lật đổ, vì chúng đã làm khổ họ từ lúc thiếu thời, hết thế hệ nầy đến thệ khác.

Thi 130:1-8.

Tiếng kêu la của một linh hồn nặng trĩu mối cảm biết mình có tội. Đây là một trong những Thi Thiên Ăn năn. Xem thêm ở  Thi 32:1-11.

Thi 131:1-3.

Một Thi Thiên tỏ lòng khiêm cung tin cậy Đức Chúa Trời, chẳng khác gì trẻ thơ. Tôi đã làm cho linh hồn mình yên tịnh trong Đức Chúa Trời, cũng như trẻ thơ ở bên mẹ nó vậy.

Thi 132:1-18.

Thi ca lặp lại lời Đức Chúa Trời hứa với Đa-vít, không hề vi phạm, rằng Ngài sẽ ban cho ông một Vị Kế tự ngôi ông đời đời. Xem thêm ở  Thi 2:1-12.

Thi 133:1-134:3.

Một Thi Thiên luận về tình huynh đệ và sự sống đời đời. Còn một Thi Thiên luận về những kẻ ban đêm canh giữ Đền thờ và lời họ chào nhau.

Thi 135:1-21.

Một bài hát ngợi khen Đức Chúa Trời vì các công việc lạ lùng của Ngài trong cõi thiên nhiên và trong lịch sử. Bắt đầu và chấm dứt bằng chữ "Ha-lê-lu-gia," nghĩa là: "Ngợi khen Chúa!"

Thi 136:1-26.

Thi Thiên "Hallel"vĩ đại. Câu nào cũng lặp lại mấy chữ: "Sự nhơn từ Ngài còn đến đời đời." Họ hát Thi Thiên nầy lúc bắt đầu cử hành Lễ Vượt Qua. Đây là một bài hát trong Đền thờ mà ai nấy ưa thích (ISu 16:41  IISu 7:3  20:21  Exo 3:11).

Thi 137:1-9.

Một Thi Thiên lúc bị lưu đày. Những kẻ bị lưu đày ở nước ngoài mong ước trở về cố hương. Những kẻ bắt họ đi làm phu tù chắc chắn sẽ bị báo trả.

Thi 138:1-8.

Một bài hát cảm tạ, dường như nhằm cơ hội Đức Chúa Trời đặc biệt đáp lại lời cầu nguyện, có lẽ là lúc Đa-vít lên ngôi vua.

Thi 139:1-24.

Sự hiểu biết vô cùng của Đức Chúa Trời. Chẳng có gì giấu khỏi Ngài. Ngài biết hết ý nghĩ, lời nói và việc làm của chúng ta. Sự tối tăm cũng không giấu chi khỏi Đức Chúa Trời được.

Thi 140:1-13.

Một trong những lời Đa-vít cầu xin Đức Chúa Trời che chở mình khỏi những kẻ thù nghịch gian ác và tiêu diệt chúng đi. Đây là một Thi Thiên rủa sả. Xem thêm  35:1-28.

Thi 141:1-10.

Lại một lời Đa-vít cầu xin Đức Chúa Trời che chở mình khỏi kẻ thù nghịch. Dầu đời trị vì của Đa-vít vinh quang, nhưng ông luôn luôn bị quân thù khuấy rối.

Thi 142:1-7.

Một trong những lời cầu nguyện của Đa-vít lúc thanh niên, đang khi trốn trong hang đá để tránh khỏi Sau-lơ (ISa 22:1  24:3). Xem thêm ở  54:1-7.

Thi 143:1-12.

Lời Đa-vít ăn năn kêu xin Đức Chúa Trời cứu giúp, có lẽ trong lúc đang bị con trai, là Áp-sa-lôm, truy kích (IISa 17:1-18:33). Xem thêm ở  32:1-11

Thi 144:1-15.

Một trong những bài ca xuất trận của Đa-vít. Có lẽ đạo quân của ông đã hát các Thánh ca như bài nầy đang lúc tiến ra mặt trận.

Thi 145:1-21.

Một bản Thánh ca ngợi khen Chúa. Có lẽ Đa-vít đã truyền lịnh cho quân đội mình hát những bài thuộc loại nầy sau khi từ mặt trận trở về, để cảm tạ Chúa đã cho mình đắc thắng.

Thi 146:1-150:6.

Những Thi Thiên nầy gọi là Thi Thiên "Ha-lê-lu-gia," vì mỗi Thi Thiên bắt đầu và chấm dứt bằng chữ "Ha-lê-lu-gia," nghĩa là: "Ngợi khen Chúa." Chữ "Ha-lê-lu-gia" nầy cũng thường thấy trong những Thi Thiên khác. Sách Thi Thiên lên đến tuyệt điểm và chấm dứt với tiếng hô: "Ha-lê-lu-gia"vĩ đại; tiếng ấy cứ chạy suốt cho tới hết Kinh Thánh và vang dội trong ban hát thiên thượng gồm những người đã được cứu chuộc (Kh 19:1,3,4,6).

Thi 146:1-10.

Tôi còn sống bao lâu,thì sẽ ngợi khen Đức Chúa Trời bấy lâu. Đức Chúa Trời trị vì. Đang khi thân tôi còn, tôi sẽ ngợi khen Đức Chúa Trời. Hỡi linh hồn ta, hãy ngợi khen Đức Chúa Trời!

Thi 147:1-20.

Muôn loài thọ tạo hãy ngợi khen Đức Chúa Trời! Hãy cảm tạ mà hát cho Đức Chúa Trời. Dân Y-sơ-ra-ên hãy ngợi khen Đức Chúa Trời! Núi Si-ôn hãy ngợi khen Ngài! Ha-lê-lu-gia!

Thi 148:1-14.

Ha-lê-lu-gia! Các thiên sứ hãy ngợi khen Đức Chúa Trời. Mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao hãy ngợi khen Đức Chúa Trời! Các từng trời hãy reo hò: Ha-lê-lu-gia!"

Thi 149:1-9.

Ha-lê-lu-gia! Các thánh đồ hãy ngợi khen Đức Chúa Trời! Họ hãy hát mừng đi! Họ hãy hớn hở trong Đức Chúa Trời! Núi Si-ôn hãy vui mừng! Ha-lê-lu-gia!

Thi 150:1-6.

Hãy dùng kèn, đờn sắt và đờn cầm mà ngợi khen Đức Chúa Trời. Mọi vật có hơi thở, hãy ngợi khen Đức Chúa Trời! Ha-lê-lu-gia!"