- Chuyên mục: Thánh Kinh Lược Khảo
Lưu vực Ơ-phơ-rát
Lưu vực giữa hai sông Ơ-phơ-rát và Ti-gơ-rơ là nơi ở của những người đầu tiên trên mặt đất, và nơi truyện tích Kinh Thánh bắt đầu. Ngày nay rải rác trên lưu vực nầy có những gò nỗng, tức là di tích của các đô thị thượng cổ, gồm cả những đô thị từng được xây cất đầu tiên. Những đô thị nầy xây bằng gạch. Rác rến quăng ra ngoài đường, hoặc trút qua tường. Khi sửa chữa nhà, thì họ nâng lên ngang với mặt đường. Khi đô thị bị bỏ hoang, hoặc bị phá hủy vì chiến tranh , rồi dân lại về ở đó, thì những đóng tàn vụn không bị dời đi xa, song được san phẳng làm nền của một đô thị mới. Vì nền nầy toàn bằng gạch thường vỡ một phần và rời nhau ra, nên nó là một nền rất vững chắc cho đô thị ở trên. Thế thì, gạch vụn và di tích của đô thị cũ bị chôn vùi ở ngay dưới đô thị mới.
Như vậy, các gò nỗng cứ cao hơn và rộng hơn, đô thị nầy chồng lên đô thị kia. Khi đô thị bị bỏ hoang mãi mãi, thì gạch bị dầm mưa, bèn rời nhau ra, có một lớp đất phủ lên trên. Bị vùi lấp dưới những trận bão cát ở sa mạc, những gò nỗng nầy giấu trong lòng nó sự bí mật của cuộc sanh hoạt và nền văn minh các dân tộc đã kế tiếp nhau ở đó.
Một vài gò nỗng nầy cao tới 34 thước tây hoặc hơn nữa, và chứa di tích của hàng 20 đô thị hoặc hơn nữa. Mỗi đô thị là một lớp đặc biệt, chứa các dụng cụ, đồ gốm, gạch vụn, sổ sách và các loại di tích của nhơn dân thời đó. Những năm gần đây, các nhà khảo cổ đào bới các gò nỗng di tích ấy đến tận dưới đáy, tận các đô thị đầu tiên, đã đem quá khứ bị lãng quên từ lâu ra ánh sáng, và đã bày giãi những vật xác nhận, bổ túc hoặc chứng minh lịch sử Kinh Thánh một cách kì diệu hết sức.
Khởi sự quan tâm đến nền khảo cổ
Claude James Rich, một đại diện của Anh quốc Đông-Ấn Công ty (British East India Company), ở tại Bagdad, cách vị trí kinh thành Ba-by-lôn xưa 80 cây số về phía Đông bắc. Một bạn đồng sự đem về mấy viên gạch có ghi chữ, đã gợi trí tộc mạch của ông; và năm 1811, ông tới thăm vị trí ấy. Ông ở đó 10 ngày, xác định vị trí và vẽ bản đồ của khu gò nỗng rộng lớn trước kia là kinh thành Ba-by-lôn. Với sự giúp đỡ của vài người bổn xứ, ông đã đào bới những gò nỗng ấy, tìm được một ít tấm bản, đem về nước Anh.
Năm 1820, ông đến thăm đô thị Mosul, và để bốn tháng vẽ bản đồ các gò nỗng ở ngay bên kia sông mà ông ngờ là di tích của thành Ni-ni-ve. Ông thâu nhập những tấm bảng và bi văn mà ông hoặc bất cứ ai đều không đọc được. Những sự khám phá của ông làm cho rất nhiều người chú ý.
Năm 1842, Paul Emile Botta, Lãnh sự Pháp ở Mosul, bắt đầu đào bới những gò nỗng ấy; và 10 năm sau, ông đã đem ra ánh sáng cung điện nguy nga của Sargon tại khorsabad.
Huân tước Austen Henry Layard, người Anh, có biệt hiệu là "cha của nền khảo cổ A-si-ri," vào khoảng 1845-1851, đã khám phá được, tại Ni-ni-ve và Ca-lách, di tích cung điện của năm vua A-si-ri có tên ghi trong Kinh Thánh và đại thơ viện của Assur-banipal, mà người ta ước lượng có chứa tới 100 ngàn quyển sách.
Từ đó tới nay, hàng mấy chục phái đoàn khảo cổ của các nước Anh, Pháp, Đức, Mỹ đã đào bới những gò nỗng cổ tích ở lưu vực sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ. Họ tìm ra hàng trăm ngàn bảng và bia ghi chữ đã có từ thời thượng cổ của loài người. Công việc ấy vẫn tiến hành; một số lớn bi văn thời cổ cứ được chở vào các bảo tàng viện lớn của thế giới để khảo cứu và giải thích.
Những bi văn ấy khắc một thứ chữ từ lâu không còn dùng nữa và đã bị quên rồi. Nhưng nó rất hệ trọng, nên các học giả hết sức chăm chú cho giải thích được.
Ghình đá Behistun, chìa khóa của tiếng Ba-by-lôn
Năm 1835, huân tước Henry Rawlinson,một sĩ quan Lục quân Anh, đóng ở Ba-tư, đã nhận thấy trên núi Behistun, cách Ba-by-lôn 200 dặm về phía Đông bắc, trên đường đi Ecbatana, thuộc biên giới xứ Mê-đi, có một ghình đá lớn trơ trụi và dốc; từ đồng bằng lên cao chừng 540 thước tây; trên mặt ghình đá nầy, tại một vầng đá dốc thẳng cao hơn đường cái chừng 128 thước, có một khoảng nhẵn, phẳng chạm trổ. Ông bèn tra xét và nhận thấy đó là một bi văn khắc năm 516 T.C., theo lịnh của Đa-ri-út, vua Ba-tư (521-485 T.C.). Chính là dưới đời trị vì của Đa-ri-út nầy mà Đền thờ ở thành Giê-ru-sa-lem được xây cất lại, đúng như sách E-xơ-ra đã chép vào năm hoàn thành Đền thờ.
Bằng các tiếng Ba-tư, Ê-lam, và Ba-by-lôn, bi văn nầy đã ghi chép dài dòng những cuộc chiến thắng của Đa-ri-út và vinh quang của đời trị vi vua ấy. Rawlinson biết tiếng Ba-tư ít nhiều; ông đoán rằng đó là một bi văn bằng ba thứ tiếng khác nhau. Vậy, với sự bền đỗ phi thường và luôn luôn phải liều mạng sống, trải qua 4 năm, ông đã leo lên vầng đá, đứng trên một chỗ chờm rộng chừng 30 phân tây, ở phía dưới bi văn, rồi nhờ thang bắc từ phía dưới và nhờ đu giòng từ phía trên, ông đã in lại bi văn đó.
Hết 14 năm nữa, ông mới phiên dịch xong. Ông đã tìm được chìa khóa của tiếng Ba-by-lôn thời cổ, và đã mở ra cho thế giới thấy những kho báu rộng lớn của nền văn học Ba-by-lôn thời cổ.
* * *
Viết Chữ
Cách đây ít lâu, người ta thường tin rằng trong khoảng lịch sử tchượng cổ của Cựu Ước, chẳng ai biết viết chữ. Đó là một trong những điểm chính của phái phê bình kim thời rằng có mấy sách Cựu Ước được chép lâu lắm sau những biến cố mà nó mô tả, và như vậy, thì chỉ thể hiện khẩu truyền. Nhưng bây giờ cái mai của nhà khảo cổ học tỏ ra rằng những biến cố quan trọng đã được ghi chép từ lúc bắt đầu có lịch sử.
Gốc tích sự viết chữ thời trước nạn nước lụt
Berosus thuật lại một truyền thoại rằng trước nạn nước lụt, Xisuthrus, Nô-ê của nước Ba-by-lôn, đã chôn các sách thánh viết trên bản đất sét nung, tại Sippar, và sau đó ông đã đào lên. Giữa vòng dân Ả-rập và người Do-thái có một truyền thoại rằng Hê-nóc là người đặt ra chữ viết và đã để lại một số sách vở. Một vua nước Ba-by-lôn thời cổ đã ghi chép rằng ông "ưa đọc những sách vở của thời trước nước lụt." Assur-banipal,người sáng lập thơ viện đồ sộ của thành Ni-ni-ve, có nói đến "những bi văn của thời trước nước lụt."
Sách vở thời trước nạn nước lụt
Người ta đã tìm thấy một vài bi văn thời trước nước lụt. Người ta có một tấm bảng chữ tượng hình do tấn sĩ Langdon tìm được tại Kish, dưới lớp đồ vật mà nạn nước lụt làm lắng xuống. Lại cũng có những cái ấn thời trước nước lụt, tìm được tại U-rơ.
Cái ấn là hình thức chữ viết tối cổ,trên có ghi tên người để tỏ ra ai là sở hữa chủ. Nó dùng để ký tên trên thơ từ,giao kèo, biên lai, và nhiều thứ giấy tờ khác. Mỗi người có ấn riêng. Ấn khắc bằng thứ cưa hoặc dùi rất nhỏ trên những miếng đá hoặc kim khí nhỏ. Người ta dùng ấn đóng vào những tấm bảng đất sét trong khi đất sét còn mềm.
Chữ viết tượng hình
Chữ viết bắt đầu khi Đức Chúa Trời "đánh dấu trên mình Ca-in" (Sa 4:15). Dấu ấy là biểu hiện cho một ý tưởng. Như vậy, "dấu" và "hình" bắt đầu dùng để ghi chép ý tưởng, chữ và nhiều chữ hợp lại. Những hình nầy được vẽ hoặc khắc trên đồ gốm hoặc trên tấm bảng đất sét. Đó là thứ chữ người ta tìm thấy ở những lớp thấp nhứt của các đô thị xứ Ba-by-lôn thời tiền sử. Chữ viết lâu đời nhứt mà ta được biết chính là những hình trên tấm bảng đất sét.
Phạm vi nguyên thủy của chữ viết
Dầu được đặt ra bất cứ khi nào, dường như thoạt tiên và trong một thời gian, chữ viết cũng chỉ do các viên ký lục dùng ở những đô thị đông dân. Vì nhiều bộ lạc và gia tộc di cư từ vùng an ninh đến vùng chưa an ninh, nên ở ngoài phạm vi các biến cố được ghi chép thành sử ký, và tại những nước ngày càng mở rộng, ngày càng bội đạo, đã nảy ra đủ thứ truyền thoại thô kệch, mờ mịt có tánh cách đa thần và thờ lạy hình tượng, dựa trên những cái vốn là thực sự nguyên thủy.
Chữ tiết hình (cunéiforme)
Thoạt tiên, một dấu hiệu nào đó đại diện cho cả một chữ, hoặc nhiều chữ hợp lại. Nghệ thuật viết chữ lần lần tấn triển, các "dấu" bèn đại diện cho những phần của chữ, hoặc vần (syllabe). Đó là thứ chữ viết dùng ở xứ Ba-by-lôn, lúc khởi đầu thời kỳ có lịch sử. Có hơn 500 dấu khác nhau, và chừng 30 ngàn tổ hợp của các dấu ấy. Nói chung, những dấu nầy ghi tên gạch hoặc bảng đất sét mềm, dài từ 2 phân rưỡi đến 50 phân tây, rộng chừng 2 phần 3 cỡ đó, viết chữ cả hai mặt, rồi đem phơi nắng hoặc nung. Những chữ tiết hình ghi trên bảng bằng đất sét là hình thức dùng để truyền lại cho chúng ta nền văn học sâu rộng của người Ba-by-lôn thượng cổ.
Viết bằng chữ cái
Là một bước tấn triển xa hơn nữa, trong đó những dấu đại diện cho những phần của vần, hoặc chữ cái (lettres). Đó là một hình thức viết chữ giản dị hóa nhiều lắm: Với 26 dấu khác nhau, người ta có thể hình dung hết các chữ khác nhau mà trước kia phải dùng tới 500 dấu tiết hình để hình dung. Lối viết bằng chữ cái bắt đầu từ hơn 1500 năm T.C..
Vật liệu để viết chữ
Những chữ "viết,""sách," "mực" là thông thường cho mọi nhánh của ngữ hệ Sémitique; điều nầy dường như chứng tỏ rằng những người Sémites (Tiểu Á-tế-á)thượng cổ đã biết dùng mực viết sách trước khi chia thành nhiều chủng tộc khác nhau.Trong xứ Ba-by-lôn, phần nhiều viết trên tấm bảng đất sét. Người Ai-cập dùng đá, da thuộc và chỉ thảo (papyrus). Chỉ thảo, "tiền khu" của giấy,làm bằng cây sậy mọc ở đồng lầy, đường kính từ 5 đến 7 phân rưỡi, và bề cao từ 3 thước đến 4 thước rưỡi. Người ta xắt cây sậy thành những miếng mỏng, đặt hàng ngang hàng dọc, đổ nước cho ngấm, rồi ép thành tờ hoặc cuốn, thường rộng 30 phân tây và dài từ 30 phân đến 3 thước tây. Đồ gốm cũ có khi cũng dùng để viết.
Những Cuộc Phát Giác Của Khảo Cổ Học 3
Viết Chữ 2
Sách vở trước thời Áp-ra-ham
Theo như sẽ nói ở mục dưới kia, thì sau nạn nước lụt, những trung tâm đông dân thời thượng cổ đều ở xứ Ba-by-lôn, tại Kish, Ê-rết, Lagash, A-cát, U-rơ, Ba-by-lôn, Eridu, Nippur, Larsa và Fara.
Trong đống di tích của những đô thị nầy, người ta đã tìm được hàng ngàn quyển sách viết trên đá hoặc trên bảng đất sét trước thời Áp-ra-ham. Trong số những bảng có tiếng hơn hết, chúng tôi xin kể năm tấm ở đây:
Tấm bảng nền nhà của Annipadda
Đây là một phiến cẩm thạch, một bề 7 phân rưỡi, một bề 10 phân, do Woolley tìm được năm 1923, trên đá góc một miễu thờ ở Obeid, cách U-rơ 4 dặm về phía tây. Trên tấm bảng có ghi rằng:"Annipadda, vua U-rơ, con trai của Messanipadda, đã xây miễu nầy cho đức bà Nin-Kharsag" (nữ thần mẹ). Hiện nay tấm bảng nầy ở Bảo tàng viện Anh-quốc, và có một bảng sao ở Bảo tàng viện Đại học đường Pennsylvania.
Tấm bia nầy được coi là "tài liệu lịch sử lâu đời nhứt" mà người ta từng tìm được. Cũng có phát giác nhiều tấm bảng lâu đời hơn nữa. Nhưng đây là Bản Văn lâu đời nhứt Ghi Chép một Biến Cố Đương Thời. Trong sử ký Ba-by-lôn, nó đánh dấu con đường phân chia giữa các thời kỳ "tiền sử" và các thời kỳ "lịch sử."
Chơn dung gia đình Ur-nina,vua Lagash, các con trai và tôi tớ ông; ông là tổ phụ của Eannatum; có những bi văn giải thích chơn dung nầy.
Tấm bia của En-hedu-anna,con gái Sargon; có bi văn ghi rằng nàng là nữ tăng của nữ thần Mặt Trăng tại U-rơ.
Tấm bia của Eannatum có hình chim kên kên do Sarzec tìm thấy tại Lagash. Hiện nay bày trong Bảo tàng viện Le louvre, ở Ba-lê. Ghi chép các trận ông thắng người Ê-lam, và mô tả cách ông đánh trận: Cho các chiến sĩ mang giáo,khiên và đội mũ tiến lên thành hình cái nêm.
Tấm bia của Ur-Nammur.Đây là một phiến đá vôi, cao chừng 3 thước tây, rộng chừng 1 thước rưỡi. Tìm thấy trên sàn Tòa Án ở U-rơ. Hiện nay ở Bảo tàng viện Đại học đường Pennsylvania. Mô tả sự xây cất cung điện Ziggurat khi U-rơ đang ở thời vinh quang. Gọi là "Tấm bia thiên sứ đang bay," vì có chạm hình thiên sứ đang bay trên đầu vua.
Bản đồ số16.
Mọi điều nầy có ảnh hưởng đến cái thực sự rằng người ta đã trứ tác các sách đầu tiên của Kinh Thánh. Nó tỏ ra người ta thường quen ghi chép các biến cố quan trọng từ khi mới có lịch sử, do đó quyết chắc rằng các biến cố đầu tiên của sách Sáng thế ký đã có thể và rất có lẽ được ghi chép trong các tài liệu đương thời. Như vậy, càng ngày ta càng dễ tin rằng ngay từ lúc ban đầu, Đức Chúa Trời đã tạo thành "nguyên tử" của Lời Ngài, và canh giữ cho Lời ấy được lưu truyền và tăng gia trải đời nầy qua đời kia.
* * *
Những Cuộc Phát Giác Của Khảo Cổ Học 4
Viết Chữ 3
Sách vở và thơ viện của xứ Ba-by-lôn thượng cổ
Xứ Ba-by-lôn là nơi phát tích của loài người, vị trí của vườn Ê-đen, sân khấu của đoạn đầu truyện tích Kinh Thánh,trung tâm của khu vực bị nạn nước lụt, quê hương của A-đam, Nô-ê và Áp-ra-ham.Đối với người học Kinh Thánh, lịch sử thượng cổ của xứ nầy thật là hào hứng tột bậc.
Xứ Ba-by-lôn ở cửa sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ, bề dài chừng 400 cây số và bề rộng chừng 80 cây số. Đất đai do phù sa của hai sông nầy tạo thành, và gồm có nhiều đồng lầy phì nhiêu không thể tưởng; trải qua nhiều thế kỷ, đây là trung tâm của một dân số trù mật. Ngày nay thì phần nhiều là đồng vắng hoang vu.
A-cát
Cũng được gọi là Sippar, Akkad, Agade,Abu Habba. Đây là một trong những đô thị của Nim-rốt (Sa 10:10). Thủ đô của vua thứ 8 trước thời nước lụt. Thủ đô của đế quốc Sargon. Cách Ba-by-lôn 30 dặm về phía Tây bắc. Đây là một trong các chỗ mà bảng luật pháp của Hammurabi đã được dựng lên. "Sippar," một tên của A-cát, có nghĩa là "Thị trấn Sách vở," tỏ ra nó nổi danh vì những thơ viện. Theo truyền thoại, đây là nơi chôn các Sách Thánh trước nạn nước lụt, rồi sau lại đào lên. Năm 1881,Rassam, và năm 1894, Schell đã đào bới di tích của đô thị nầy, tìm thấy tất cả 60 ngàn tấm bảng, trong số đó có cả một thơ viện gồm 30 ngàn tấm bảng.
Lagash
Cũng gọi là Tello và Shirpurla. Cách U-rơ chừng 50 dặm về phía Bắc. Thủ đô của một trong những nước đầu tiên sau nạn nước lụt. Do Sarzec đào bới năm 1877-1901. Trung tâm của nhiều thơ viện lớn.Tại đây, tìm thấy nhiều bi văn hơn bất cứ nơi nào khác.
Nippur
Cũng gọi là Nuffar và Calneh, cách Ba-by-lôn 50 dặm về phía Đông nam. Là một trong những đô thị của Nim-rốt. Do phái đoàn của Đại học đường Pennsylvania, điều khiển bởi Peters, Haynes và Hilprecht, đào bới vào các khoảng giữa năm 1888 và 1900. Họ tìm thấy 50 ngàn tấm bi văn từ 3000 năm T.C., trong số ấy có một thơ viện gồm 20 ngàn quyển sách. Có sở lưu trữ văn thư của các vua; có nhiều trường với ống tròn chứa tài liệu tham chiếu đặt trên bệ xoay quanh được; có nhiều tự điển, bách khoa toàn thư, tác phẩm toàn bộ về luật pháp, khoa học, tôn giáo và văn chương. Cũng tìm thấy một di tích tại đó có nhiều thư viện.
Jemdet Nasr
Một đô thị trước nạn nước lụt, cách Ba-by-lôn 25 dặm về phía Đông bắc. Bị thiêu rụi năm 3500 T.C., và không bao giờ được xây cất lại. Được đào bới năm 1926, do phái đoàn của Bảo tàng viện Đại học đường Oxford. Tại đây, Tấn sĩ Langdon tìm thấy những bi văn ghi chữ tượng hình tỏ cho ông thấy nhất thần giáo nguyên thủy.
Giác trụ các triều đại do Weld tìm thấy(prisme dynastique)
Đây là đại cương lịch sử thế giới đầu tiên mà ta được biết. Do một viên ký lục, ký tên là Nur-Ninsubur, viết năm 2170 T.C., vào cuối triều đại Isin. Ông đã liệt kê hết các vua từ lúc khởi thủy của loài người cho đến đời ông, gồm 10 vua sống lâu trước nạn nước lụt. Đây là một giác trụ đẹp đẽ bằng đất sét nung, do phái đoàn Weld-Blundell tìm được năm 1922 tại Larsa, cách U-rơ mấy dặm về phía Bắc. Hiện nay giác trụ nầy ở trong Bảo tàng viện Ashmolean của Đại học đường Oxford. Giác trụ nầy đã có từ hơn 100 năm trước thời Áp-ra-ham, chỉ cách nhà Áp-ra-ham ở có mấy dặm.
Bản đồ số17.
Những Cuộc Phát Giác Của Khảo Cổ Học 5
Viết Chữ 4
Sách vở đương thời Áp-ra-ham
Chính tại Obeid, cách U-rơ 4 dặm về phía Bắc, mà Woolley đã tìm thấy tài liệu "lịch sử lâu đời nhứt." Như vậy, ta biết rằng nơi sanh trưởng của Áp-ra-ham là một trung tâm văn hóa và văn chương của các thế hệ trước thời ông.
Bộ luật của Hammurabi
Bộ luật nầy là một trong những sự phát giác quan trọng nhất mà khảo cổ học từng thực hiện được. Hammurabi, vua Ba-by-lôn, khoảng 2000 năm T.C., là người đồng thời với Áp-ra-ham. Các nhà chuyên khảo cứu về dân A-si-ri thường cho rằng Hammurabi chính là Am-ra-phên ở Sáng thế ký, đoạn 14, một trong những vua mà Áp-ra-ham đuổi theo để giải cứu Lót. Ông là một trong những vua hùng mạnh nhứt và danh tiếng nhứt của xứ Ba-by-lôn thời cổ. Ông truyền lịnh cho các viên ký lục của mình thâu góp các đạo luật trong nước thành một bộ, rồi khắc vào đá mà dựng ở các đô thị lớn. Năm 1902, một phái đoàn khảo cổ Pháp, do J. De Morgan cầm đầu, đã tìm thấy một bộ luật đó vốn dựng tại Ba-by-lôn, giữa các di tích của Susa (một vua Ê-lam cướp phá Ba-by-lôn vào thế kỷ thứ 12 T.C., đã đem bộ luật đó về đây). Hiện nay bày trong Bảo tàng viện Le Lowre ở Ba-lê. Đây là một phiến đá thiểm-lục-nham (diorite) cứng, màu đen, đánh bóng rất đẹp, cao chừng 2 thước rưỡi, rộng chừng 64 phân tây, và dày chừng 48 phân tây, hình hơi bầu dục, đẽo tuyệt mỹ cả bốn phía, viết chữ tiết hình của tiếng Ba-by-lôn Sémilique (chính là tiếng mà Áp-ra-ham đã dùng). Nó có chừng 4000 dòng chữ, và nội dung bằng một quyển sách trung bình của Kinh Thánh. Đó là bi văn chữ tiết hình dài nhứt từng phát giác được, tường thuật rằng Hammurabi đã nhận được từ nơi Shamash, thần mặt trời,các đạo luật liên quan đến sự thờ lạy các thần trong đền thờ, ngành tư pháp,thuế má, lương bỏng, mức lời, cho vay tiền, tranh chấp tài sản, hôn nhân, công ty, dân công, miễn dịch, đào và giữ kinh, luật lệ về hành khách và chở hàng trên kinh hoặc từng thương đội (caravane), thương mại quốc tế, cùng nhiều vấn đề khác. Đây là quyển sách viết trên đá, không phải bản sao, mà là chính nguyên văn thủ bút, đương thời Áp-ra-ham, hiện nay vẫn còn. Chẳng những nó làm chứng về một hệ thống pháp học (jurisprudence) khá tấn triển, nhưng cũng làm chứng cho cái thực sự rằng đương thời Áp-ra-ham, văn tài đã tới một mức tấn bộ hiển nhiên.
Các thơ viện đương thời Áp-ra-ham
Tại U-rơ, đô thị của Áp-ra-ham, Lagash,nippur, sippar, và trong mỗi đô thị quan trọng của xứ Ba-by-lôn, còn nhiều thơ viện phụ thuộc vào các trường học và miễu thờ. Các thơ viện nầy có hàng ngàn quyển: tự điển, văn phạm, tác phẩm, tham khảo, bách khoa toàn thơ, biên niên sử (annales), sách về toán học, thiên văn học, địa dư, tôn giáo và chánh trị.Hammurabi, vua cai trị xứ Ba-by-lôn đương thời Áp-ra-ham, đã bảo trợ văn học rất nhiều. Đó là một thời kỳ hoạt động văn chương lớn lao, đã sản xuất nhiều kiệt tác mà Assur-banipal truyền cho các viên ký lục của mình sao lại để bày trong đại thơ viện thành Ni-ni-ve.
Khi Áp-ra-ham thăm viếng nước Ai-cập,thì đã có hàng triệu bản văn trên đá, bia, chỉ thảo và da thuộc. Trong xứ Ca-na-an, gần Hếp-rôn, đô thị của Áp-ra-ham, có một thị trấn tên là "Kiriath-Sepher," nghĩa là "thị trấn ký lục," chứng tỏ một dân hiếu thượng văn học.
Một nhà trường đương thời Áp-ra-ham
Tại U-rơ, ở địa tằng của thời Áp-ra-ham, Woolley đã phát giác được một trường học có 150 tấm bảng để học trò tập làm những bài về toán học, y học, sử ký và thần thoại. Lại thêm một tấm bảng có những cột song hành, chia một động từ tiếng Sumérien1 đủ các thì cùng với tương đương trong tiếng Sémitique; cũng có một tấm bảng ghi khắc và giải thích 5 loại ngữ căn khác nhau của các động từ. Có lẽ Áp-ra-ham đã theo học trường nầy.
Áp-ra-ham và các Sách Thánh
Không còn nghi ngờ chi nữa, Áp-ra-ham chắc đã nhờ Sem mà biết truyện tích Sáng tạo, Loài Người Sa ngã và Nạn Nước Lụt. Chính ông đã được Đức Chúa Trời trực tiếp kêu gọi trở nên tổ phụ của một dân tộc do đó một ngày kia, cả loài người sẽ được phước. Ông sống trong một xã hội có văn hóa, sách vở và thơ viện. Các vua đồng thời với ông giữ biên niên sử quốc gia trong phòng lưu trữ văn thơ của các miễu thờ. Áp-ra-ham là người có lòng tin quyết và tài làm lãnh tụ. Chắc ông cẩn thận chép lại đúng các truyện tích và sử liệu mà mình đã nhận được nơi tổ phụ; ông cũng thêm vào đó truyện tích của chính đời mình và các lời hứa mà Đức Chúa Trời đã ban cho mình. Ông đã ghi mọi sự đó trên những tấm bảng đất sét, bằng chữ tiết hình, để truyền lại làm sử ký của nước mà ông đang khai sáng
* * *
Những Cuộc Phát Giác Của Khảo Cổ Học 6
Viết Chữ 5
Tại Ai-cập
Năm 1798, trong cuộc viễn chinh Ai-cập,Nã-phá-luân đem theo chừng 100 học giả. Họ đem về những bản phúc trình làm cho các nhà khoa học chú ý. J. G. Wilkinson, người Anh, bèn đến ở thành Thèbes, và sao các bản văn trên bia lớn (1821-1833). Ông được gọi là "cha của khảo cổ học Ai-cập," và một vài tác phẩm của ông đến nay còn là tiêu chuẩn cho điển cứ (autorité). Năm 1842, Lepsius, người Đức, hoàn thành công trình khoa học quan trọng đầu tiên về nền khảo cổ Ai-cập, và từ đó tới nay, công trình ấy tấn triển nhiều lắm.
Phiến đá Rosette
Là chìa khóa của tiếng Ai-cập thượng cổ. Thời ấy, người Ai-cập dùng chữ tượng hình, mỗi chữ có một biểu tượng riêng.Khoảng năm 800 T.C., họ bắt đầu dùng một thứ chữ viết giản dị hơn, gọi là démotique, gần như vần chữ cái, và cứ thông dụng cho đến thời đế quốc La-mã.Lúc ấy, cả hai thứ chữ nầy không dùng nữa, rồi bị lãng quên. Như vậy, những bi văn kia không sao hiểu nổi cho đến khi tìm thấy "chìa khóa" để phiên dịch nó. Đó là phiến đá Rosette.
Nó do ông Boussard, một học giả Pháp đi theo Nã-phá-luân sang Ai-cập, tìm được năm 1799 tại Rosette, một thị trấn ở cửa cực tây sông Ni-lơ. Hiện nay nó đặt tại Anh quốc Bảo tàng viện. Đây là phiến đá hoa cương (granit) đen, cao chừng 1 thước 28 phân, rộng chừng 80 phân, và dầy chừng 32 phân, có ba bản văn, bản nọ trên bản kia, bằng tiếng Hi-lạp, tiếng Ai-cập démotique và tiếng Ai-cập tượng hình. Người ta hiểu được bản tiếng Hi-lạp. Đó là một chiếu chỉ của Ptolémée V, Epiphane, ban bố khoảng năm 200 T.C.,bằng ba thứ tiếng thông dụng khắp nước đương thời ấy, và dựng ở các đô thị. Một học giả Pháp, tên là Champollion, sau 4 năm (1818-22) làm việc khó nhọc và kiên nhẫn, so sánh giá trị có biết của các chữ cái Hi-lạp với những chữ Ai-cập chưa biết, đã thành công, gỡ được những bí hiểm của tiếng Ai-cập thời xưa.
Sự hoạt động văn chương trong nước Ai-cập thời xưa
Trải 1000 năm trước thời Môi-se, nghề văn đã chiếm được địa vị quan trọng chẳng những ở xứ Ba-by-lôn, mà cũng ở Ai-cập nữa. Mọi biến cố quan trọng đã được ghi chép. Tại Ai-cập, ghi chép trên đá, da thuộc và chỉ thảo. Da thuộc dùng từ triều đại thứ 4. Các chiến công của Thothmes III tại xứ Pa-lét-tin (Do-thái) năm 1500 T.C., đã được ghi chép trên cuốn da bò con rất mỏng. Chỉ thảo dùng từ năm 2700 T.C.. Nhưng bản văn ghi khắc trên đá thì còn lại lâu nhứt. Pha-ra-ôn (vua Ai-cập) nào cũng truyền lịnh khắc các biến cố của đời mình trị vì trên tường và bia của cung điện. Có những thơ viện đồ sộ chứa văn thơ của nhà nước; còn các bia thì nhan nhãn những bản văn tuyệt diệu. Có tấm bi văn trên bệ đài hình chóp (obélisque) của hoàng hậu trứ danh Hatshepsut tại Thèbes. Lại có tượng một viên ký lục nhà nghề của triều đại thứ 5, trước thời Môi-se nhiều thế kỷ.
Các tấm bảng ở Tell-el-Amarna
Năm 1888, tại các di tích đô thị Amarna, giữa đường Mem-phi và Thèbes, người ta tìm thấy chừng 400 tấm bảng đất sét vốn là một phần lưu trữ văn thư hoàng gia của Amenhotep III và Amenhotep IV, đã trị vì khoảng năm 1400 T.C.. Ngày nay, phần nhiều các tấm bảng nầy đặt trong Bảo tàng viện Luân-đôn và Le Caire; nó rộng từ 5 đến 7 phân rưỡi, dài từ 7 phân rưỡi đến 22 phân rưỡi, và ghi chữ cả hai mặt. Nó ghi chép công văn của nhiều vua xứ Pa-lét-tin và xứ Sy-ri gởi cho hai Pha-ra-ôn nầy và viết bằng chữ tiết hình Ba-by-lôn. Nếu hợp cả lại, thì nội dung gần bằng hai quyển sách Sáng thế ký và Xuất Ê-díp-tô ký. Cũng như bảng đá của Hammurabi, đây là một sự phát giác quan trọng hơn hết của nền khảo cổ trong những năm gần đây.
***
Những Cuộc Phát Giác Của Khảo Cổ Học 7
Viết Chữ 6
Tại xứ Pa-lét-tin (Do-thái) và các miền tiếp cận
Người ta đã tìm thấy rất nhiều bi văn tiết hình ở xứ Ba-by-lôn thượng cổ và rất nhiều bi văn tượng hình ở nước Ai-cập thượng cổ; nhưng tại xứ Pa-lét-tin thượng cổ, thì tương đối ít. Đó là một trong những căn bản của thuyết phê bình rằng nhiều sách Cựu Ước được trứ tác lâu lắm sau khi xảy ra những biến cố mô tả trong đó, và như vậy, chỉ thể hiện khẩu truyền. Có thể có nhiều lý do khiến các vua Hê-bơ-rơ không lo cất đài rộng lớn có bi văn để vĩnh truyền vinh quang của mình, y như các vua khác đã làm. Nhưng trong những năm gần đây, đã tìm thấy nhiều bằng chứng rằng người Hê-bơ-rơ cũng là một dân tộc "biết viết chữ."
Si-chem.--Tại đây, Sellin tìm thấy những bảng tiết hình của người Ca-na-an từ trước thời dân Y-sơ-ra-ên; đó là những văn kiện của tư nhân, tỏ ra thường dân cũng biết viết chữ và dùng chữ.
Chữ cái cổ nhứt.--Năm 1905, trong một miễu thờ của dân Sê-mít, tại Serabit, gần những mỏ lam-ngọc (turquoise) thuộc vùng Si-na-i, Huân tước Flinders Petrie đã tìm thấy cùng với những bi văn tượng hình Ai-cập, một bi văn bằng chữ cái, là thứ chữ cái cổ nhứt mà ta được biết, viết khoảng năm 1600 T.C.. Bi văn nầy ở xứ Môi-se đã sống 40 năm, và đã viết 400 năm trước thời Môi-se.
Ghê-xe.--Năm 1929, Garstang tìm thấy tại đây quai xách một cái hũ thuộc thời kỳ 2000-1600 năm T.C., có khắc chữ cái Sinaitique, tỏ ra rằng tại xứ Pa-lét-tin đã dùng vẫn chữ cái Sinaitique từ thời ấy.
Bết-Sê-mết.--Năm 1930, tại đây, Giáo sư Elihu Grant, thuộc phái đoàn khảo cổ của Đại học đường Haverford, đã tìm thấy một mảnh hũ bằng đất sét khoảng năm 1800 T.C.,dùng làm bản giác thư, có 5 dòng chữ cái Sémitique ghi bằng mực, giống chữ viết Sinaitique.
La-ki.--Năm 1934, tại đây, J. L. Starkey, thuộc phái đoàn khảo cổ Wellcome, đã tìm thấy một cái bình đựng nước có khắc chữ cái Sinaitique, từ khoảng năm 1500 T.C.La-ki là một trong những đô thị mà Giô-suê hủy diệt khi "mặt trời dừng lại" (Gios 10:13). Đây là một quyển sách viết trên đồ gốm của đô thị nầy trước khi Giô-suê hủy diệt nó.
Ras Shamra (Ugarit).-- Ở phía bắc Si-đôn, gần An-ti-ốt, một đô thị Phê-ni-xi, một hải cảng nối liền sông Ơ-phơ-rát với Địa-trung-hải; tại đây các nền văn minh gặp gỡ và hòa lẫn với nhau. Năm 1929, một phái đoàn Pháp tìm thấy một thơ viện của miễu thờ, một trường dạy ký lục, một thứ trường thần học, cùng vô số tấm bảng, tự điển và tác phẩm tham chiếu, bằng 8 thứ tiếng: Ba-by-lôn, Hê-bơ-rơ, Ai-cập,Hê-tít, Sumérien thời cổ, mấy thứ tiếng không biết, chữ Sinaitique và một loại vần 27 chữ cái có sớm hơn bất cứ loại vần chữ cái nào mà ta đã biết từ trước; nhiều thứ tiếng trong số nầy khởi có từ 1500 năm T.C..
Boghaz Keni,ở Tiểu Á-tế-á, một trung tâm của dân Hê-tít thời cổ. Tại đây, tìm thấy một thơ viện gồm những tấm bảng chữ tiết hình và chữ khác, phân loại và sắp trong lỗ hở tròn như cửa chuồng chim bò câu, bằng tiếng Sumérien, A-cát (Sa 10:10), Hê-tít,Mê-đi và nhiều thứ tiếng khác. Có một ít tấm ghi hai thứ chữ; chữ tiết hình và chữ Hê-tít.
Như vậy,chắc chắn sự viết chữ là thông thường ở xứ Pa-lét-tin, miền Si-na-i, xứ Sy-ri và xứ Phê-ni-xi từ mấy thế kỷ trước thời Môi-se. Tấn sĩ W. E. Albright, một người thông thạo bậc nhứt về môn khảo cổ xứ Pa-lét-tin, nói: "Ngày nay,chỉ người rất dốt nát mới có thể nêu lên rằng dân xứ Pa-lét-tin và các miền tiếp cận không biết viết chữ dưới nhiều hình thức suốt từ thế kỷ thu7 20 tới thế kỷ thứ 10 T.C." (Tập san số 60 của Mỹ quốc Đông phương Khảo cứu Học đường, tháng 12, năm 1935).
Thế thì không có lý do nào mà những biến cố trong mấy quyển đầu Kinh Thánh lại chẳng do kẻ đương thời biên chép.
Vậy, tại saonhững bản biên chép ấy lại mất, trong khi số rất nhiều bản biên chép của Ai-cập và Ba-by-lôn lại còn nguyên vẹn? Vì vật liệu dùng để viết, là da thuộc và chỉ thảo, có tánh chất dễ tiêu mòn, hư hỏng. Ngay ở Ai-cập, cả những bản ghi chép trên chỉ thảo và da thuộc cũng tiêu mòn, hư hỏng, ngoại trừ một số rất ít. Dầu nguyên bổn Ngũ-kinh được chép trên những tấm bảng chữ tiết hình, theo như một số người đã nêu lên, nhưng nguyên bổn ấy chẳng bao lâu đã được dịch ra tiếng Hê-bơ-rơ và chép trên da thuộc. Mười Điều răn, là yếu tố của luật pháp, đã được khắc trên bảng đá; nhưng phần còn lại đã chép "trong sách" (Xu 17:14). Như vậy, người Hê-bơ-rơ đã sớm quen dùng da thuộc và chỉ thảo, và hễ bản cũ hư mòn, thì phải sao lại bản mới.
***
Những Cuộc Phát Giác Của Khảo Cổ Học 8
Viết Chữ 7
Ai là tác giả của Ngũ Kinh?
Quan điểm truyền thống là Môi-se đã trứ tác toàn bộ Ngũ Kinh như ta hiện có, chỉ trừ ra một ít câu ở phần cuối tường thuật lúc ông qua đời, và thỉnh thoảng xen vào một vài lời của thơ ký để giải thích rõ hơn; cũng theo quan điểm cố hữu, Ngũ Kinh thật phù hợp với lịch sử.
Quan điểm của nhà phê bình kim thời là: Ngũ Kinh là một tác phẩm hỗn hợp do nhiều phái tăng lữ khác nhau biên trứ vào khoảng thế kỷ thứ 8 T.C., cốt để làm lợi cho phái mình. Tác phẩm nầy căn cứ trên khẩu truyền, và những người biên tập chính yếu được gọi là "J," "E" và "P." Dầu các nhà phê bình có ý kiến rất khác nhau về sự phải gán phần nào cho người biên tập nào, nhưng thuyết nầy được nêu lên dưới sự quả quyết phổ thông rằng nó là "kết quả vững chắc của nền cổ học ngày nay." Theo quan điểm nầy, thì Ngũ Kinh chẳng phải thật là lịch sử, nhưng chỉ là "tấm mền làm bằng nhiều mảnh nhỏ, lấy ở bao giẻ rách thần thoại rải rác đó đây."
Khảo cổ học nói chi? Cách đây ít lâu, khảo cổ học đã "nói lớn tiếng"(1) đến nỗi gây nên một phản ứng quyết liệt quay về với quan điểm bảo thủ. Thuyết bàn rằng đương thời Môi-se người ta không biết viết, đã bị đánh đổ hoàn toàn. Hằng năm tai Ai-cập, Pa-lét-tin và xứ Mê-sô-bô-ta-mi, người ta đào bới được những bằng cớ,vừa trên bi văn, vừa trong các từng đất, tỏ ra rằng các truyện Cựu Ước thật là biến cố lịch sử. Và "nền cổ học" nhứt định phải bắt đầu thêm tôn trong cái truyền thuyết rằng Môi-se là tác giả của Ngũ Kinh.
Điều nầy là chắc chắn: Môi-se có thể đã biên chép Ngũ Kinh. Ông đã được giáo dục trong cung điện Pha-ra-ôn, "được học cả sự khôn ngoan của người Ê-díp-tô" (Cong 7:22), trong đó gồm cả nghề văn. Chắc ông biết lịch sử thế giới thời trước hơn bất cứ người nào ngày nay được biết. Ông vừa lãnh đạo, vừa tổ chức một phong trào mà ông tin là quan trọng vô biên cho mọi thế hệ tương lai. Ông há có thể Ngu Dại đến nỗi ký thác biên niên sử và các nguyên tắc của phong trào mình cho Khẩu Truyền mà thôi, sao? Môi-se thật đã dùng chữ viết (Xu 17:14; Xu 24:4; Xu 34:27 Dan 17:2; Phu 33:2; Phu 6:9; Phu 24:1,31; Phu 27:3,4; Phu 31:19,24). Về sách Sáng thế ký, dường như ông đã dùng sử liệu do những thế hệ trước truyền lại. Về Xuất Ê-díp-tô ký,Lê-vi ký, Dân số ký và Phục truyền luật lệ ký, thì những sách nầy đều liên quan đến sự nghiệp của đời ông, và chắc đã được chép dưới quyền điều khiển của chính mình ông.
Ngũ Kinh được chép bằng thứ chữ nào? Có lẽ bằng cổ ngữ Hê-bơ-rơ mà người Y-sơ-ra-ên dùng đương thời Môi-se, và chép trên cuộn da thuộc hoặc chỉ thảo.Hoặc có lẽ chép bằng thứ chữ tiết hình của xứ Pa-lét-tin và xứ Sy-ri (mà ở Ai-cập người ta cũng biết), trên những tấm bảng đất sét, rồi sau dịch ra tiếng Hê-bơ-rơ. "Nhiều phần có văn thể rời từng đoạn và hay lặp lại; đó chính là điều ta chắc phải có nơi các bản dịch từ các tấm bảng, vì mỗi tấm bảng là một quyển sách riêng biệt."
Các bản nguyên văn ra sao? Nếu chép trên da thuộc hoặc chỉ thảo, thì khi đem dùng, nó phải hư mòn đi, và được thay thế bằng những bản sao mới. Còn nếu chép trên tấm bảng đất sét, thì có lẽ một vài vua Y-sơ-ra-ên thờ lạy hình tượng đã tiêu hủy nó rồi.
Từ đây trở đi, những sự phát giác của khảo cổ học sẽ được ghi chú cùng với những đoạn Kinh Thánh mà sự phát giác ấy có ảnh hưởng tới. Trong cuốn sách nầy có ghi chép hơn 100 sự phát giác của khảo cổ học.
Nhiều sự phát giác của khảo cổ học nầy là kết quả do những người đào bới di tích các đô thị ghi trong Ki