Hội Thánh được thành lập và lan tràn

Tin Lành được rao truyền đến các dân ngoại

Đời sống và sự nghiệp của Phao-lô

Sách nầy mô tả Tin Lành từ thành Giê-ru-sa-lem lan tràn tới thành La-mã. Tin Lành tràn ra tứ phía, và đương thời Phao-lô, đã tới mọi phần của thế giới người ta được biết (Co 1:23).

Tuy nhiên, Tân Ước chỉ nói đến sự lan tràn của Tin Lành khắp xứ Pa-lét-tin, phía Bắc tới An-ti-ốt, phí Tây tới La-mã,qua Tiểu-Á-tế-á và Hi-lạp, tức là gồm các miền hợp thành "xương sống của đế quốc La-mã."

Sách nầy nhan đề là: "Công vụ các sứ đồ," nhưng phần lớn là công vụ của Phi-e-rơ và Phao-lô, nhứt là Phao-lô. Phao-lô là Sứ đồ của các dân ngoại, tức là các dân tộc trừ ra người Do-thái. Đối với toàn thể các sách Kinh Thánh, thì đề mục chánh yếu của sách Công vụ các sứ đồ là sự rao truyền Tin Lành cho các dân ngoại.

Cựu Ước chép truyện tích Đức Chúa Trời thành lập và trưởng dưỡng dân tộc Hê-bơ- rơ, ngõ hầu nhờ họ mà ban phước cho MỌI dân tộc. Trong sách Công vụ các sứ đồ nầy có chép về khởi điểm của công việc lớn lao và lạ lùng ở giữa các dân tộc. Đấng Mê-si của người Do-thái mà các Đấng tiên tri dự ngôn từ lâu, rốt lại, đã ngụ đến. Và trong sách nầy, Nhà của Đức Chúa Trời không còn là một tổ chức quốc gia, nhưng trở nên một cơ quan quốc tế.

 

Tác giả

Tác giả không xưng danh. Trong câu đầu có dùng nhân xưng đại danh từ "Ta" tỏ ra rằng những người đầu tiên nhận sách chắc biết tác giả là ai. Ngay từ lúc đầu, sách nầy là sách Tin Lành thứ ba đã được nhìn nhận là tác phẩm của Lu-ca.

 

Niên hiệu

Sách chấm dứt khi Phao-lô ở La-mã được "trọn hai năm" (Cong 28:30). Người ta thường nhìn nhận điều nầy tỏ ra rằng sách Công vụ các sứ đồ đã được chép vào khoảng đó, chừng năm 63 S.C., vì sau khi để rất nhiều chỗ tường thuật việc Phao-lô bị cầm tù (đoạn 21-28), nếu sách nầy được viết ra lâu lắm về sau, thì ta dường như không thể tin rằng tác giả lại bỏ qua không ghi chép kết quả việc xét xử Phao-lô.

 

Lu-ca

Ta ít biết về Lu-ca. Ở  Co 4:11,14, ông dường như được liệt vào hàng dân ngoại. Nếu vậy, thì theo chỗ chúng ta biết,ông là người dân ngoại duy nhứt dự phần trứ tác Kinh Thánh.

Eusèbenói rằng Lu-ca quê hương ở An-ti-ốt. Ramsey, một người có danh tiếng nhứt trong những học giả kim thời chuyên về văn phẩm của Phao-lô, cho rằng ông là dân thành Phi-líp .

Ông được nhìn nhận là một người có văn hóa, giỏi khoa học, thông thạo tiếng Hê-bơ-rơ, và tiếng Hi-lạp cổ điển. Còn về nghề nghiệp, thì ông là thầy thuốc.

Ông nhập đoàn với Phao-lô lần đầu tiên tại Trô-ách, năm 50 S.C..

 

Niên biểu của sách Công vụ các sứ đồ

Người ta biết rằng Hê-rốt chết năm 44 S.C. (Cong 12:23). Có chép Phao-lô tới Giê-ru-sa-lem vào khoảng Hê-rốt giết Gia-cơ (Cong 11:30-12:2) còn Phao-lô đi khỏi Giê-ru-sa-lem ngay sau khi Hê-rốt chết (Cong 12:23,25).Như vậy, dường như đây là cuộc viếng thăm có nói đến ở  Ga 2:1, tức là "14 năm" sau khi Phao-lô trở lại tin Chúa. Nếu như vậy và nếu xét rằng tục lệ Hê-bơ-rơ kể những phần một năm lúc đầu và lúc cuối một thời kỳ là những năm trọn,thì "14 năm" thật ra có thể chỉ là 13 năm, hoặc ít hơn nữa. Thế thì Phao-lô đã trở lại tin Chúa khoảng năm 31 hoặc 32 S.C..

Lấy năm 30 S.C. làm khởi điểm và lấy năm 60 S.C. làm niên hiệu ta biết Phê-tu được bổ chức tổng đốc tại Sê-sa-rê (Cong 24:27), thì những niên hiệu sau đây có thể coi như gần đúng: --

 

hành lập Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem, đoạn 2

30 S.C.

Ê-tiên bị ném đá, Hội Thánh bị tan lạc, đoạn 7, 8

31 hoặc 32 S.C.

Sau-lơ trở lại tin Chúa, đoạn 9

31 hoặc 32 S.C.

Phao-lô viếng thăm thành Giê-ru-sa-lem lần đầu tiên sau khi trở lại tin Chúa

34 hoặc 35 S.C.

Cọt-nây, người dân ngoại trở lại tin Chúa

Giữa 35 và 40 S.C.

Người dân ngoại được tiếp nhận tại An-ti-ốt, đoạn 11

Khoảng 42 S.C.

Phao-lô viếng thăm thành Giê-ru-sa-lem lần thứ hai (11:27-30)

44 S.C.

Hành trình truyền giáo thứ nhứt của Phao-lô, tại xứ Ga-la-ti, đoạn 13, 14

45-48 S.C.

Giáo hội nghị tại Giê-ru-sa-lem, đoạn 15

Khoảng 50 S.C.

Hành trình truyền giáo thứ hai của Phao-lô, tại Hi-lạp, đoạn 16, 17, 18

50-53 S.C.

Hành trình truyền giáo thứ ba của Phao-lô, tại thành Ê-phê-sô, đoạn 19, 20

54-57 S.C.

Phao-lô tới thành Ê-phê-sô, đoạn 19

54 S.C.

Phao-lô dời khỏi thành Ê-phê-sô nhằm tháng sáu dương lịch (I Cô-rinh-tô 16:18)

57 S.C.

Phao-lô ở xứ Ma-xê-đoan, mùa hạ và mùa thu (I Cô-rinh-tô 16:5-8)

57 S.C.

Phao-lô ở thành Cô-rinh-tô 3 tháng, vào mùa đông, (Công vụ các sứ đồ 20:2-3)

57-58 S.C.

Phao-lô dời khỏi thành Phi-líp, nhằm tháng 4 dương lịch, (Công vụ các sứ đồ 20:6)

58 S.C.

Phao-lô tới thành Giê-ru-sa-lem nhằm tháng 6 dương lịch (Công vụ các sứ đồ 20:16)

58 S.C.

Phao-lô tại thành Sê-sa-rê, đoạn 24, 25, 26

Mùa hạ 58 S.C. tới mùa thu 60 S.C.

Hành trình của Phao-lô tới kinh thành La-mã

Mùa đông 60-61 S.C.

Phao-lô ở kinh thành La-mã 2 năm

61-63 S.C.

 

Cong 1:1-5

40 ngày

Trong 40 ngày giữa sự sống lại và sự thăng thiên của Đức Chúa Jêsus, Ngài đã hiện ra 10 hoặc 11 lần (có chép trong Kinh Thánh) với các môn đồ, để trừ bỏ đời đời khỏi trí óc họ mối hoài nghi sự tồn tại liên tục của Ngài với tư cách một Đấng Sống. Trong 40 ngày ấy, họ đã được một sự từng trải kỳ diệu biết bao! nào thấy, nào trò chuyện với, nào ăn với, nào chính tay mình rờ tới Đức Chúa Jêsus trong thân thể thật của Ngài đã bị đóng đinh vào Thập tự giá nhưng nay được vinh hiển, những khi Ngài hiện ra và biến đi qua cửa đóng chặt, không từ chỗ nào tới và cũng không trở vào chỗ nào. Mọi sự đó lên tới tuyệt điểm khi Ngài giơ tay ban phước và lần lần cất lên, rồi biến mất trong mây.

"Sách thứ nhứt" (Cong 1:1), tức là sách Tin Lành Lu-ca (Lu 1:3).

"Thê-ô-phi-lơ" (Cong 1:1). Xem ở đầu sách Lu-ca. "Đã làm và dạy từ ban đầu" (Cong 1:1), gồm ý rằng những điều chép trong sách Công vụ các sứ đồ vẫn còn là công việc của Đức Chúa Jêsus.

Cong 1:6-11

Đấng Christ ngự lên trời

Cuộc gặp gỡ các môn đồ lần chót đã diễn ra tại Giê-ru-sa-lem (Cong 1:4) từ đó Ngài dẫn họ tới làng Bê-tha-ni (Lu 24:50).

"Lập lại nước Y-sơ-ra-ên chăng?" (câu 6). Trí óc họ vẫn còn chăm chú vào nền độc lập chánh trị của nước mình. Sau ngày Lễ Ngũ Tuần, họ đã hiểu rõ hơn.

"Cho đến cùng trái đất" (câu 8). Đó là lời sau chót của Đức Chúa Jêsus trước khi Ngài biến mất sau đám mây.Họ không quên lời đó. Theo truyền thoại, thì hầu hết trong vòng họ đã tuận đạo ở những xứ xa xôi.

"Cũng sẽ trở lại như cách các ngươi đã thấy Ngài lên trời vậy." Từ đỉnh đồi làng Bê-tha-ni. Ngài đã cất lên và biến sau từng mây. Và Ngài trở lại giữa đám mây, cho cả thế gian xem thấy (Mat 24:27,30  Kh 1:7).

Cong 1:12-14

Phòng cao

Đây có lẽ là chính phòng mà Đức Chúa Jêsus đã thiết lập Tiệc Thánh (Lu 22:12), và có lẽ cũng là phòng mà Đức Chúa Jêsus đã hai lần hiện ra với các môn đồ (Gi 20:19,26) lại cũng có thể là phòng mà Đức Thánh Linh đã giáng trên họ (Cong 2:1). Phòng nầy rộng đủ chứa 120 người (Cong 1:15).

"Ma-ri, là mẹ Đức Chúa Jêsus"(Cong 1:14). Đây là chỗ Tân Ước nói đến bà lần chót. Dầu bà được quí chuộng và tôn trọng vì là mẹ của Cứu Chúa, nhưng các Sứ đồ cũng không hề tỏ dấu chút nào rằng họ cảm thấy mình cần được bà làm trung bảo giữa mình và Đấng Christ, y như rất nhiều người về sau đã cảm thấy. Trong thời đại thông sáng nầy, nếu người ta cứ tiếp tục thần hóa bà Ma-ri càng ngày càng hơn, há chẳng kỳ lạ sao? Không phải là Kinh Thánh Tân Ước đã tôn bà Ma-ri lên địa vị Đức Chúa Trời.

Cong 1:15-26

Lựa chọn người kế chức Giu-đa

Sau khi phản nộp Đức Chúa Jêsus, Giu-đa đã tự treo mình (Mat 27:5), rồi thân thể nó rớt xuống và bể ra (Cong 1:18). Bấy giờ số tiền nó trả lại các thầy tế lễ bèn được dùng để mua khu ruộng thợ gốm (Mat 27:7). Cho tới ngày nay, người ta còn gọi khu ấy là: "Hác-en-đa-ma,"nghĩa là: "Ruộng Huyết."

Ma-thia được chọn thay thế Giu-đa để cho đủ số 12 Sứ đồ. Ta không biết thêm chút gì về Ma-thia. Chắc con số 12 có ý nghĩa tượng trưng mà chúng ta không biết hết được. Nền thành Giê-ru-sa-lem mới sẽ mang tên của 12 Sứ đồ.

Cong 2:1-13

Lễ Ngũ Tuần

Năm 30 S.C.. Sanh nhật của Hội Thánh.Ngày thứ 50 sau khi Đức Chúa Jêsus sống lại. Ngày thứ 10 sau khi Ngài ngự lên trời. Kỷ nguyên Tin Lành bắt đầu. Lễ Ngũ Tuần đặc biệt nầy nhằm Chúa nhật.

Lễ Ngũ Tuần cũng gọi là Lễ Trái Đầu Mùa và Lễ Mùa Gặt. Ngày lễ ấy được chọn làm ngày hái trái đầu tiên của mùa gặt Tin Lành khắp thế giới, thật là thích hợp biết bao!

Ở sách  Gi 16:7-14, Đức Chúa Jêsus đã phán về kỷ nguyên Đức Thánh Linh ngự đến. Bây giờ, sự ngự đến nầy được thực hiện bởi sự phát tỏ mạnh mẽ và lạ lùng của Đức Thánh Linh, có tiếng như gió ào ào và lưỡi bằng lửa rời rạc rơi xuống đậu trên các môn đồ. Đó là công khai tuyên bố sự sống lại của Đức Chúa Jêsus cho thế giới biết, cho người Do-thái và người dân ngoại theo đạo Do-thái đang từ mọi phương thế giới (được biết thời đó) tụ họp tại Giê-ru-sa-lem để dự Lễ Ngũ Tuần. Có ghi tên 15 xứ (Cong 2:9-11), và các Sứ đồ người Ga-li-lê dùng tiếng của các xứ ấy mà giảng cho họ.

Cong 2:14-26

Bài giảng của Phi-e-rơ

Các Sứ đồ có lưỡi bằng lửa đậu trên mình, đã giảng bằng tiếng của mọi xứ có người đại diện tại đó; Phi-e-rơ giải thích (câu 15-21) rằng ấy là để ứng nghiệm lời tiên tri ở  Gio 2:28-32.

 

053

Bản đồ số 53

Các xứ có đại diện trong ngày Lễ Ngũ Tuần

Việc xảy ra ngày đó có lẽ không phải là đã làm ứng nghiệm hoàn toàn, nhưng chỉ là khởi điểm một kỷ nguyên trọng đại,đáng chú ý; tuy giới thiệu kỷ nguyên đó như vậy, nhưng một vài lời tiên tri còn có thể liên quan đến kỳ sau rốt.

 

Ứng nghiệm lời tiên tri

Hãy chú ý lời tuyên bố lập lại nhiều lần rằng những việc xảy ra đã được dự ngôn: Giu-đa phản bội (Cong 1:16,20) Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh vào Thập tự giá (Cong 3:18) Ngài sống lại (Cong 2:25-28) Ngài ngự lên trời (Cong 2:33-35) và Đức Thánh Linh giáng lâm (Cong 2:17). "Hết thảy các tiên tri đã phán" (Cong 3:18,24).

 

Sự sống lại của Đức Chúa Jêsus

Cũng hãy chú ý suốt cả sách nầy luôn luôn nhấn mạnh vào sự sống lại của Ngài. Đó là điểm then chốt của bài Phi-e-rơ giảng trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Cong 2:24,31,32), và trong bài giảng thứ hai của ông (Cong 3:15),cùng khi ông tự binh vực trước tòa Công luận (Cong 4:2,10). Đó là đề mục chánh yếu trong sự giảng dạy của các Sứ đồ (Cong 4:33). Khi Phi-e-rơ bị tố cáo lần thứ hai,ông đã binh vực sự sống lại của Đức Chúa Jêsus (Cong 5:30;). Sau-lơ đã trở lại tin Chúa vì được thấy Đấng Christ sống lại (Cong 9:3-6). Phi-e-rơ giảng đề mục ấy cho nhà Cọt-nây (Cong 10:40). Phao-lô giảng đề mục ấy tại An-ti-ốt (Cong 13:30-37),Tê-sa-lô-ni-ca (Cong 17:3), A-thên (Cong 17:18,31), Giê-ru-sa-lem (Cong 22:6-11). Cho Phê-lít (Cong 24:15,21),cho Phê-tu và Ạc-ríp-ba (Cong 26:8,23).

Cong 2:37-47

Hội Thánh sơ sanh

Ngày thứ nhứt có 3000 người trở lại tin Chúa (Cong 2:41). Đó lời chứng hiển nhiên về sự sống lại của Đức Chúa Jêsus. Họ đã chịu lễ báp-têm (Cong 2:38).

"Lấy mọi vật làm của chung" (Cong 2:44-45).Cuộc sanh hoạt công đồng của Hội Thánh đây đã kèm theo sự đem đạo Đấng Christ vào trong thế giới một cách lạ lùng. Chúng tôi nghĩ rằng cuộc sanh hoạt nầy cốt để làm tỉ dụ phi thường về điều Thánh Linh Đấng Christ có thể làm cho loài người,chớ không cốt để làm khuôn mẫu bình thường vĩnh viễn, cũng như các phép lạ hằng ngày của các Sứ đồ không tái diễn vĩnh viễn. Cuộc sanh hoạt nầy chỉ là tình nguyện, tạm thời và hạn chế. Chỉ những ai tự thấy rất muốn, thì mới dâng cho.Không chép sự thực hành như vậy tại các chi hội khác trong Tân Ước. Phi-líp, một trong bảy thầy phó tế (chấp sự) "giúp việc bàn tiệc" lúc nầy, về sau lại ở nhà riêng tại Sê-sa-rê (Cong 21:8).

Tại Giê-ru-sa-lem có rất nhiều người nghèo. Lâu năm về sau, tại nhiều đô thị khác, Phao-lô đã thâu những số tiền lớn quyên giúp Mẫu Hội (Cong 11:29  Cong 24:17).

 

Các phép lạ (Cong 2:43)

Các phép lạ là một phần rất hiển nhiên của sách Công vụ các sứ đồ. Sách bắt đầu bằng những sự hiện ra rõ rệt của Đức Chúa Jêsus với các môn đồ sau khi Ngài đã chết (Cong 1:3). Rồi trước mắt họ, Ngài ngự lên trời, khuất trong đám mây (Cong 1:9).

Rồi nhằm Lễ Ngũ Tuần, có sự phát hiện lạ lùng, rõ ràng của Đức Thánh Linh "như lưỡi bằng lửa" (Cong 2:3). Rồi các Sứ đồ làm "nhiều sự kỳ phép lạ" (Cong 2:43).

Sự chữa lành người què ở cổng Đền thờ (Cong 3:7-11)đã có ảnh hưởng sâu xa đến cả thành (Cong 4:16,17).

Đức Chúa Trời làm động đất để đáp lại lời cầu nguyện của họ (Cong 4:31). A-na-nia và Sa-phi-ra chết vì bị Chúa đánh một cách lạ lùng (Cong 5:5-10).

Các Sứ đồ tiếp tục làm những sự kỳ phép lạ. Rất đông người từ các thành lân cận kéo đến và được chữa lành bởi bóng của Phi-e-rơ (Cong 5:15,16). Thật giống như đương thời của Đức Chúa Jêsus ở xứ Ga-li-lê.

Cửa khám tù đã được thiên sứ mở ra (Cong 5:19).Ê-tiên "làm dấu kỳ phép lạ rất lớn" (Cong 6:8). Phi-líp làm "dấu kỳ phép lạ" lớn lao ở xứ Sa-ma-ri (Cong 8:6,7,13), nhơn đó, rất đông người tin Chúa.

Sau-lơ trở lại tin Chúa vì nghe một Tiếng phán trực tiếp từ Thiên đàng (Cong 9:3-9). Theo lời của A-na-nia, "vảy" rớt khỏi mắt Sau-lơ (Cong 9:17,18).

Tại thành Ly-đa. Phi-e-rơ chữa lành Ê-nê, và cả miền ấy trở lại tin theo Đấng Christ (Cong 9:32-35). Tại Giốp-bê,Phi-e-rơ kêu Đô-ca sống lại từ trong kẻ chết, nên có nhiều người tin Chúa (Cong 9:40-42).Cọt-nây trở lại tin Chúa vì cớ thiên sứ hiện ra, sau đó có "nói tiếng ngoại quốc" (Cong 10:3,46). Có tiếng Đức Chúa Trời phán bảo Phi-e-rơ hãy đi đến với Cọt-nây (Cong 10:9-22), do đó thuyết phục người Do-thái rằng Phi-e-rơ làm phải lẽ (Cong 11:15,18).Một cổng khám tù "tự mở ra" (Cong 12:10). Tên thuật sĩ bị đui mù đã khiến quan trấn thủ đảo Chíp-rơ tin Chúa (Cong 13:11,12). Phao-lô "làm những phép lạ dấu kỳ" tại thành Y-cô-ni, và có rất đông người tin Chúa (Cong 14:3,4). Tại thành Lít-trơ, sự chữa lành người què khiến dân chúng tưởng Phao-lô là một vị thần (Cong 14:8-18).

Tại Giê-ru-sa-lem, sự tường thuật các dấu kỳ phép lạ làm bởi Phao-lô và Ba-na-ba đã thuyết phục tín đồ Do-thái rằng công việc của Phao-lô giữa vòng dân ngoại là do Đức Chúa Trời mà ra (Cong 15:12-19).

Tại thành Phi-líp, Phao-lô chữa lành một thiếu nữ làm nghề bói, và một cơn động đất khiến viên quản đốc lao xá trở lại tin Chúa (Cong 16:16-34). Tại Ê-phê-sô, có 12 người nói tiếng ngoại quốc (Eph 19:6),và những phép lạ đặc biệt làm bởi Phao-lô (Cong 19:11,12) đã khiến cho Lời Chúa được ưu thế hùng mạnh (Cong 19:20). Tại Trô-ách, Phao-lô kêu một thanh niên sống lại (Cong 20:8-12). Tại đảo Man-tơ, bàn tay Phao-lô được lành khi bị rắn lục cắn (Cong 28:3-6)đã khiến thổ dân tưởng ông là một vị thần; và ông đã chữa lành hết các bịnh nhân trên đảo (Cong 28:8,9).

Nếu lấy các phép lạ khỏi sách Công vụ các sứ đồ, thì chẳng còn lại bao nhiêu. Dầu nhà phê bình toan làm giảm giá trị hiển nhiên của các phép lạ chừng nào, nhưng vẫn còn cái thực sự rằng Đức Chúa Trời đã đại dụng các phép lạ để cho đạo Đấng Christ khởi phát trên thế giới nầy.

Cong 3:1-26

Bài giảng thứ hai của Phi-e-rơ

Nghĩa là bài giảng thứ hai của ông có chép trong Kinh Thánh. Nhằm ngày Lễ Ngũ Tuần, các lưỡi lửa và tiếng gió ào ào đã khiến dân chúng kinh ngạc kéo đến. Do đó, Phi-e-rơ công khai tuyên bố Tin Lành lần đầu tiên trước một số thính giả rất đông đúc. Dường như mấy ngày đã trôi qua (Cong 2:46,47). Những đoàn người dự Lễ Ngũ Tuần đã trở về nhà. Thành Giê-ru-sa-lem lại yên tĩnh. Các Sứ đồ mãi dạy dỗ tín đồ và làm "nhiều sự kỳ phép lạ."Bây giờ một phép lạ lớn lao chữa lành người què xảy ra ở ngay cổng Đền thờ, là nơi toàn dân thành phố quen thấy, đã làm cho họ náo động trở lại. Trước mặt đoàn người kinh ngạc, Phi-e-rơ gán sự chữa lành ấy cho quyền phép của Đấng Christ phục sanh, rồi ông lại thuật truyện tích Tin Lành yêu quí. Do đó,"số tín đồ lên đến độ 5000" (Cong 4:4).

Cong 4:1-31

Phi-e-rơ và Giăng bị cầm tù

Những kẻ cầm quyền đã đóng đinh Đức Chúa Jêsus vào Thập tự giá, bây giờ kinh hoảng vì truyện Ngài từ kẻ chết sống lại đồn rộng ra, và vì Danh Ngài càng ngày càng được hoan nghinh. Chúng bèn bắt Phi-e-rơ và Giăng, truyền cho hai ông không được nhơn Danh Đức Chúa Jêsus mà giảng nữa. Hãy chú ý sự dạn dĩ của Phi-e-rơ (Cong 4:9-12,19,20). Đây chính là Phi-e-rơ mấy tuần trước, ở chính chỗ nầy, trước mặt chính những người nầy, đã nhát sợ khi một thiếu nữ chế giễu và đã chối Chúa. Bây giờ ông hoàn toàn dạn dĩ và bất chấp những kẻ đã giết Chúa của ông.

Sau khi ở trong khám tù một đêm (Cong 4:5,21),Phi-e-rơ và Giăng được chúng thả ra. Và Đức Chúa Trời đã làm một cơn động đất để tỏ ý tán thành sự dạn dĩ của hai ông (Cong 4:29,31).

Cong 4:32-35

Hội Thánh cứ lớn lên

Sự hăm dọa của kẻ cầm quyền không có ảnh hưởng bao nhiêu trên Hội Thánh. Hội Thánh cứ tiến lên trong tinh thần huynh đệ,và cứ lớn lên rất mau lẹ. Ngày thứ nhứt có 3000 người (Cong 2:41), rồi lên tới 5000 người (Cong 4:4), rồi "nam, nữ đều đông lắm" (Cong 5:14), rồi "thêm lên nhiều lắm," kể cả một số đông thầy tế lễ (Cong 6:7). Chính các thầy tế lễ đã biết ẩn tình trong lời đồn dối trá về mộ phần của Chúa (Mat 28:11-15).

Cong 4:36-37

Ba-na-ba

Ông là người Lê-vi, ở đảo Chíp-rơ, và là anh em chú bác với Giăng, tức Mác (Co 4:10); nhà mẹ của Mác là nơi các tín đồ nhóm họp (Cong 12:12). Ông là người có dáng vẻ oai nghi (Cong 14:12), tánh tình hiền đức, và đầy dẫy Đức Thánh Linh (Cong 11:24). Ông thuyết phục anh em tín đồ ở Giê-ru-sa-lem tiếp nhận Phao-lô (Cong 9:27). Ông được cử đi tiếp nhận tín đồ dân ngoại tại An-ti-ốt (Cong 11:19-24). Ông đưa Phao-lô từ Tạt-sơ đến An-ti-ốt (Cong 11:25,26). Ông cùng đi với Phao-lô trong hành trình truyền giáo thứ nhứt.

Cong 5:1-11

A-na-nia và Sa-phi-ra

Họ nói dối rằng mình đã dâng hết, kỳ thực họ chỉ dâng một phần. Họ chết do hành động của Đức Chúa Trời, chớ không phải của Phi-e-rơ, rõ ràng cốt để treo gương cho mọi thời đại biết Đức Chúa Trời bất mãn đối với tội tham lam và đạo đức giả. Đức Chúa Trời chẳng đánh chết chúng ta mỗi khi ta phạm tội ấy. Nếu Ngài làm như vậy, thì có người ngã chết trong Hội Thánh luôn. Nhưng việc nầy xảy ra đây chứng tỏ thái độ của Đức Chúa Trời đối với tấm lòng lầm lỗi. Ngay lúc khởi đầu của Hội Thánh, đó là một lời cảnh cáo nghịch cùng sự sử dụng và lạm dụng Hội Thánh làm phương tự tôn vinh. Việc xảy ra đây nêu gương kỷ luật và có ảnh hưởng tốt lành đến Hội Thánh ngay (Cong 5:11).

Cong 5:12-42

Các Sứ đồ bị cầm tù lần thứ hai

Khi Phi-e-rơ và Giăng bị cầm tù lần thứ nhứt vì đã chữa lành người què, thì chúng cảnh cáo hai ông không được nhơn Danh Đức Chúa Jêsus mà giảng nữa (Cong 4:17-21). Nhưng hai ông cứ rao truyền sự sống lại của Ngài. Đức Chúa Trời cứ làm những phép lạ lớn lao bởi tay họ (Cong 5:12,16), và số tín đồ cứ thêm lên rất nhiều (Cong 5:14).

Những kẻ cầm quyền điên cuồng và kinh khủng trước quyền năng ngày càng lan rộng của Người Na-xa-rét mà chúng đã đóng đinh vào Thập tự giá. Chúng lại bắt các Sứ đồ, và nếu không vì sợ nhân dân và vì ảnh hưởng của Ga-ma-li-ên ngăn cản, thì chúng đã ném đá các Sứ đồ cho chết ngay lập tức.

Lại hãy chú ý Phi-e-rơ dạn dĩ bất chấp kẻ cầm quyền (Cong 5:29-32), và dầu bị đánh đòn (câu 40), các Sứ đồ cũng cứ rao truyền Danh Jêsus và vui vẻ chịu đau đớn vì cớ Ngài (câu 41, 42).

Ga-ma-li-ên đã tạm thời cứu mạng các Sứ đồ lúc đó (câu 34-40); ông là giáo sư đạo Do-thái có tiếng tăm nhứt đương thời mình. Chính Phao-lô đã làm môn đệ của ông (Cong 22:3). Có lẽ chàng thanh niên Sau-lơ (Phao-lô) cũng có mặt trong buổi nhóm họp của tòa Công luận nầy; vì chàng đồng ý với họ (Cong 26:10), và sau đó ít lâu, khi tòa công luận ném đá Ê-tiên, thì chàng đã dự phần (Cong 7:58).

Cong 6:1-7

Cử 7 thầy phó tế(chấp sự)

Cho tới lúc nầy, dường như các Sứ đồ cai quản mọi việc trong Hội Thánh (Cong 4:37). Trong vòng vài tháng, hoặc 1, 2 năm,Hội Thánh đã lớn lên quá bội.

Và việc ăn uống của đoàn thể tín đồ đã chiếm quá nhiều thì giờ của các Sứ đồ.

Các Sứ đồ biết tường tận truyện tích quí báu của Đức Chúa Jêsus. Phương pháp duy nhứt để kể truyện tích ấy cho kẻ khác biết là chính miệng nói ra. Từ sáng đến tối, ở nơi công cộng và ở chỗ riêng, các Sứ đồ đã đem hết tâm lực vào một công việc, là cứ thuật lại truyện tích Cứu Chúa vừa tỉ mỉ, vừa tổng quát, cho những đoàn dân đông kéo tới. Vậy, 7 thầy phó tế đã được chỉ định. Sự sắp đặt nầy đã có kết quả tốt đẹp và nhơn đó,số tín đồ tăng lên nhiều lắm (câu 7).

Cong 6:8-15

Ê-tiên

Trong số 7 thầy phó tế, có hai người giảng đạo hữu danh, là Ê-tiên và Phi-líp. Ê-tiên được vinh hạnh chết vì Đấng Christ trước nhứt. Còn Phi-líp đem Tin Lành tới xứ Sa-ma-ri và miền Tây xứ Giu-đê.

Phạm vi hoạt động đặc biệt của Ê-tiên dường như ở giữa vòng người Do-thái sanh trưởng tại Hi-lạp. Lúc đó có chừng 460 nhà hội tại Giê-ru-sa-lem, mà một số do người Do-thái ở nhiều xứ khác nhau đã tự xây cất để sử dụng. Có 5 nhà hội dành cho những người từ Sy-ren,A-léc-xăn-đơ-ri, Si-li-si, Tiểu-Á-tế-á và La-mã tạm trú tại Giê-ru-sa-lem (Cong 6:9)("Bọn được tự do" là những người Do-thái bị bắt qua La-mã cầm tù, rồi sau được phóng thích, hoặc con cháu họ). Thành Tạt-sơ thuộc xứ Si-li-si, nên Sau-lơ có lẽ ở trong chính nhóm nầy. Một số người Do-thái sanh ở ngoại quốc nầy được trưởng dưỡng tại những trung tâm văn hóa Hi-lạp, nên tự cho là cao trọng hơn người Do-thái sanh ở tổ quốc. Nhưng Ê-tiên là địch thủ của họ. Họ không thể lý luận đối chọi với ông, bèn thuê bọn làm chứng dối và kiện ông trước tòa Công luận. Ê-tiên chắc phải là một người tài năng lỗi lạc, và lại có Đức Chúa Trời làm nhiều phép lạ để giúp đỡ ông (Cong 6:8).

Cong 7:1-60

Ê-tiên tuận đạo

Ông đứng trước tòa Công luận đã đóng đinh Đức Chúa Jêsus vào Thập tự giá và vừa mới toan cấm các Sứ đồ nhơn Danh Ngài mà giảng dạy (Cong 4:18). Nếu dám, họ cũng đã giết các Sứ đồ rồi (Cong 5:33). An-ne và Cai-phe cũng lại có mặt ở đó (Cong 4:6).

Bài giảng của Ê-tiên trước tòa Công luận phần lớn là lặp lại truyện tích Cựu Ước, và đến phần chót, ông thấm thía trách họ đã giết Đức Chúa Jêsus (Cong 7:51-53). Đang khi ông nói, thì mặt ông sáng ngời như mặt thiên sứ vậy (Cong 6:15). Họ xông vào ông như một bầy thú dữ. Khi những hòn đá bắt đầu bay vút vào thân thể ông, thì ông nhìn chăm lên trời, thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và thấy Đức Chúa Jêsus đứng bên hữu Đức Chúa Trời, dường như Thiên đàng dang tay ra qua biên giới để đón ông về Nhà vinh hiển. Ông chết y như Đấng Christ đã chết, và không tỏ dấu thù giận những kẻ đáng khinh đã giết mình; ông cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin đừng đổ tội nầy cho họ!" (Cong 7:60).

"Một người trẻ tuổi kia tên là Sau-lơ" (Cong 7:58)

Đây là một trong những CHỖ RẼ CỦA LỊCH SỬ. Chàng thanh niên Sau-lơ dường như đã làm nghị sĩ tòa Công luận (Cong 26:10). Có lẽ ông có mặt tại một hoặc cả hai phiên họp của tòa Công luận, trong đó họ toan cấm các Sứ đồ rao giảng Đấng Christ (Cong 4:1-22  Cong 5:17-40) có lẽ chính ông đã nghe lời Phi-e-rơ từ chối một cách dạn dĩ và bất chấp. Nhưng nầy, suốt cả đời, ông chưa hề thấy một người nào chết giống như Ê-tiên. Dầu cảnh trạng đó có hiệu quả trực tiếp là thúc đẩy Sau-lơ hung hăng bắt bớ tín đồ, nhưng mấy lời Ê-tiên nói lúc qua đời đã thấu vào tâm trí của Sau-lơ, và in sâu trong đó, và lặng lẽ hành động để khiến ông sẵn sàng tiếp nhận. Sự Hiện thấy Vĩ đại trên đường Đa-mách (Cong 26:14).Có lẽ rất ít là một phần nào, sự tuận đạo của Ê-tiên là giá trả để chinh phục linh hồn Sau-lơ. Và linh hồn nầy quí báu biết bao! Sau Đức Chúa Jêsus, ông là bậc vĩ nhân đệ nhất của mọi thời đại! Hơn bất cứ ai, ông là người duy nhất đã lập vững đạo Đấng Christ tại những trung tâm chánh yếu của thế giới mà họ biết thời đó,và thay đổi cả dòng lịch sử.

Cong 8:1-4

Hội Thánh bị tan lạc

Đây là cơn bắt bớ Hội Thánh đầu tiên.Có lẽ Hội Thánh đã được 1 hay 2 tuổi. Có lẽ cơn bắt bớ kéo dài ít tháng. Sau-lơ dẫn đầu cơn bắt bớ. Ông có hai người bà con đã tin theo Đấng Christ rồi (Ro 16:7). Nhưng cơn bắt bớ bắt đầu bằng sự ném đá Ê-tiên, đã trở thành hung hăng,ác liệt. Sau-lơ "thở ra" sự hăm dọa và giết chóc (Cong 9:1), đã làm cho Hội Thánh tan hoang, xông vào mỗi nhà, kéo tín đồ nam, nữ đi bỏ tù (Cong 8:3),đánh đòn tín đồ trong các nhà hội (Cong 22:19-20), xử tử nhiều người (Cong 26:10-11), và tàn phá Hội Thánh quá mức (Ga 1:13).

Kết quả, cơn bắt bớ nầy làm cho Hội Thánh tan lạc. Tại Giê-ru-sa-lem, Hội Thánh đã trở thành một phong trào vĩ đại và mạnh mẽ cứ bành trướng mãi, không sao chống cự được. Mạng lịnh sau chót của Đức Chúa Jêsus cho các môn đồ là phải rao truyền khắp thế giới (Mat 28:19  Cong 1:8). Bây giờ, theo thiên cơ của Đức Chúa Trời, cơn bắt bớ nầy làm cho khởi phát công cuộc truyền giáo của Hội Thánh. Tín đồ đã nghe các Sứ đồ giảng dạy khá lâu, nên có thể biết rõ tất cả truyện tích Đức Chúa Jêsus, cùng sự chết và sự sống lại của Ngài. Bất cứ đi đâu, họ cũng đem theo Tin Lành quí báu. Tuy nhiên, các Sứ đồ được hoan nghinh nhiệt liệt và có quyền phép lớn lao, nên khó mà bắt bớ họ; vậy, họ tạm thời cứ ở lại Giê-ru-sa-lem để phụ trách mọi việc tại trụ sở Hội Thánh.

Cong 8:4-40

Phi-líp tại xứ Sa-ma-ri và miền Tây xứ Giu-đê

Đức Chúa Trời làm rất nhiều phép lạ để chánh thức hóa lời giảng của Phi-líp (câu 6, 7, 13). Nhưng Phi-e-rơ và Giăng đã được sai đến để giúp cho tín đồ tiếp nhận Đức Thánh Linh (câu 15).

Bấy giờ, Đức Chúa Trời đưa Phi-líp xuống phía Nam, đến cùng viên quan cai quản kho tàng nước Ê-thi-ô-bi, để truyền Tin Lành tới trung tâm Phi-châu.

Đoạn, Phi-líp rao truyền Tin Lành ở khắp các đô thị trên đồng bằng dọc theo bờ biển, từ A-xốt đến Sê-sa-rê. Sê-sa-rê là quê hương của ông (Cong 21:8,9).

 

Lễ báp-têm (câu 36-39)

Đây là nghi lễ đầu tiên khi ta trở nên tín đồ Đấng Christ. Đây nói đến lễ ấy rất rõ ràng. Đức Chúa Jêsus đã truyền lịnh làm lễ báp-têm (Mat 28:19). 3000 người tin Chúa trong ngày Lễ Ngũ Tuần đã chịu lễ báp-têm (Cong 2:38). Cả người Sa-ma-ri (Cong 8:12), Sau-lơ (Cong 9:18  Cong 22:16), Cọt-nây (Cong 10:47-48), Ly-đi (Cong 16:15), viên quản đốc đề lao thành Phi-líp (Cong 16:33), người Cô-rinh-tô (Cong 18:18), người Ê-phê-sô (Cong 19:5), đều đã chịu lễ báp-têm. Cũng xem  Ro 6:3-7.

Cong 9:1-30

Sau-lơ trở lại tin Chúa

Ông là người chi phái Bên-gia-min (Phi 3:5), một người Pha-ri-si, một công dân thành Tạt-sơ, là trung tâm đại học thứ ba của thế giới, đương thời ấy chỉ kém kinh thành A-thên và A-léc-xăn-đơ-ri.Lúc sanh ra, ông đã có quyền công dân La-mã (Cong 22:28), và ông thuộc về một gia đình quyền thế. Như vậy, ông có căn bản văn hóa Do-thái, Hi-lạp và La-mã.

054

Bản đồ số 54

 

Rõ ràng lắm, ông đã quyết định tiêu diệt Hội Thánh. Sau khi chà nát và làm tan lạc Hội Thánh ở Giê-ru-sa-lem, ông đã lên đường đi Đa-mách để lùng bắt những tín đồ trốn tránh ở đó.

Dọc đường, Chúa hiện đến cùng ông, chẳng khác gì sét đánh từ trời. Sự trở lại tin Chúa của ông được kể ba lần: ở đây, ở Cong 22:5-16 và  Cong 26:12-18. Đó là sự hiện thấy hiển nhiên, chớ không phải chỉ là chiêm bao. Ông thật đã bị mù mắt (câu 8, 9, 18). Những kẻ đi theo ông đã nghe tiếng phán (câu 7). Từ nay trở đi, ông hầu việc Đấng Christ mà ông đã tìm cách tiêu diệt; ông hầu việc Ngài với một sự tận tụy vô song trong lịch sử.

Ông ở Đa-mách "lâu ngày" (câu 23), rao truyền Đấng Christ. Rồi người Do-thái tìm cách giết ông.

Ông bèn đi qua xứ A-ra-bi, rồi lại trở về Đa-mách. Ông ở thành Đa-mách và xứ A- ra-bi 3 năm, đoạn, trở về Giê-ru-sa-lem (Cong 3:18), ở đó 15 ngày. Họ tìm cách giết ông (Cong 9:29). Ông bèn trở về thành Tạt-sơ. Mấy năm sau, Ba-na-ba đưa ông tới An-ti-ốt (Cong 11:25).

Cong 9:31-43

Phi-e-rơ tại thành Giốp-bê

Tại thành Ly-đa, Phi-e-rơ đã chữa lành Ê-nê. Tại thành Giốp-bê, ông khiến bà Đô-ca sống lại từ trong kẻ chết; những phép lạ nầy khiến cho nhiều người tin Chúa (câu 35, 42).

Phi-e-rơ ở thành Giốp-bê "nhiều ngày" (câu 43). Như vậy, bởi thiên cơ của Đức Chúa Trời, Phi-e-rơ đã ở gần khi Ngài sắp sửa mở cửa Tin Lành cho dân ngoại tại thành Sê-sa-rê, cách xa 30 dặm về phía Bắc.

Cong 10:1-48

Đạo Tin Lành lan truyền đến các dân ngoại

Cọt-nây là người dân ngoại đầu tiên làm tín đồ Đấng Christ. Từ trước đến nay, Tin Lành chỉ giảng cho người Do-thái, người dân ngoại theo đạo Do-thái, và người Sa-ma-ri vốn vâng giữ luật pháp Môi-se.

Do mạng lịnh sau chót của Đức Chúa Jêsus, các Sứ đồ chắc đã hiểu rằng mình phải rao truyền Tin Lành cho muôn dân.Nhưng các ông chưa được Chúa khải thị cho biết rằng người dân ngoại phải được tiếp nhận với nguyên tư cách người dân ngoại. Dường như các Sứ đồ nghĩ rằng muốn được tiếp nhận vào gia đình Đức Chúa Trời với tư cách tín đồ Đấng Christ, thì người dân ngoại trước hết phải chịu phép cắt bì, trở thành tín hữu đạo Do-thái và vâng giữ luật pháp của Môi-se.

Có người Do-thái ở rải rác khắp các nước,và có lẽ các Sứ đồ nghĩ rằng mình chỉ nhận sứ mạng giảng Tin Lành cho người Do-thái (cho đến khi Đức Chúa Trời đưa họ thoát khỏi quan niệm ấy.) Trong một thời gian, họ chỉ giảng Tin Lành cho người Do-thái (Cong 11:19).

Nhưng bây giờ, khắp cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri và xứ Ga-li-lê đã được nghe Tin Lành rồi, nên theo thiên cơ của Đức Chúa Trời, đã tới lúc cống hiến Tin Lành cho các dân ngoại.

 

Cọt-nây

Người dân ngoại đầu tiên được Đức Chúa Trời lựa chọn để cống hiến Tin Lành cho, là một sĩ quan của quân đội La-mã, ở thành Sê-sa-rê, tên là Cọt-nây.

Thành Sê-sa-rê ở trên bờ biển, cách thành Giê-ru-sa-lem chừng 50 dặm về phía Tây-bắc; đây là thủ đô La-mã tại xứ Pa-lét-tin, là trú sở của quan Thống đốc La-mã, và là tổng hành dinh quân sự của xứ nầy. Người ta cho rằng Cọt-nây là viên bách nhân đội trưởng chỉ huy đội vệ sĩ của quan Thống đốc. Như vậy, sau quan Thống đốc, Cọt-nây là một trong những người quan trọng nhứt và có tiếng tăm nhứt trong cả vùng nầy.

Cọt-nây là một người hiền đức và sùng đạo.Chắc ông biết ít nhiều về Đức Chúa Trời của người Do-thái và của tín đồ Đấng Christ. Sê-sa-rê là quê hương của Phi-líp (Cong 8:40  Cong 21:8). Nhưng dầu Cọt-nây cầu nguyện Đức Chúa Trời của người Do-thái, ông cũng vẫn thuộc về dân ngoại.

Chính Đức Chúa Trời đã lựa chọn Cọt-nây làm người dân ngoại đầu tiên được mở cửa Tin Lành cho. Chính Đức Chúa Trời chỉ huy tất cả công việc. Ngài bảo Cọt-nây cho người đi mời Phi-e-rơ (câu 5). Đức Chúa Trời phải dùng sự hiện thấy đặc biệt để khiến Phi-e-rơ quyết định đi (câu 9-23). Và Ngài đã tán thành sự tiếp nhận Cọt-nây vào Hội Thánh (câu 44-48). Ông là trái đầu mùa của thế giới dân ngoại.

Có lẽ việc nầy xảy ra chừng 5 hay 10 năm sau khi thành lập Hội Thánh tại Giê-ru- sa-lem, có lẽ là vào khoảng năm 40 S.C.. Chắc sự hay biết tin ấy đã thúc đẩy thành lập Hội Thánh dân ngoại tại An-ti-ốt (Cong 11:20). Nhưng một số người Do-thái khó mà thừa nhận tình trạng nầy.

Từ thành Giốp-bê (câu 5), Đức Chúa Trời sai Phi-e-rơ, người Do-thái, đến cùng Cọt-nây, người dân ngoại. 800 năm trước,cũng tại thành Giốp-bê (Gia-phô) nầy, Đức Chúa Trời đã phải dùng chút áp lực để khiến Giô-na, người Do-thái, quyết định đi đến thành Ni-ni-ve của dân ngoại (Gion 1:3).

Hãy chú ý: Cọt-nây không buộc phải bỏ công việc trong quân đội.

Cong 11:1-18

Sự tán thành của các Sứ đồ

Phi-e-rơ tiếp nhận Cọt-nây, người dân ngoại, vào trong Hội Thánh, mà không đòi ông phải chịu phép cắt bì. Các Sứ đồ khác chỉ tán thành hành động ấy sau khi Phi-e-rơ giải thích rằng đó là tất cả công việc của Đức Chúa Trời: Ngài bảo Cọt-nây cho người đi mời Phi-e-rơ, và bảo Phi-e-rơ đi đến cùng Cọt-nây; Ngài phê chuẩn hành động ấy bằng cách giáng Đức Thánh Linh xuống (câu 12-15). Nhưng có một phái tín đồ Do-thái dấy lên, không chịu chấp thuận (Cong 15:5).

Cong 11:19-26

Hội Thánh tại An-ti-ốt

Sau khi Ê-tiên bị ném đá ít lâu, thì Hội Thánh nầy được sáng lập bởi những người bị tan lạc trong cơn bắt bớ theo sau,có lẽ vào khoảng năm 32 S.C., và trước hết chỉ gồm các tín đồ Do-thái mà thôi (câu 19).

Mấy năm sau, có lẽ vào khoảng năm 42 S.C., một số tín đồ ở đảo Chíp-rơ và xứ Sy- ren có lẽ đã nghe việc Cọt-nây được tiếp nhận vào Hội Thánh, bèn đến An-ti-ốt và bắt đầu giảng cho người dân ngoại rằng họ có thể làm tín đồ Đấng Christ mà không cần phải trở lại đạo Do-thái trước;bằng một cách nào đó, chính Đức Chúa Trời đã tỏ ý tán thành điều ấy (câu 21).Và có rất nhiều người gia nhập Hội Thánh.

Hội Thánh ở Giê-ru-sa-lem nghe tin ấy.Lời Phi-e-rơ tường thuật về Cọt-nây đã khiến họ tin quyết rằng đó là công việc của Đức Chúa Trời; họ bèn cử Ba-na-ba đi chuyển lời chúc phước của Mẫu Hội cho phong trào ở An-ti-ốt nhằm đem người dân ngoại vào trong Hội Thánh. Vậy, có rất đông người dân ngoại gia nhập Hội Thánh (câu 24).

Ba-na-ba tới thành Tạt-sơ, cách An-ti-ốt chừng 100 dặm về phía Tây bắc, tìm thấy Sau-lơ và đưa ông tới An-ti-ốt. Việc nầy xảy ra khoảng 10 năm sau khi Sau-lơ trở lại tin Chúa; trong số đó, ông ở 3 năm tại Đa-mách và xứ A-ra-bi, còn thì theo chỗ ta biết, ông ở Tạt-sơ. Đức Chúa Trời đã kêu gọi Sau-lơ rao giảng Tin Lành cho "dân ngoại ở nơi xa" (Cong 22:21).Chắc hẳn ở bất cứ nơi nào, ông cũng để thì giờ thuật lại truyện tích Đức Chúa Jêsus luôn luôn. Bây giờ ông trở nên một thủ lãnh hoạt động tại trung tâm sơ sanh của đạo Đấng Christ giữa vòng dân ngoại nầy.

 

An-ti-ốt

Đây là đô thị thứ ba của đế quốc La-mã,có 500.000 cư dân. Chỉ kém kinh thành La-mã và thành phố A-léc-xăn-đơ-ri. Đây là cửa ngõ trên biển Địa-trung-hải để đi vào các đại lộ Đông phương. Cách thành Giê-ru-sa-lem 300 dặm về phía Bắc. Cũng được gọi là "Nữ hoàng Đông phương" và "An-ti-ốt đẹp đẽ." An-ti-ốt được tăng phần mỹ lệ bằng mọi vật mà "sự giàu có của La-mã, sự thẩm mỹ của Hi-lạp và sự xa hoa của Đông phương có thể sản xuất."

Dân thành nầy thờ thần Át-tạt-tê, kèm theo có những nghi lễ phóng túng, hư hoại và ô uế không sao tưởng tượng được.Tuy nhiên, rất đông dân chúng ở đây đã tiếp nhận Đấng Christ. Danh hiệu "Cơ-đốc-nhân" đã phát sanh tại đây, và đây là trung tâm tổ chức cố gắng dắt đưa thế giới trở về cùng Đấng Christ.

Cong 11:27-30

An-ti-ốt gởi tiền cứu tế đến Giê-ru-sa-lem

Do Ba-na-ba và Sau-lơ đem đi: Đây dường như là lần thứ hai Phao-lô trở về Giê-ru-sa-lem sau khi trở lại tin Chúa (Ga 2:1). Lúc ông trở về lần thứ nhứt, thì chúng đã toan giết ông (Cong 9:26-30).Ông tới Giê-ru-sa-lem (Cong 11:30) ngay trước khi có chép Hê-rốt giết Gia-cơ và bỏ tù Phi-e-rơ (Cong 12:1-4) và ông trở về An-ti-ốt (Cong 12:25) ngay sau khi Hê-rốt chết (Cong 12:23)vả, người ta biết rằng Hê-rốt chết năm 44 S.C.. Như vậy, Sau-lơ viếng thăm Giê-ru-sa-lem lần nầy vào năm 44 S.C..

Cong 12:1-25

Gia-cơ bị giết và Phi-e-rơ bị tù

Gia-cơ nầy là anh của Giăng, một trong ba môn đồ thân tín nhứt của Đức Chúa Jêsus. Ông là người đầu tiên trong số 12 Sứ đồ đã bỏ mình vì Chúa, năm 44 S.C.. Còn một Gia-cơ khác, là em của Đức Chúa Jêsus, thì đã được thừa nhận làm Giám mục thủ lãnh tại Giê-ru-sa-lem.

Khi Hê-rốt hạ ngục Phi-e-rơ, thì Đức Chúa Trời đã ra tay giải cứu tôi tớ Ngài (câu 7), và Ngài đánh chết Hê-rốt (câu 23). Hê-rốt nầy là con trai của Hê-rốt đã giết Giăng Báp-tít và chế nhạo Đấng Christ.

Cong 13:1-14:28

Hành trình truyền giáo thứ nhứt của Phao-lô

Xứ Ga-la-ti (khoảng 45-48 S.C..)

An-ti-ốt mau lẹ trở nên trung tâm trọng yếu của đạo Đấng Christ giữa vòng dân ngoại. Một trong các giáo sư ở đây là anh em đồng dưỡng với Hê-rốt (Cong 13:1), do đó chúng ta đoán rằng Hội Thánh có uy tín rất lớn. An-ti-ốt trở thành tổng hành dinh cho công cuộc truyền giáo của Phao-lô. Từ An-ti-ốt, ông đã lên đường truyền giáo, rồi ông trở về An-ti-ốt để khai trình công việc.

Lúc nầy, Phao-lô đã làm tín đồ Đấng Christ được 12 hoặc 14 năm rồi. Ông đã trở nên một thủ lãnh của Hội Thánh An-ti-ốt. Đã tới lúc ông lên đường làm nhiệm vụ đem Danh Đấng Christ đi xa, tới thế giới dân ngoại (Cong 22:21). Và chính Đức Chúa Trời đã sai ông đi (Cong 13:2).

Ông đi đến miền Ga-la-ti, ở trung ương Tiểu-Á-tế-á, cách An-ti-ốt chừng 300 dặm về phía Tây bắc. Đây là một hành trình khá dài. Đương thời ấy không có xe lửa, xe hơi, hoặc máy bay; chỉ có ngựa, lừa,lạc đà, hoặc đi bộ, hoặc đi tàu buồm và thuyền chèo.

 

Chíp-rơ (Cong 13:4-12)

Nếu đi đường bộ, thì gần hơn, vì đi qua Tạt-sơ, là cửa ngõ phía Đông nam để vào Tiểu-Á-tế-á. Nhưng Phao-lô đã ở Tạt-sơ rồi, khoảng 7, 8 năm trước. Vậy, họ đi qua đảo Chíp-rơ, rồi từ mỏm phía Tây đảo ấy, đi ngược lên phía Bắc mà vào trung ương Tiểu-Á-tế-á.

Tại Chíp-rơ, viên Thống đốc La-mã đã trở lại tin Chúa vì chứng kiến một phép lạ (câu 11, 12). Đức Chúa Trời, chớ không phải Phao-lô, đã làm cho tên thuật sĩ bị đui mù. Từ đây trở đi, Sau-lơ được gọi là Phao-lô (câu 9). "Phao-lô" trong tiếng La-mã tức là "Sau-lơ" trong tiếng Hê-bơ-rơ.

Từ trước tới đây, là Ba-na-ba và Phao-lô. Từ đây trở đi, là Phao-lô và Ba-na-ba. Từ nay trở đi, Phao-lô là thủ lãnh.

 

An-ti-ốt, Y-cô-ni, Lít-trơ, Đẹt-bơ

Tại thành An-ti-ốt, xứ Bi-xi-đi,Phao-lô theo thường lệ, bắt đầu giảng dạy trong nhà hội của người Do-thái. Một số người Do-thái tin Chúa, và khắp miền chung quanh, có rất nhiều người dân ngoại tin Chúa (Cong 13:43,48,49). Song những người Do-thái không chịu tin Chúa đã gây nên một cơn bắt bớ, và đuổi Phao-lô và Ba-na-ba ra khỏi thành.

Hai ông ở lâu tại Y-cô-ni, cách An-ti-ốt,thuộc xứ Bi-si-đi, chừng 100 dặm về phía Đông (Cong 14:3), làm nhiều dấu kỳ phép lạ,và có rất đông người tin Chúa (Cong 14:1). Rồi những kẻ không tin Chúa đã đuổi hai ông ra khỏi thành.

Tại Lít-trơ, cách Y-cô-ni chừng 20 dặm về phía Nam, Phao-lô chữa lành một người bại chơn, và dân chúng tưởng ông là một vị thần. Sau đó, họ ném đá ông, rồi bỏ đi, vì tưởng ông chết rồi. Lít-trơ, là quê hương của Ti-mô-thê (Cong 16:1). Có lẽ Ti-mô-thê đã chứng kiến mọi việc xảy ra (IITi 3:11).

Tại Đẹt-bơ, cách Lít-trơ chừng 30 dặm về phía Đông nam, hai ông đã dắt đem được nhiều người trở lại tin Chúa. Đoạn, hai ông trở về Lít-trơ, Y-cô-ni và An-ti-ốt.

"Cái giằm xóc vào thịt"Phao-lô (IICo 12:2,7) 14 năm trước khi ông viết thơ Cô-rinh-tô thứ hai. Ấy là nhằm khoảng ông vào xứ Ga-la-ti (Ga 4:13).

 

055

Bản đồ số 55

Hành trình truyền giáo thứ nhứt của Phao-lô

 

Cong 15:1-35

Giáo nghị hội tại Giê-ru-sa-lem

Vấn đề làm phép cắt bì cho các tín đồ dân ngoại

Khoảng năm 50 S.C., 20 năm sau khi thành lập Hội Thánh. Có lẽ khoảng 10 năm sau khi tiếp nhận người dân ngoại vào trong Hội Thánh.

Dầu Đức Chúa Trời đã khải thị rõ ràng cho Phi-e-rơ rằng người dân ngoại phải được tiếp nhận, không cần chịu phép cắt bì (đoạn 10), dầu các Sứ đồ và trưởng lão đã chịu thuyết phục (Cong 11:18), nhưng một phái tín đồ hùng mạnh, vốn thuộc phe Pha-ri-si, cứ dạy rằng phép cắt bì là cần thiết. Vậy nên, Hội Thánh bị xâu xé và bất hòa vì vấn đề đó.

Trong giáo hội nghị nầy, bởi Đức Thánh Linh (câu 28), Đức Chúa Trời khiến các Sứ đồ đồng thanh và chánh thức quyết đoán rằng phép cắt bì không cần thiết cho các tín đồ dân ngoại; họ gởi tới An-ti-ốt một bức thơ theo hướng đó, song đồng thời cũng nhấn mạnh rằng các tín đồ dân ngoại phải kiêng cữ thờ lạy hình tượng và hành vi vô đạo mà người dân ngoại thường hay mắc phải. Sự cữ huyết có từ trước thời Môi-se (Sa 9:4), thì cả loài người phải vâng giữ.

Đây là lần chót nói đến Phi-e-rơ trong sách Công vụ các sứ đồ. Cho tới đoạn 12, Phi-e-rơ vẫn đóng vai thủ lãnh. Về đời thanh niên của ông, xem ở dưới Mác, đoạn 3; về tuổi già của ông, xem ở dưới thơ I Phi-e-rơ.

Cong 15:36-18:22

Hành trình truyền giáo thứ hai của Phao-lô

Công việc của ông tại Hi-lạp (khoảng 50-53 S.C..)

Si-la là đồng bạn của ông trong cuộc hành trình nầy (Cong 15:40). Ta ít biết về Si-la. Lần thứ nhứt ông xuất hiện với tư cách một trong những thủ lãnh của Hội Thánh xứ Giu- đê (Cong 15:22,27,32). Cũng như Phao-lô, ông là người Do-thái và có quyền công dân La-mã (Cong 16:21,37). Ông được cử đem thơ của Hội Thánh Giê-ru-sa-lem gởi cho tín đồ dân ngoại (Cong 15:27). Cũng có tên là Sin-vanh. Về sau, ông đứng chung với Phao-lô trong hai thơ tín gởi cho Hội Thánh Tê-sa-lô-ni-ca (ITe 1:1  IITe 1:1). Và ông đem thơ I Phi-e-rơ cho những tín đồ nhận đọc trước nhứt (IPhi 5:12).

Phao-lô và Ba-na-ba phân rẽ nhau vì cớ Giăng, tức Mác. Nhưng về sau, hai ông lại cộng tác (ICo 9:6  Co 4:10).

Mác, cũng gọi là Giăng, đã lui đi giữa hành trình thứ nhứt của Phao-lô, có lẽ vì nhút nhát, hoặc sợ hãi, hoặc không quyết tin rằng nên rao giảng Tin Lành cho người dân ngoại. Bây giờ Mác lại muốn đi. Nhưng Phao-lô không cho đó là thượng sách.

 

Lại thăm các chi hội ở xứ Ga-la-ti (Cong 16:1-7)

Tại Lít-trơ, Phao-lô gặp được Ti-mô-thê,bèn đem theo (Cong 16:1). Từ đó về sau, Ti-mô-thê là đồng bạn thành tín của Phao-lô.

Dường như Phao-lô đi về phía thành Ê-phê-sô, "trong cõi A-si-ri" (câu 6), nhưng Đức Chúa Trời ngăn ông lại.Ông bèn đi về phía Bắc để vào xứ Bi-thi-ni, nhưng Đức Chúa Trời lại ngăn ông (câu 7). Dầu Phao-lô rất thân mật với Thánh Linh của Đức Chúa Trời, song trong vài trường hợp, ông cũng hơi chậm nhận ra ý chỉ Đức Chúa Trời đối với mình.

 

Trô-ách, Phi-líp

Tại Trô-ách (ngày xưa gọi là Troy),Lu-ca nhập đoàn (chú ý chữ "họ"(1) ở câu 7 và chữ "chúng ta" ở câu 10), và cùng họ tới thành Phi-líp, rồi ở lại đó (dùng chữ "họ" (Trong nguyên văn là: "Họ sắm sửa vào..." và: "rồi họ tới") ở  Cong 17:1 sau khi Phao-lô ra đi); 6 năm sau, ông lại nhập đoàn với Phao-lô (dùng chữ "chúng ta" ở  Cong 20:6).

Đức Chúa Trời đã đưa Phao-lô đi xa thành Ê-phê-sô và xứ Bi-thi-ni (câu 6, 7), thì bây giờ lại bảo ông tới thành Phi-líp (câu 10). Trong khám tù, Phao-lô và Si-la hát thơ thánh, Đức Chúa Trời làm động đất (câu 25, 26), và Hội Thánh mà hai ông sáng lập đã trở thành một trong những chi hội tốt nhứt trong Tân Ước.

 

Tê-sa-lô-ni-ca, Bê-rê, A-thên

Thành Phi-líp ở khu Đông bắc của Hi-lạp,là nơi Phao-lô sáng lập Hội Thánh đầu tiên ở Châu-âu. Thành Tê-sa-lô-ni-ca,cách thành Phi-líp chừng 100 dặm về phía Tây, là đô thị rộng lớn nhứt xứ Ma-xê-đoan. Hai ông chỉ ở đó ít lâu, nhưng dắt đem được rất đông người trở lại tin Chúa (Cong 17:1-9).

Tại Bê-rê (Cong 17:10-14), hai ông khiến rất nhiều người tin Chúa, nhưng kẻ thù nghịch làm cho hai ông phải bỏ đi.

Tại A-thên (Cong 17:13-34), Phao-lô được tiếp đón đơn bạc hơn hết; đây là quê hương của Periclès, Socrate, Démosthène,Platon; là trung tâm triết lý, văn chương, khoa học, mỹ thuật; là trụ sở của trường cao đẳng lớn nhứt thế giới thời xưa; là nơi gặp gỡ của các bậc trí thức trên thế giới; nhân dân ở đây hoàn toàn buông mình thờ lạy hình tượng.

056

Bản đồ 56 - Hành trình truyền giáo thứ 2 của Phao-lô

 

Tại Cô-rinh-tô (Cong 18:1-22)

Đây là một trong những đô thị chánh yếu của đế quốc La-mã. Phao-lô ở đây 1 năm rưỡi, và thành lập một chi hội lớn (câu 10, 11).

Đoạn, ông trở về Giê-ru-sa-lem và An-ti-ốt; dọc đường, ông dừng lại tại Ê-phê-sô, nơi mà ông đã chú ý tới từ lâu lắm. Trong hành trình truyền giáo thứ nhứt, ông đã đi về hướng Ê-phê-sô, nhưng tại thành An-ti-ốt, xứ Bi-si-đi, trên biên giới phía Tây xứ Ga-la-ti, ông phải quay về phía Đông vì có giằm xóc vào thịt (Ga 4:13  IICo 12:2,7). Trong hành trình thứ hai, ông quả quyết tiến về phía Ê-phê-sô, nhưng Đức Chúa Trời đưa ông qua phía Bắc, tới thành Trô-ách và xứ Hi-lạp (Cong 16:6,7). Rốt lại, bây giờ cửa thành Ê-phê-sô mở ra trước hành trình truyền giáo thứ ba của ông

A-qui-la và Bê-rít-sin

Phao-lô ở với họ tại Cô-rinh-tô (Cong 18:2,3),và họ cùng đi với ông đến Ê-phê-sô (Cong 18:18,19). Trong các hầm mộ, có bi văn ngụ ý rằng Bê-rít-sin thuộc về một gia đình cao quí ở La-mã, nhưng đã bị loại ra khỏi giai cấp mình vì đã lấy một người Do-thái làm chồng. Bà thường được nhắc tên trước chồng. Chắc bà là một bậc phụ nữ có tài năng phi thường. Về sau, tại thành Ê-phê-sô, có một chi hội nhóm họp trong nhà họ (Ro 16:3-5). Mấy năm sau,họ lại ở Ê-phê-sô (IITi 4:19).

Cong 18:23-20:38

Hành trình truyền giáo thứ ba của Phao-lô

Công việc của ông tại Ê-phê-sô (khoảng 54-57 S.C.)

Tại đây, Phao-lô làm công việc lạ lùng hơn hết trong tất cả cuộc đời lạ lùng của ông. Ê-phê-sô, một đô thị mỹ lệ có 225.000 người, ở trung tâm đại lộ Đế quốc, từ La-mã qua Đông phương, -- đại lộ nầy là xương sống của đế quốc La-mã.

Rất đông người vốn thờ nữ thần Đi-anh,trở thành môn đồ Đấng Christ. Các chi hội được sáng lập ở những đô thị trên châu vi 100 dặm (Cong 19:10,26). Chẳng bao lâu, Ê-phê-sô trở thành trung tâm trọng yếu của đạo Đấng Christ.

 

Miễu thờ nữ thần Đi-anh

Đây là một trong bảy kỳ quan của thế giới.Mất 220 năm mới xây cất xong. Làm toàn bằng cẩm thạch trong trẻo hơn hết. Cuộc thờ lạy nữ thần Đi-anh là một "nghi lễ hư hoại thường xuyên." Ảnh hưởng của nữ thần nầy về sau tràn vào các chi hội.

 

A-bô-lô (Cong 18:24-28)

Một người Do-thái sanh tại A-léc-xăn-đơ-ri, có khả năng xuất sắc và tài hùng biện. Ông trở nên một thủ lãnh có uy tín trong Hội Thánh Cô-rinh-tô (ICo 3:6) và tại Ê-phê-sô (ICo 16:12). Mấy năm sau, ông còn giúp việc Phao-lô (Tit 3:13). A-bô-lô, A-qui-la và Bê-rít-sin là những người giúp việc Phao-lô rất đắc lực tại Cô-rinh-tô và Ê-phê-sô.

 

Những phép lạ đặc biệt tại Ê-phê-sô (Cong 19:11)

Phao-lô dùng một trường học làm trụ sở (Cong 19:9)giảng dạy công khai và từ nhà nầy đến nhà kia (Cong 20:20), cả ngày lẫn đêm trong 3 năm (Cong 20:31) làm nghề riêng để tự túc (Cong 20:34) thỉnh thoảng được Đức Chúa Trời giúp đỡ bằng những phép lạ đặc biệt (Cong 19:11,12). Và như vậy, Phao-lô đã lay chuyển đến tận nền móng thành Ê-phê-sô hùng mạnh kia. Rất đông người được chữa lành bịnh bởi những khăn đã đụng tới thân thể Phao-lô. Chính Đức Chúa Trời ở đó mà làm việc.Các thuật sĩ vốn tự khoe làm được phép lạ, cũng kinh khủng đến nỗi đốt hết sách vở (Cong 19:19). Chỉ thỉnh thoảng Phao-lô mới làm được phép lạ. Ông làm phép lạ ở Chíp-rơ, Y-cô-ni, Lít-trơ, Phi-líp, Ê-phê-sô, Man-tơ và dường như ở Cô-rinh-tô (ICo 2:4) và Tê-sa-lô-ni-ca (ITe 1:5) nữa. Nhưng không có chép Phao-lô làm phép lạ tại Đa-mách, Giê-ru-sa-lem, Tạt-sơ, An-ti-ốt, An-ti-ốt (xứ Bi-si-đi) Đẹt-bơ, A-thên hoặc La-mã. Phao-lô cũng không thể chữa lành bạn đồng sự yêu dấu của mình, là Trô-phim (IITi 4:20).

 

Phao-lô toan định đi tới La-mã (Cong 19:21)

Phao-lô đã bắt đầu công việc tại An-ti-ốt,là đầu phía Đông của "xương sống" đế quốc La-mã; bây giờ ông đã làm xong công việc lớn lao hơn hết tại Ê-phê-sô, đã rao truyền truyện tích Đấng Christ khắp cả Tiểu-Á-tế á và Hi-lạp. Vậy, ông toan định đi qua đầu phía Tây của đế quốc sau khi tới Giê-ru-sa-lem để giúp ích người ta; thật ông ít ngờ rằng mình sẽ đi tới La-mã như một tù nhân bị xiềng xích (Cong 28:20).

 

Phao-lô lại viếng thăm xứ Hi-lạp (Cong 20:1-15;)

Ông từ giã thành Ê-phê-sô nhằm tháng 6,năm 57 S.C. (ICo 16:18). Ông ở xứ Ma-xê đoan suốt mùa hạ và mùa thu (ICo 16:5-8). Ông ở Cô-rinh-tô 3 tháng mùa đông (ICo 16:6). Rồi ông trở về qua xứ Ma-xê-đoan (Cong 20:3), và từ thành Phi-líp đáp tàu ra đi, nhằm tháng tư, năm 58 S.C. (Cong 20:6). Như vậy, ông ở Hi-lạp gần 1 năm. Đây có lẽ là lúc ông đi tới I-ly-ri (Ro 15:19).

Bốn thơ tín quan trọng của Phao-lô đã được viết ra trong thời gian nầy: thơ I Cô-rinh-tô viết tại Ê-phê-sô, thơ II Cô-rinh-tô viết tại xứ Ma-xê-đoan; thơ Ga-la-ti mà người ta cho là cũng viết trong khoảng nầy; và thơ Rô-ma viết tại Cô-rinh-tô.

 

Lời từ giã các trưởng lão của chi hội Ê-phê-sô (Cong 20:17-38)

Đây là những lời rất êm ái. Ông không hề trông mong lại gặp họ (câu 25). Nhưng chương trình của ông đã thay đổi, và ông thật đã trở lại gặp họ.

Tới đây chấm dứt 3 hành trình truyền giáo gồm một khoảng chừng 12 năm (từ 45 đến 57 S.C.), và nhờ cuộc truyền giáo đó mà dòng lịch sử đã biến cải. Nhiều trung tâm quan trọng của đạo Đấng Christ đã mọc lên ở hầu khắp các đô thị Tiểu-Á-tế-á và Hi-lạp, tại chính trung tâm của thế giới mà người ta được biết thời đó.

Cong 21:1-16

Hành trình của Phao-lô đến Giê-ru-sa-lem

Một mục đích của hành trình nầy là để trao số tiền ông đã quyên được nơi các chi hội dân ngoại ở Hi-lạp và Tiểu-Á-tế-á để giúp các thánh đồ nghèo tại Giê-ru-sa-lem (Cong 24:17  Ro 15:25,26  ICo 16:1-4  IICo 8:10  IICo 9:1-15). Đây là một số tiền quyên lớn. Ông đã để hơn một năm mới quyên được chừng ấy. Đó là một cách tuyệt vời bày tỏ tinh thần bác ái, để khuyến khích tình yêu thương trong Đấng Christ giữa người Do-thái và người dân ngoại.

Một mục đích khác của hành trình nầy là để làm theo một lời thề (Cong 21:23,24). Cũng vì cớ một lời thề, ông đã tới thành Giê-ru-sa-lem, sau khi chấm dứt hành trình thứ hai (Cong 18:18). Ông đã thốt những lời thề ấy để tỏ cho người Do-thái biết điều nầy: Dầu ông dạy người dân ngoại rằng họ có thể trở nên tín đồ Đấng Christ mà không cần phải giữ luật pháp của Môi-se, nhưng là người Do-thái, ông vẫn sốt sắng giữ theo mọi luật pháp của người Do-thái.

Ngay từ lúc mới lên đường, người ta đã khuyên ông đừng đi. Tại mỗi thành, Đức Thánh Linh đã cảnh cáo ông (Cong 20:23). Tại Ty-rơ, ông cũng được họ khuyên đừng đi (Cong 21:4) tại Sê-sa-rê, đang khi ông ở nhà Phi-líp, thì lời cảnh cáo được lặp lại hết sức rõ ràng, mạnh mẽ (Cong 20:10,11). Cả đến Lu-ca cũng nài xin ông chớ đi (Cong 21:12).

Nhưng tâm trí Phao-lô đã quyết định rồi,dầu phải chết cũng vậy (Cong 21:13). Tại sao Đức Chúa Trời cảnh cáo ông như thế? Có thể rằng Phao-lô đã lầm lẫn, và Đức Chúa Trời cố bảo cho ông tự biết mình đã lầm lẫn chăng? Hay là Đức Chúa Trời đang thử thách ông? Hay là Ngài đang dự bị ông?Phải chăng Phao-lô có lẽ đã nghĩ rằng sự tuận đạo của ông tại Giê-ru-sa-lem sẽ là một tuyệt điểm thích đáng ở chính nơi ông đã làm cho nhiều tín đồ phải chết vì Danh Chúa?

 

057

Bản đồ số 57

 

Cong 21:17-23:30

Phao-lô tại Giê-ru-sa-lem

Ông tới đó khoảng tháng 6, năm 58 S.C. (Cong 20:16).Đây là lần thứ năm mà Kinh Thánh chép ông thăm viếng thành Giê-ru-sa-lem sau khi trở lại tin Chúa. Trong những năm giữa mấy cuộc thăm viếng nầy, ông đã dắt đem rất đông người dân ngoại trở lại tin theo Đấng Christ, nên bọn người Do-thái không tin Chúa càng ngày càng ghét ông.

Sau khi Phao-lô ở Giê-ru-sa-lem gần một tuần lễ và làm xong lời thề nguyện trong Đền thờ, thì có mấy người Do-thái nhận ra ông. Chúng bèn la lên, và liền ngay đó, đám dân hùng hổ xông vào ông như một bầy thú dữ. Bọn lính La-mã kéo tới nơi vừa kịp cứu ông khỏi bị chúng đánh chết.

Trên thềm của lâu đài La-mã, là nơi 28 năm trước, Phi-lát đã lên án xử tử Đức Chúa Jêsus, Phao-lô được quân lính ưng thuận, bèn cất tiếng giảng cho dân chúng. Ông thuật truyện Đấng Christ hiện ra với mình trên đường đi Đa-mách. Chúng lắng tai nghe cho đến khi ông dùng chữ "dân ngoại," thì lại nổi lên hỗn loạn.

Ngày hôm sau, các Sĩ quan La-mã đưa Phao-lô tới trước tòa Công luận của dân Do- thái để xét xem tội trạng ở đâu.Chính tòa Công luận nầy đã đóng đinh Đức Chúa Jêsus vào Thập tự giá; trước kia,Phao-lô có chơn trong tòa Công luận nầy; chính tòa Công luận nầy đã ném đá chết Ê-tiên và đã hết sức cố gắng đè bẹp Hội Thánh. Chẳng mất chốc, tòa Công luận đã ồn ào, sôi nổi. Phao-lô sắp bị chúng xâu xé, thì bọn lính dẫn ông trở về đồn.

Đêm đó, trong đồn, Chúa đứng bên Phao-lô và quả quyết với ông rằng Ngài sẽ gặp ông tại La-mã (Cong 23:11). Phao-lô thường tỏ ý hy vọng đi tới La-mã (Ro 1:13). Tại Ê-phê-sô, ông đã quyết định làm việc ấy (Cong 19:21) sau khi thăm viếng Giê-ru-sa-lem; tuy nhiên, ông không biết chắc mình còn sống mà từ Giê-ru-sa-lem ra đi chăng (Ro 15:31,32). Nhưng từ nay trở đi,thì chắc lắm, CHẮC LẮM, vì ĐC CHÚA TRžI ĐÃ PHÁN như vậy.

Ngày hôm sau, người Do-thái lại toan mưu rình giết ông nữa. Dân chúng điên cuồng, sôi nổi. Phải có 70 lính kỵ mã,200 lính bộ và 200 lính cầm giáo, mới đưa được ông ra khỏi thành, mà lại phải đưa ban đêm.

Cong 23:31-26:32

Phao-lô ở thành Sê-sa-rê

2 năm, từ mùa hạ năm 58 S.C.tới mùa thu năm 60 S.C.

Một tuần lễ trước, Phao-lô đã ở Sê-sa-rê, tại nhà Phi-líp, trên đường đi Giê-ru-sa-lem. Một tiên tri, tên là A-ga-bút, đã từ Giê-ru-sa-lem tới đây cảnh cáo Phao-lô (Cong 21:8-14).

Sê-sa-rê là kinh thành La-mã tại xứ Giu-đê. Đây là nơi Đức Chúa Trời lựa chọn để tiếp nhận người dân ngoại đầu tiên vào Hội Thánh, tức là Cọt-nây, sĩ quan của quân đội La-mã; việc nầy xảy ra khoảng 20 năm trước.

Trong thành phố La-mã quan trọng hơn hết trên đất Pa-lét-tin đó, Phao-lô đã ở hai năm với tư cách một tù nhân tại dinh quan Thống đốc La-mã (Cong 23:35), song được đặc ân tiếp khách. Thật là một cơ hội quí báu để rao truyền Đấng Christ cho người ta biết!

 

Phao-lô trước mặt Phê-lít (Cong 24:1-27)

Phê-lít làm thống đốc La-mã tại xứ Pa-lét-tin lâu năm. Ông biết ít nhiều về tín đồ Đấng Christ, vì có rất đông tín đồ ở dưới quyền cai trị của ông. Bây giờ ông phải ngồi xét xử một giáo sư Tin Lành có tên tuổi hơn hết. Phao-lô đã làm cho Phê-lít cảm xúc sâu xa. Phê-lít thường cho kêu ông tới. Nhưng tánh tham tiền đã ngăn trở Phê-lít tiếp nhận Đấng Christ, hoặc phóng thích Phao-lô (câu 26). Đơ-ru-si là em gái của Ạc-ríp-ba (Cong 25:13).

 

Phao-lô trước mặt Phê-tu (Cong 25:1-12)

Phê-tu kế chức Phê-lít làm Thống đốc (60 S.C.). Người Do-thái vẫn còn toan mưu giết Phao-lô. Dầu Phê-tu tin quyết Phao-lô vô tội, nhưng vẫn sẵn sàng trao ông cho người Do-thái, Phao-lô biết rằng trao như vậy là ông phải chết. Vậy, Phao-lô đòi ứng hầu Sê-sa; là công dân La-mã, ông có quyền đòi điều ấy, và Phê-tu phải ưng chịu.

Phao-lô có quyền công dân La-mã chắc vì cha của ông đã có công trạng gì với nhà nước. Quyền công dân ấy đã nhiều lần cứu mạng ông.

 

Phao-lô trước mặt Ạc-ríp-ba (Cong 25:13-26:32)

Ạc-ríp-ba nầy chính là Hê-rốt Ạc-ríp-ba II, con trai của Hê-rốt Ạc-ríp-ba I, người 16 năm trước đã giết Gia-cơ (Cong 12:2).Ông là cháu nội của Hê-rốt Antipas , người đã giết Giăng Báp-tít và chế nhạo Đấng Christ, và là chắt nội của Hê-rốt đại vương đã tàn sát con trẻ thành Bết-lê-hem trong khi cố sức giết Đấng Christ. Ông thuộc về gia tộc sát nhân đó,làm vua một miền ở biên giới Đông bắc xứ Pa-lét-tin, và bây giờ được mời tới phụ giúp Phê-tu.

Bê-rê-nít là em gái của ông, nhưng chung sống với ông như một người vợ. Bà có sắc đẹp phi thường, và đã lấy hai đời vua, rồi quay về làm vợ của anh ruột mình. Về sau, bà trở thành vợ bé của hoàng đế Vespasien và hoàng đế Titus.

Hãy suy nghĩ về Phao-lô tự bào chữa trước một cặp vợ chồng dường ấy!

Dầu vậy, Ạc-ríp-ba đã chịu cảm động sâu xa (Cong 26:28). Người đối với trí óc xác thịt và ngoại đạo của Phê-tu, thì sự sống lại từ trong kẻ chết là không thể tưởng tượng được, nên ông kêu lên rằng chắc Phao-lô điên (Cong 26:24).

 

Họ đều đồng ý rằng Phao-lô hoàn toàn vô tội (Cong 26:31).

 

Lu-ca

Dầu không ở trong khám tù, nhưng ở với Phao-lô tại Sê-sa-rê (chú ý chữ "chúng ta" ở  Cong 21:17,18  Cong 27:1). Người ta cho rằng việc nầy xảy ra đang khi Lu-ca viết sách Tin Lành (Lu 1:1-3). Hai năm ở tại Sê-sa-rê cho ông có cơ hội viếng thăm thành Giê-ru-sa-lem ít lâu, và có lẽ cả xứ Ga-li-lê nữa, để trò chuyện với tất cả các Sứ đồ và các đồng bạn của Đức Chúa Jêsus từ lúc đầu mà ông gặp được; nhờ đó, ông thâu lượm được những chi tiết chánh xác về Đức Chúa Jêsus. Ma-ri, mẹ của Ngài, có lẽ còn sống, và chính bà đã thuật cho Lu-ca nghe về sự giáng sanh và thời thơ ấu của Đức Chúa Jêsus cùng nhiều biến cố khác trong đời Ngài.

Cong 27:1-28:15

Hành trình của Phao-lô tới La-mã

Bắt đầu lúc mới sang thu, năm 60 S.C..Ba tháng mùa đông ở đảo Man-tơ. Tới La-mã đầu mùa xuân năm 61 S.C..

Ông đã đáp ba chiếc tàu: Một từ Sê-sa-rê tới My-ra, một từ My-ra tới Man-tơ, và một từ Man-tơ tới Bu-xô-lơ.

Khi từ My-ra ra đi ít lâu, họ gặp gió ngược hung hăng, bị cuốn khỏi thủy đạo, và sau nhiều ngày, khi đã tuyệt vọng,thì Đức Chúa Trời (2 năm trước, tại Giê-ru-sa-lem, Ngài đã bảo Phao-lô rằng Ngài sẽ gặp ông tại La-mã --  Cong 23:11) bây giờ lại hiện ra với ông mà quả quyết sẽ làm thành lời Ngài phán (Cong 27:24). và Ngài thật đã làm thành.

Cong 28:16-31

Phao-lô tại La-mã

La-mã là đô thị "nữ hoàng" của trái đất, là trung tâm của lịch sử. Trải qua 2000 năm (từ thế kỳ thứ 2 T.C. đến thế kỷ thứ 18 S.C.), nó là cường quốc bá chủ thế giới. Hiện nay còn được gọi là "Thành Đời Đời." Thời ấy dân số tới 1 triệu rưỡi người, mà một nửa là tôi mọi. La-mã là thủ đô của một đế quốc rộng 3000 dặm từ Đông qua Tây, và 2000 dặm từ Nam chí Bắc, dân số 120 triệu.

Phao-lô ở La-mã rất ít là 2 năm (Cong 28:30).Dầu là tù nhân, nhưng ông được phép ở trong căn nhà thuê, có lính canh (Cong 28:16),được tự do tiếp khách và giảng dạy về Đấng Christ. Đã có nhiều tín đồ ở đó (hãy xem lời chào thăm của ông ở thơ Rô-ma, đoạn 16, viết 3 năm trước). Hai năm của Phao-lô ở kinh thành La-mã được kết quả lớn lao, có ảnh hưởng đến cả cung vua (Phi 4:23). Đang khi ở đó, ông đã viết các thơ Ê-phê-sô, Phi-líp, Cô-lô-se,Phi-lê-môn, và có lẽ thơ Hê-bơ-rơ nữa.

 

058

Bản đồ số 58

Hành trình của Phao-lô tới thành La-mã

 

Những ngày sau rốt của Phao-lô

Người ta thường nhìn nhận rằng Phao-lô đã được phóng thích, khoảng năm 63 hoặc 64 S.C.. Ta không biết ông có cứ đi đến xứ Y-pha-nho theo như đã toan định (Cong 15:28) hay không. Theo truyền thoại,thì ông đã đi. Nhưng nếu có đi, thì cũng chẳng ở đó lâu. Dường như ông đã trở lại Hi-lạp và Tiểu-Á-tế-á, khoảng năm 65 đến 67 S.C., trong thời gian đó ông viết thơ Ti-mô-thê và thơ Tít. Rồi ông lại bị bắt và lại bị đưa về La-mã, rồi bị chém đầu khoảng năm 67 S.C..

Tóm tắt đời sống của Phao-lô

(Thử phỏng định các niên hiệu)

Trước hết, Phao-lô xuất hiện với tư cách một tay hung hăng, dữ tơn, bắt bớ tín đồ Đấng Christ, và quả quyết bôi xóa Danh Jêsus. Chắc ông nghĩ rằng sự sống lại của Đức Chúa Jêsus từ trong kẻ chết chỉ là một truyện bịa.

Rồi trên đường đi Đa-mách, ông bị đánh ngã dường như bởi tiếng sét từ trời. Chính Đức Chúa Jêsus hiện ra và phán với ông (khoảng năm 32 S.C.)

Từ lúc đó trở đi, ông là một người biến cải. Với sự sốt sắng và tận tụy vô song trong lịch sử, ông đi lên, đi xuống trên các đại lộ của đế quốc La-mã mà kêu la rằng: "Đức Chúa Jêsus thật đã sống lại từ trong kẻ chết. Quả thật vậy, quả thật vậy, Quả Thật Vậy,Ngài đã sống lại, Ngài đã sống lại, Ngài Đã Sống Lại!"

Tại Đa-mách, chúng cố giết ông. Ông bèn vào xứ A-ra-bi. Rồi ông trở lại Đa-mách. Ông cũng trở lại Giê-ru-sa-lem (khoảng năm 35 S.C.). Chúng cố giết ông. Rồi ông đi Tạt-sơ, ở đó 6, 7 năm.

Ông tới An-ti-ốt (khoảng 42 đến 44 S.C.). Ông lên Giê-ru-sa-lem (khoảng 44 S.C.), đem theo tiền quyên giúp các tín đồ nghèo. Rồi ông trở về An-ti-ốt.

Hành trình truyền giáo thứ nhứt (khoảng 45 đến 48 S.C.). Ông trải qua xứ Ga-la-ti, ghé các thành An-ti-ốt (miền Bi-si-đi), Y-cô-ni, Lít-trơ, Đẹt-bơ. Rồi trở về An-ti-ốt.

Dự hội nghị tại Giê-ru-sa-lem về vấn đề tín đồ dân ngoại có phải chịu phép cắt bì hay không? (khoảng 50 S.C.).

Hành trình truyền giáo thứ hai (khoảng 50 đến 53 S.C.). Ông trải qua xứ Hi-lạp, ghé các thành Phi-líp, Tê-sa-lô-ni-ca,Bê-rê, A-thên, Cô-rinh-tô. Rồi trở về Giê-ru-sa-lem và An-ti-ốt.

Hành trình truyền giáo thứ ba (khoảng 54 đến 57 S.C.). Ông ghé thành Ê-phê-sô và trải qua xứ Hi-lạp.

Ông đi Giê-ru-sa-lem năm 58 S.C., đem theo số tiền quyên lớn.

Tại Sê-sa-rê (năm 58-60 S.C.), ông là tù nhân trong dinh quan Thống đốc.

Tại La-mã (năm 61-63), ông vẫn là tù nhân. Tới đây, sách Công vụ các sứ đồ chấm hết.

Ông trở lại Hi-lạp và Tiểu-Á-tế-á, khoảng năm 65-66 S.C..

Bị chém đầu tại La-mã, khoảng năm 67 S.C..

Chức vụ ông kéo dài chừng 35 năm. Trong 35 năm ấy, ông dắt đem vô số người đến cùng Đấng Christ và sáng lập Hội Thánh ở phần nhiều đô thị trọng yếu.

Thỉnh thoảng Đức Chúa Trời làm những phép lạ để giúp đỡ ông. Ông đã bị bắt bớ ở hầu hết các thành. Nhiều lần họ bao vây ông và toan giết ông đi. Ông bị đánh đập, quất bằng roi, cầm tù, ném đá và đuổi từ thành nầy đến thành kia. Trên hết mọi sự đó, còn có "giằm xóc vào thịt" (IICo 12:5-10). Sự đau đớn, khổ nạn của ông hầu như không tưởng tượng được. Chắc thân thể ông phải cứng mạnh như sắt. Đức Chúa Trời chắc đã dùng quyền phép siêu nhiên để giữ vẹn mạng sống của ông."