NHỮNG GỢI Ý:

Ma-thi-ơ đoạn 14  đến đoạn 27 là năm khổ nạn của Chúa Jêsus, chúng ta luôn luôn thấy giới lãnh đạo Do Thái Giáo, những thầy dạy luật, những người Pha-ri-si tìm cách chống đối, chỉ trích, lên án, tìm mưu bắt và giết Chúa Jêsus. Chương trình của Đức Chúa Trời dành cho Chúa Jêsus là sẽ chịu chết như chiên con của Lễ Vượt Qua. Thời điểm đó chưa đến cho nên Chúa Jêsus không phó mình cho họ mà trong sáu tháng đầu Ngài tạm rút lui, Chúa Jêsus đi vào những nơi vắng vẻ, những thành và làng của người Do thái lẫn người ngoại bang.

Những người nào đến với Chúa Jêsus chỉ để lên án, chỉ trích thì chẳng bao giờ nhận lãnh được phước hạnh gì, nhưng còn bị Chúa nghiêm trách. Còn những ai bằng lòng đến với Chúa bởi đức tin, khao khát tìm kiếm Chúa thì nhận được sự chữa lành khỏi bệnh tật, sự giải cứu khỏi bị ma quỉ chiếm hữu, nhận được sự tiếp trợ, sự an ủi, sự chúc phước của Ngài.

 

Câu Kinh Thánh ghi nhớ Ma-thi-ơ 15:30  (BDHD): 

Bấy giờ có đoàn người rất đông đến với Ngài, đem theo những người què, mù, câm, tàn tật và nhiều người yếu đau khác đặt nơi chân Đức Chúa Jêsus; Ngài chữa lành cho họ.

 

Giải thích:

Lời truyền khẩu: Là những lời nói của người xưa được truyền miệng từ rất lâu trong quá khứ, dần dần được xem có giá trị như luật pháp. Lời truyền khẩu có thể đề cập đến Đức Chúa Trời, đến các thánh nhân, đến quy luật sống hằng ngày hay các nghi lễ tôn giáo... Người Pha-ri-si vâng giữ Luật pháp Môi-se nhưng thêm rất nhiều lời truyền khẩu vào Luật pháp của Đức Chúa Trời.

Khi thêm lời truyền khẩu vào Lời Chúa thì người Pha-ri-si đã xem lời truyền khẩu quan trọng hơn Lời Chúa. Nếu lời truyền khẩu chống lại Lời Chúa thì họ sẵn sàng lựa chọn vâng theo lời truyền khẩu.

Ngày hôm nay, trong Hội Thánh cũng có thể có những lời do truyền khẩu mà Kinh Thánh không dạy biểu, ví dụ cầu nguyện thì phải nhắm mắt. Nhưng điều này không đi ngược lại với Kinh Thánh thì lời truyền khẩu đó vẫn có thể duy trì vì mục đích nó giúp cho sự cầu nguyện dễ tập trung hơn.

Ngoài ra, cũng có lời truyền khẩu nói rằng bà Ma-ri là đồng trinh suốt đời, vô nhiễm nguyên tội và bà đã về trời cả hồn lẫn xác. Lời truyền khẩu này hoàn toàn đi ngược lại với Kinh Thánh. Như trong bài học trước của đoạn 13, chúng ta biết sau khi sanh Chúa Jêsus, bà Ma-ri còn sanh nhiều con cái khác. Lời Chúa cũng tuyên bố "mọi người đều phạm tội" (Rô-ma 3:23) vì vậy lời truyền khẩu này không được coi trọng hơn Kinh Thánh và không được vâng giữ.

Sự hiểu biết do truyền miệng, do truyền thống để lại mà đôi khi tạo nên thành kiến trong tâm trí một người, khiến cho người đó xét đoán người khác không theo nguyên tắc Kinh Thánh nhưng lại theo thành kiến của mình, điều đó cũng là tinh thần của lời truyền khẩu cần tránh.

 

Các nhân vật:

Người đàn bà xứ Ca-na-an: Theo sách Phúc Âm Mác (Mác 7:26) gọi người phụ nữ này là người Sy-ri là Phê-ni-xi (người Hy Lạp, được sinh ra ở Sy-rô-phê-ni-xi) cho thấy bà thuộc vùng lãnh thổ Ty-rơ và Si-đôn. Ma-thi-ơ gọi bà ta là người Ca-na-an tức là muốn bảo rằng tổ tiên xưa kia của bà ta vốn là kẻ thù của dân Y-sơ-ra-ên. Tại đây người đàn bà đã nhận được sự chữa lành của Chúa Jêsus cho con gái của bà bởi đức tin.

 

Địa danh:

Ty-rơ và Si-đôn là hai thành phố không thuộc về lãnh thổ của người Do Thái. Trong giai đoạn sáu tháng đầu tạm rút lui, Chúa Jêsus đi "xuất ngoại" đến vùng Ty-rơ và Si-đôn xa về phía Bắc. Hai thành phố này cũng được gọi là lãnh thổ của người ngoại bang.

Nơi Chúa Jêsus làm phép lạ hóa bánh lần thứ hai không được xác định ở đâu, nhưng lần này Chúa dùng 7 cái bánh và vài con cá để hóa ra nhiều bánh cá cho đoàn dân đông hơn 4000 người ăn no nê.

Ma-ga-đan: nằm trên bờ phía Tây biển Ga-li-lê. Nó còn có tên là Đa-ma-nu-tha (Mác 8:10).

 

Bản Đồ Thời Chúa Jêsus:

Mat 15

 


Nội dung Ma-thi-ơ

Rửa tay trước khi ăn

1 Sau đó, có vài người Pha-ri-si và thầy thông giáo từ thành Giê-ru-sa-lem đến với Đức Chúa Jêsus và hỏi rằng: 2 “Sao môn đồ Thầy vi phạm truyền thống của cổ nhân, không rửa tay trước khi ăn?” 3 Ngài đáp: “Thế sao các ngươi cũng vì truyền thống của mình mà vi phạm điều răn của Đức Chúa Trời? 4 Vì Đức Chúa Trời đã truyền dạy: 'Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi;’ và 'ai nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử.’ 5 Nhưng các ngươi lại bảo: 'Nếu ai nói với cha mẹ rằng: Những gì có thể giúp cha mẹ, con đã dâng cho Đức Chúa Trời rồi, thì người ấy không cần phải hiếu kính cha mẹ.’ 6 Như vậy, vì cớ truyền thống của mình, các ngươi đã loại bỏ lời Đức Chúa Trời. 7 Hỡi những kẻ đạo đức giả! Ê-sai thật đúng khi nói tiên tri về các ngươi rằng:

8 'Dân nầy lấy môi miệng tôn kính Ta;

Nhưng lòng chúng nó cách xa Ta lắm.

9 Việc chúng thờ phượng Ta là vô ích,

Giáo lý chúng dạy chỉ là những luật lệ của loài người.’ ”

10 Sau đó, Ngài gọi dân chúng đến và phán: “Hãy nghe và hiểu: 11 Chẳng phải vật gì vào miệng làm cho con người ô uế; nhưng điều gì từ miệng ra, điều ấy mới làm ô uế con người.” 12 Sau đó các môn đồ đến, thưa với Ngài: “Thầy có biết những người Pha-ri-si bị xúc phạm khi nghe lời nầy không?” 13 Ngài đáp: “Cây nào Cha Ta trên trời không trồng thì phải nhổ đi. 14 Cứ để mặc họ; họ là những kẻ dẫn đường đui mù. Nếu người mù dắt người mù thì cả hai đều ngã xuống hố.” 15 Phi-e-rơ thưa rằng: “Xin Thầy giải nghĩa ẩn dụ đó cho chúng con.” 16 Đức Chúa Jêsus hỏi: “Các con cũng vẫn không hiểu sao? 17 Các con không biết rằng vật gì vào miệng sẽ đi xuống dạ dày, rồi bị thải ra ngoài sao? 18 Nhưng những gì từ miệng ra đều phát xuất từ trong lòng, những điều ấy mới làm ô uế người. 19 Vì từ trong lòng nẩy sinh những ý tưởng xấu, giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cướp, làm chứng dối, và vu khống. 20 Đó chính là những điều làm ô uế người; còn việc ăn không rửa tay, chẳng làm ô uế người đâu.”

Đức tin của người phụ nữ Ca-na-an

21 Từ đó, Đức Chúa Jêsus đi vào khu vực thành Ty-rơ và Si-đôn. 22 Kìa, có một người phụ nữ Ca-na-an từ vùng ấy đến và kêu xin rằng: “Lạy Chúa, con của Đa-vít, xin thương xót con với! Con gái của con bị quỷ ám, khốn khổ lắm!” 23 Nhưng Ngài chẳng đáp một lời. Các môn đồ đến, nài xin Ngài rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà van xin mãi.” 24 Ngài đáp: “Ta được sai đến, chỉ vì những chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên mà thôi.” 25 Nhưng người phụ nữ nầy đến, quỳ xuống và thưa rằng: “Lạy Chúa, xin giúp đỡ con!” 26 Ngài đáp: “Lấy bánh của con cái mà ném cho chó ăn là điều không phải lẽ.” 27 Người phụ nữ lại thưa: “Lạy Chúa, đúng như vậy, nhưng mấy con chó vẫn được ăn những miếng bánh vụn từ bàn chủ rơi xuống.” 28 Ngài phán rằng: “Hỡi phụ nữ kia, ngươi có đức tin lớn! Điều ngươi ao ước sẽ được thành!” Ngay trong giờ ấy, con gái bà được lành.

Đức Chúa Jêsus hóa bánh lần thứ hai

29 Đức Chúa Jêsus rời nơi ấy đi dọc theo biển Ga-li-lê; Ngài lên núi và ngồi tại đó. 30 Bấy giờ có đoàn người rất đông đến với Ngài, đem theo những người què, mù, câm, tàn tật và nhiều người yếu đau khác đặt nơi chân Đức Chúa Jêsus; Ngài chữa lành cho họ. 31 Vì vậy, họ rất kinh ngạc khi thấy người câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được, người mù thấy được; và họ ca ngợi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.

32 Kế đó, Đức Chúa Jêsus gọi môn đồ đến và phán rằng: “Ta cảm thương đoàn dân nầy vì họ đã ở với Ta ba ngày, bây giờ không có gì ăn cả. Ta không muốn để họ nhịn đói ra về, e bị xỉu dọc đường chăng.” 33 Các môn đồ thưa: “Giữa nơi hoang mạc nầy, chúng ta kiếm đâu ra đủ bánh cho đoàn dân đông đảo nầy ăn?” 34 Ngài hỏi các môn đồ: “Các con có bao nhiêu bánh?” Họ thưa: “Có bảy cái bánh và vài con cá nhỏ.” 35 Ngài truyền cho đoàn dân ngồi xuống đất, 36 lấy bảy cái bánh và mấy con cá, tạ ơn, rồi bẻ ra trao cho các môn đồ để họ phân phát cho dân chúng. 37 Mọi người đều ăn no; những mẩu bánh thừa thu lại được bảy giỏ đầy. 38 Số người ăn là bốn nghìn người, không kể phụ nữ, trẻ em. 39 Sau khi cho dân chúng về, Ngài xuống thuyền qua miền Ma-ga-đan.