Lời thề\ Oath. Serment.

Lời cầu xin Đức Chúa Trời chứng kiến sự thật của lời nói hoặc có tính cách thắt chặt của lời hứa (Sáng 21:23; 31:53; Ga 1:20; Hêb 6:16). Phạm đến lời thề tức là phạm đến Đức Chúa Trời (IISử 36:13; Êxê 17:13, 18). Có khi chỉ vua hay một vật thánh khác mà thề (Sáng 42:15; IISa 11:11; Mat 5:33; 23:16-22). Đức Giê-hô-va chứng quyết lời hứa Ngài với tổ phụ bởi lời thề bằng chính mình Ngài (Sáng 22:16; Hêb 6:13, 20). Người ta thường giơ tay lên hướng về Đức Chúa Trời mà thề (Sáng 14:22; Êxê 20:5, 6; Khải 10:5), song có khi thề bằng cách đặt tay lên đùi người mà mình đang hứa (Sáng 24:2; 47:29), cách thề nầy có lẽ như là một sự yêu cầu của dòng họ để giữ lời thề và báo thù sự phạm đến. Lời thề có khi được nói ra ở trước bàn thờ (ICác 8:31). Áp-ra-ham cho A-bi-mê-léc bảy chiên con làm chứng về lời thề (Sáng 21:27-31). Một lời thề có khi trọng thể hơn qua cách giết những con sinh vật (15:8-18). Mỗi bên thề nguyện phải nguyện rằng mình sẽ chịu số phận thiệt thòi nếu trái với giao ước. Trong luật Môi-se, một người chứng minh là vô tội buộc phải thề với Chúa (Xuất 22:11; Dân 5:19-22). Người nào thề một lời hay hứa nguyện với Đức Chúa Trời điều gì buộc phải làm trọn lời hứa, người nữ cũng vậy, nếu là một gái đồng trinh người cha không rút lại lời thề của nàng khi đã thề, và nếu đã cưới gả thì chồng cũng không ngăn trở. Nếu là một người đàn bà góa hoặc bị để thì lời thề vẫn phải giữ nguyên (Dân 30:1-). Nếu người nào thề dối bởi danh Đức Chúa Trời chân thật, thì làm ô uế danh Ngài (Lê 6:3; 19:12; so Ês 48:1; Giê 12:16; Mal 3:5); và không một ai trong bất cứ tình cảnh nào được thề bởi một tà thần (Giô 23:7). Người được khen trong Thi 15:4 là người không thay đổi, dầu rằng đã thề mà có hại cho mình. Chúa Jêsus không chịu cho dùng lời thề, Ngài dạy rằng: "Đừng thề chi hết" cả đến có ý định tốt nhứt cũng không nên, và Ngài tuyên bố rằng điều gì ngoài sự "phải phải không không" là từ ma quỉ (Mat 5:33-37). Với bài giảng trên núi, Ngài sửa lại những sự hư hoại của luật pháp mà thầy thông giáo đã đem vào; và giữa những sự xem xét khác, Ngài lên án sự thề trong khi giao tiếp giữa người với người. Song lời thề trước tòa án, là hợp pháp, vì là Đức Chúa Trời lập nên (Xuất 22:11), và chính Đấng Christ không ngần ngại mà trả lời khi thấy thầy tế lễ thượng phẩm thề mà hỏi (Mat 26:63). Các Sứ đồ cũng công nhận lời thề là hợp pháp, vì họ xin Đức Chúa Trời làm chứng điều mà mình nói là thật (IICôr 11:31; Ga 1:20). Sự lầm lỗi có thể sanh ra bởi một lời thề liều lĩnh, được minh chứng bởi lời thề của vua chư hầu Hê-rốt, làm cho vua phải trái với ý muốn mình mà giết Giăng Báp Tít (Mat 14:3-12).

Kinh Thánh chép Đức Chúa Trời cũng chỉ vào Ngài mà thề (Sáng 22:16; Dân 14:28; Êxê 17:19; Giê 44:26; 49:13; Am 6:8). Song lời thề của Ngài đời đời không thay đổi (Thi 110:4; 132:11; Phục 4:31; Hêb 7:21). Còn lời thề của người ta phần nhiều hay dối trá hoặc trái phạm (Giê 5:2; Êxê 16:59; 17:18).