Ích-ma-ên, Người\ Ishmaelites. Ismaeliste.

Dòng dõi Ích-ma-ên, nên trong mạch máu của họ có máu người Ai-cập và Áp-ra-ham. Từ Ích-ma-ên sanh 12 quan trưởng (Sáng 17:20; 25:12-16). Có lẽ Ích-ma-ên cũng có con trai khác, và trong danh sách đó cũng có cháu nữa. Số 12 là số đặc biệt vì là số của các chi phái Y-sơ-ra-ên, và số các vua Hê-tít đồng minh. Vậy, người Ích-ma-ên chia làm 12 hàng ngũ, vừa đi vừa đóng trại tại đồng vắng A-ra-bi phía Bắc, "từ Ha-vi-la cho đến Su-rơ, đối ngang Ai-cập, chạy qua A-sy-ri" (Sáng 25:18). Thỉnh thoảng có một chi họ ở luôn một chỗ và có nền văn minh riêng, như chi họ Nabathéens; song phần nhiều dân Ích-ma-ên có tánh giống như tổ tông mình, "tay nó địch cùng mọi người, và tay mọi người địch lại nó", và ăn ở như con lừa rừng (Sáng 16:12). Giống tổ phụ là Ích-ma-ên, họ có tài bắn cung (Ês 21:17), Giô-sép bị bán 20 miếng bạc cho dân Ích-ma-ên đem qua xứ Ai-cập (Sáng 37:25-28). Trong Thi 83:6, cũng chép người Ích-ma-ên với người Ê-đôm, Mô-áp và Ha-ga-rít.

Khi nói đến người Ích-ma-ên còn với nghĩa rộng hơn, gồm lại những bộ lạc rày đây mai đó trong phía Bắc xứ A-ra-bi; hoặc vì người Ích-ma-ên đứng đầu trong đồng vắng nên dùng tên đó để chỉ chung, hoặc vì người ích-ma-ên kết đồng minh với các dân khát máu, như dân Ma-đi-an, v.v... (Quan 8:24; so 7:25; 8:22, 26). Nay, hết thảy người A-rạp, theo gương Mahomed người sáng lập đạo Hồi, cũng xưng mình là dòng dõi Ích-ma-ên.