WYCLIFFE, JOHN

(1320-1384)

John Wycliffe, người được mệnh danh là "Ngôi sao mai của cuộc Cải chánh Anh quốc". Ông là một trong những Cải chánh Cơ Đốc giáo ngoại hạng mà nước Anh và thế giới Đạo Chúa đã từng hãnh diện và có được.

John Wycliffe sanh năm 1320, tại thành phố Richmond, trong hạt Yorkshire, miền Bắc nước Anh. Ông ở trong đội ngũ của một gia đình quyền quý Anh, nhưng đã đến hồi xuống cấp. Ông theo học tại Oxford, là một người có thiên tứ năng khiếu trong nhiều lãnh vực; ông học hành mau chóng và sớm đỗ đạt khoa Luật và Chính trị, Triết học cũng như Luận lý học. Ông trở thành một giáo sư môn triết hàng đầu ở Đại học Oxford.

Năm 1361, ông được bổ nhiệm chức Viện trưởng Học viện Baliol. Thời gian này ông đụng độ với các tu sĩ phái gọi là "Hành khất", nhất là ông mạnh tiếng phê phán thói biếng nhác của họ. Wycliffe tố cáo bọn này là giả hình, mặt ngoài thì làm ra vẻ nghèo khó; song lại "đội lốt" đi quyên tiền bạc để xây cất những tu viện nguy nga, lộng lẫy. Ông cũng mồi lửa cho sự tức giận của Giáo hội khi hậu thuẫn đòi chính quyền bao vây tài sản của giới tăng lữ đã biến chất, mục nát. Yêu sách của ông đã bị Giáo hoàng lên án bác bỏ năm 1377; mặc dầu thiện chí của ông được đa số dân chúng hoan nghênh; nhưng ông cũng gặp không ít kẻ thù chống lại ông. Lại thêm những người bạn đầy thế lực của ông bấy giờ đã là bức tường thép che chắn cho ông khỏi bị ám hại.

Nhà cải chánh được mến mộ này đã dần dần được các bạn hữu ông, thấy rõ ông là một mối nguy cho thế lực Giáo hội thối nát đương thời, nên họ đã hết lòng bảo vệ, đem ông giấu trên những vùng cao nguyên; tự nhiên là các giới thẩm quyền trong Giáo hội đã xua đuổi ông và các môn sinh theo ông ra khỏi Đại học Oxford.

Wycliffe cũng là nhà yêu nước cuồng nhiệt. Lúc nào ông cũng muốn thấy nước nhà độc lập, tự do, có chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và giải thoát sự can thiệp vào nội bộ xứ sở mình, chẳng những là thế lực ngoại bang mà cả với La mã Giáo hội nữa. Bởi đó ông được mời phục vụ trong triều đình của John xứ Guant, người cai trị lúc ấy. Năm 1365, Giáo hoàng Urban V quyết đòi vua Anh là Edward III phải cống nạp 1.000 cân bạc mà vua John từ ba năm trước đã hứa khi ông còn làm chư hầu Giáo hoàng Innocent III. Edward bèn cho triệu vời Wycliffe thảo một bức thư phúc đáp. Nhờ học vấn uyên thâm, tài ứng xử nhanh nhạy cùng lý luận khôn khéo, ông đã thẳng thắng bác bỏ tất cả những đòi hỏi trịch thượng vô lý đó; và nhất mực cho rằng Giáo hoàng chẳng có quyền hạn gì trên vua Anh và Nhà nước Anh cả. Để tưởng thưởng công trạng ông, Vua bèn bổ dụng ông dạy khoa Thần học tại Đại học Oxford. Về sau cũng theo sự vụ lệnh của Edward III, ông lãnh sứ mạng đi thương thuyết tại thành phố Avignon, cốt để xóa bỏ những yêu sách vô căn cứ và bất công về bổng lộc cống phẩm mà Giáo hội La mã bắt vua Anh phải tiến nạp.

Đang khi thương thảo tại Agvinon, ông đã tận mắt chứng kiến bao nhiêu sự truy đồi, hủ hoại của Giáo hoàng và hàng Giáo phẩm; ông cũng dũng cảm tố cáo sự lầm lạc của Giáo hội và cùng lúc đưa ra những công bố của mình về Giáo lý và uy quyền Giáo hội căn bản trên Thánh Kinh như sau:

1) Giáo hoàng chẳng phải là vô ngộ; những sắc chỉ của Giáo hoàng đều sai lầm vì không hợp và sát với Thánh Kinh.

2) Các linh mục chỉ là tôi tớ của Đức Chúa Trời, hầu việc Đức Chúa Trời và Hội Thánh Ngài mà thôi.

3) Tôn giáo và Chính trị không nên xen lẫn vào nội bộ của nhau.

Còn về Giáo lý cứu chuộc, ông cũng minh giảng rõ ràng: "Tôi quả quyết rằng: Tín giáo có yêu cầu bao nhiêu Linh mục hoặc Giáo phẩm cao thấp nào cầu bầu cho mình; mỗi ngày đều đặn giữ lễ Misa; bỏ nhiều tiền ra lập những dòng tu; trường học; để cả đời đi hành hương các Thánh địa; đem hết của cải để mua các chứng chỉ giải tội... Tôi thiết nghĩ các điều ấy sẽ chẳng mảy may có giá trị cứu rỗi linh hồn ai và cũng chẳng đưa ai vào Thiên đàng đâu"! Ông đứng kiên quyết trên lập trường rằng: "Hội Thánh bao gồm những nhân sự đã được tuyển chọn của Đức Chúa Trời; mà những người này không cần một thầy tư tế hay một giáo sĩ nào trong Giáo hội làm trung gian giữa họ với Đức Chúa Trời cả. Trái lại, nếu chỉ tin cậy vào công lao huyết báu vô tội của Chúa Giê-xu, Con Một Ngài và hết lòng tin thờ, vâng giữ điều răn Ngài... Thì anh em dầu nghèo mạt ở trong đời này đi nữa, hẳn cũng sẽ được Đức Chúa Trời tha thứ và ban cho nước Thiên đàng"

Biến thể thuyết, theo niềm tin La mã cũng bị ông đem ra "phẫu thuật" đến nơi đến chốn, ông bảo: "Cho rằng Bánh và Rượu trong Tiệc Thánh là thịt thật và máu thật của Chúa Giê-xu thật trái hẳn lời dạy của Thánh Kinh". Ông cũng như đại đa số các Cải chánh gia đều quả quyết rằng Bánh và Rượu nho trong Tiệc Thánh là biểu trưng cho Thân và Huyết của Chúa Christ mà thôi. Ông tuyên bố: "Christ là Đại diện có tính cách thuộc linh trong Bánh và Rượu nho trong Tiệc Thánh; Chúa Christ chỉ hiện diện trong đó cách thiêng liêng". Tự nhiên luận chứng trùng khớp với Thánh Kinh như thế, ông đã bị La mã hội chỉ trích là có chiều hướng khuynh đảo đức tin của tín đồ và là "phần tử nguy hiểm" cho Giáo quyền La mã. Song ông không hề bị lên án hay chịu xét xử ở tòa cao thấp nào, vì các bạn hữu dày đặc đầy thế lực của ông hằng theo sát và bảo hộ ông.

Wycliffe đã biên soạn nhiều sách, gồm cả bộ Tổng luận về Thần học. Ông cũng khởi đầu tiến hành một bản dịch Thánh Kinh mới dựa trên bản Vulgate La tinh đã chuyển ngữ Anh, được gọi là "Bản Thánh Kinh Wicliffe". Đây là công việc quan trọng hơn hết của ông. Mãi cho tới giữa thế kỷ thứ 14, tại nước Anh chỉ có vài chương nhỏ của Cựu Ước được dịch sang Anh văn; còn Tân Ước thì chưa có một câu nào. Bởi đó thúc giục ông hăng hái bắt tay làm công việc hệ trọng này; cốt để mọi người "được đọc Lời Đức Chúa Trời bằng tiếng mẹ đẻ của mình và hiểu được Đạo Cứu rỗi chính truyền của Chúa Giê-xu trong Tân Ước" - Theo lời tuyên bố của ông.

Ông khởi công năm 1378 dịch hết Tân Ước trừ sách Khải thị còn phần Cựu Ước thì ông mời ông Nicolas Herford, Tiến sĩ Thần học đương thời dịch hộ. Thật sự nước Anh, khi đã có bộ Thánh Kinh bằng tiếng nước mình, là một biến động và là cột mốc hết sức vĩ đại chẳng những cho mọi người đều có thể đọc và hiểu được Lời Đức Chúa Trời cách trung thực, soi đường chỉ lối cho cuộc Cải chánh về sau; mà sự kiện này còn khiến cho văn chương Anh ngữ từ đây có một hình thái sáng sủa, đáng làm nền tảng cho mọi chiều kích nghiên cứu và học hỏi tiếng Anh.

Wycliffe còn tiến rộng xa hơn, khi chủ trương rằng: Nếu muốn phấn hưng Hội Thánh của Chúa thoát khỏi sự bài xích của Giáo hoàng, thì chẳng phải chỉ tiêu cực bài xích Giáo hoàng, lên án sự lầm đường của Giáo hội, mà phải tiến lên một bước tích cực hơn nữa là phổ biến sâu rộng Lời Đức Chúa Trời, tất bật dạy các lẽ Đạo thuần chánh cho dân chúng thấm nhuần, thì mới mong đem lại kết quả được. Bởi đó khi còn dạy Thần học ở Oxford, ông đã sáng lập ra một Hội đoàn gồm những thanh niên đầy tài năng nhiệt huyết, tâm linh bùng cháy và sau khi huấn luyện họ, ông sai họ đi khắp nước Anh công bố Tin lành tinh tuyền của Chúa Giê-xu cho mọi người. Sự việc kết quả nhãn tiền: Chẳng bao lâu sau khi phát động, một nhóm đồ đệ thân tín của ông đã đứng dậy xung quanh ông tại Oxford; ông cũng thu hút sự chú ý của quần chúng bởi lời giảng dạy và diễn thuyết đầy tinh thần thuộc linh phấn khích mang dược tố kích thích của ông. Số nhân sự của ông tràn ra đến vùng Leicesteshire và rồi bùng lên, được biết là nhóm Lollards hoặc "lũ lu la" một đoàn thể ngày càng bành trướng và có tổ chức, với sự quản trị chặc chẽ và sự hổ trợ của những người đầy tình yêu Chúa và giàu có tài chánh, tinh thần hy sinh.

Hẳn nhiên là tập thể Lollards đã đứng sau lưng bảo vệ cho bất cứ tư tưởng nào được người Thủ lãnh của họ đưa ra... Họ đặc biệt tin rằng nhiệm vụ chủ yếu của chức vụ Tư tế hoặc Giáo sĩ là phải giảng dạy Thánh Kinh; và rằng Thánh Kinh phải được sẵn sàng sử dụng giảng dạy cho tất cả mọi người, mọi dân tộc trong ngôn ngữ riêng của họ. Từ đầu thế kỷ thứ 15, Hội đoàn Lollards theo hệ tư tưởng Wycliffe đã bị cấm hoạt động; đúng hơn là khi những kẻ ủng hộ họ bị chao đảo hay quay lại câu kết với Chính quyền. Nhưng trên căn bản Tập đoàn Lollards vẫn tiếp tục tồn tại và thịnh vượng ở một số địa phương tại nước Anh; và đã sửa soạn đường hướng cho sự quật khởi của Chủ nghĩa Luther trong thế kỷ tiếp sau đó.

Khi trở về Lutherworth, ông Wycliffe cũng tổ chức một Hội người Truyền giáo lưu động gọi là "Poor Priests" (Các Giáo sĩ nghèo). Họ tình nguyện sống tự túc đi khắp nước Anh truyền bá Tin lành, dạy Thánh Kinh cho giới bình dân. Số người tin theo Chúa ngày càng gia tăng. Tuy vậy những kẻ xấu miệng, ghen tỵ lúc ấy đã tìm đủ cách phá hoại, nhạo báng, đặt tên giễu cợt như nói trên. Nhưng đến năm 1384, khi Wycliffe qua đời thì ở dưới các triều Vua Henry IV và Henry V nước Anh, nhóm Lollards bị bức hại khủng khiếp. Dầu vậy thì nhờ nếp sống trong sạch, tận tụy tận hiến, hy sinh, lời giảng dạy đầy quyền năng Chúa của John Wycliffe, ảnh hưởng và đoàn thể ông không khi nào mai một được.

Năm 1382, Wycliffe với một thân xác ốm đau tiều tụy, đã đến sống ở vùng Lutherworth, miền trung, với các bạn hữu và môn sinh mình và cũng chính nơi đây trái tim ông đã tắt nghỉ.

Trong năm 1415, Giáo hội nghị Constance, người ta đã ra một nghị quyết đê tiện "Phải đào mộ Wycliffe lên, đem thiêu hài cốt ông ra tro và rải xuống sông". Năm 1428 Giáo hoàng lúc bấy giờ là Martin V ra lệnh cho Giám mục Fleming thi hành nghị quyết ấy. Cho nên thi hài của Wycliffe cuối cùng đã được "Thủy táng" ở dưới sông Avon.

Thật là một sự trả thù hèn hạ của Giáo hội cổ truyền La mã! Nhưng suy cho cùng, điều đó chỉ càng làm cho danh vị của John Wycliffe thêm sáng rỡ thêm mà thôi!.

Thi hào Anh quốc là Thomas Fuller, có bài thơ bóng bẩy ví von mô tả sự việc này như sau:

"Kẻ lưu tro tàn người (chỉ Wycliffe) đổ xuống sông Avon.

Sông Avon lại chảy về sông Severn;

Sông Severn lại tuôn tràn ra biển Manche!"

Thật là một bài thơ sâu sắc, thâm túy! Những lời lẽ này hàm ngụ ý nghĩa rằng: Nắm tro tàn của John Wycliffe là hạt giống tốt của Tin lành rồi đây sẽ lan tràn khắp thế giới! Lần theo lịch sử Cơ Đốc giáo hội chân chánh của Chúa Giê-xu và công cuộc quảng bá Tin lành khắp năm châu lục, những giọt máu và hài cốt của Wycliffe thật sự đã "trở thành những đạo quân hùng dũng" chinh phục thế giới, thì quả thật vậy!