Thuấn, Nguyễn Thị

(1916-?)

Cho mãi đến cuối thế kỷ 20 này - thời đại hậu nguyên tử, điện toán... Mà quyền phụ nữ vẫn là một đề tài còn gây nhiều tranh cãi - Điển hình là Hội nghị Thế giới về Phụ nữ lần IV diễn ra ở Bắc kinh, thủ đô Trung hoa trong 10 ngày, vào đầu tháng 9, 1995. Giữa xã hội loài người nói chung, mà thế đứng của phụ nữ còn khá chông chênh, thì một gương mặt nổi bật phía nữ lưu trong Giáo hội Tin lành Việt nam - Hẳn là đáng quan tâm lắm, phải không? Tôi muốn dành một vị trí để đưa tên tuổi của bà NGUYỄN THị THUẤN vào hàng các danh nhân Cơ đốc tại Á Đông, đặc biệt hơn nữa là tại Việt nam.

Nói về bà Nguyễn Thị Thuấn thì tín hữu Tin lành Việt nam có người biết, người không; nhưng khi đề cập đến Bà Mục sư Phạm Văn Năm thì ít ai mà không biết.

Bà Mục sư Phạm Văn Năm, nhũ danh Nguyễn Thị Thuấn, sanh năm 1916, quê ở Thị xã Cao lãnh, tỉnh Đồng tháp. Bà được sanh trưởng trong một gia đình trung lưu. Lúc còn thơ ấu, vì quan niệm hẹp hòi, nặng thành kiến nên cha mẹ chỉ cho cô đi học đến hết bậc Tiểu học, mặc dầu cô rất thông minh; nhưng trong thời điểm đó sức học của cô Thuấn kể ra như thế là đã khá rồi. Sống trong gia đình ngoại đạo, thời thơ ấu cô thường đi theo ông thân để xem người ta đánh bài; lần hồi cô cũng biết chơi các loại bài cào, cách tê, xì phé, tứ sắc; các gánh văn nghệ cải lương cũng được cô chiếu cố tận tình; tự nhiên là cô cũng thuộc lòng nhiều tuồng tích nữa.

Năm lên 6 tuổi, cô Thuấn được bà nội dắt đi nhà thờ Tin lành lần đầu tiên trong đời. Vì nhỏ quá chưa hiểu gì, nên cô thường ngủ gục trong các giờ giảng và cầu nguyện - Dẫu sao cô cũng rất thích đi, vì ở đó có đông người, vui vẻ. Nhưng lần hồi, Lời Đức Chúa Trời cũng đã gieo được vào ‘‘tâm địa’’ cô. Năm lên 10 tuổi, cô Thuấn ngỏ ý với bà nội là cô muốn cầu nguyện tin Chúa, nhưng bà nói chưa nên công khai làm điều này, vì cha mẹ chưa tin. Song hay tin rằng cha mẹ cô ở Cà mau đã tin Chúa và chịu Báp-têm rồi; thì cô mới dám xin ông bà Truyền Đạo Nguyễn Tấn cầu nguyện để cô tiếp nhận Chúa; và 2 tuần sau đó Giáo sĩ Robinson đã làm phép Báp-têm cho cô, năm 1927.

Từ khi trở thành con cái Chúa, cô Thuấn như vừa được một tặng phẩm vô giá, cô vui mừng lắm mà hăng say làm chứng về ân cứu độ của Chúa cho mọi người, bất kể người nghe là lớn tuổi hoặc các bạn bè cùng trang lứa; khiến cho nhiều người nhạo báng cô là kẻ "điên đạo". Những khi bị chống đối, cười chê thì cô hết sức ngã lòng. Tuy nhiên theo ân phúc Thần Hựu và dưới tầm nhìn của Thiên Chúa, Ngài muốn thu dụng cô gái có lòng sùng Đạo này cho công việc nhà Ngài trong tương lai. Năm 1932, Hội Thánh Cao lãnh tổ chức một cuộc bồi linh. Cụ Giáo sĩ Jeffrey và Mục sư Nguyễn Hữu Khanh là hai diễn giả chính. Đặc biệt Chúa dùng bài giảng của Mục sư Khanh dường như để riêng an ủi cô Thuấn đang lúc ngã lòng; và sứ điệp đó cũng thôi thúc cô mau dâng tất sanh mình để làm đồ dùng của Chúa... Thì cô Thuấn chẳng khác nào "cá gặp nước" vậy! Lòng cô cũng nôn nao tự hỏi: "Làm sao mình có thể trở nên một đày tớ của Chúa được?", mặc dầu người hầu việc Chúa phải chịu đựng nhiều nổi thiếu thốn, thử thách, hiểu lầm... Thì cô vẫn cho rằng được phụng sự Chúa là một vinh dự to lớn. Tuy nhiên trước mắt, cô chỉ biết lo trau dồi đời thuộc linh mình ngày càng trưởng tiến hơn; và yên lặng chờ đợi ý Chúa tỏ ra.

Cô Thuấn là người có nhiều biệt tài Thiên phú, rõ nét nhất là tài làm thơ phú, cô cũng có một trí nhớ phi thường. Cô có thể đọc thuộc lòng nhiều chương Thánh kinh; xướng họa thi thơ với các bậc lão thành. Cũng chính nhờ "bộ nhớ" tốt đó, cô đã dám đứng lên giữa Hội đồng nhiều người để đọc Thi thiên 23; rồi cũng nhờ thuộc lòng lời Chúa mà cô được gặp gỡ và kết duyên với "Thầy" Phạm Văn Năm, một sinh viên Thánh kinh Học viện Đà-nẵng năm 1935.

Nghe được "tiếng gọi truyền giáo" cũng là một bước ngoặt trong hành trình phục vụ của cô Thuấn. Lời làm chứng và thuyết trình về công cuộc truyền giáo của Truyền Giáo Trịnh An Mẹo và Giáo Sĩ Jackson trong kỳ Hội đồng tổ chức ở Hội Thánh Sa-đéc năm 1934; đồng thời Tiểu sử nhà truyền giáo trứ danh David Livingstone, hai sự việc này như chiếc đòn bẩy để cô mạnh mẽ dấn thân vào lãnh vực này. Khi cô Thuấn đã có "chiến hữu" đồng hành, năm 1938 ông bà lên Cao nguyên lần đầu. Mục kích cảnh sắc trước mắt, ông bà rất thỏa mãn sau bao ngày tháng mong ước; nhưng họ cũng đau xót trước tình trạng đói nghèo thể xác, khốn khổ linh hồn của đồng bào Thượng quá sức.

Khởi đầu chức vụ, bà cùng trợ lực với ông hầu việc Chúa ở Hội Thánh Trà ôn, rồi Phú nhuận. Sau khi tốt nghiệp hai vị về Hội Thámh Châu đốc. Năm 1941, ông bà Mục sư Năm mới thực thụ truyền giáo ở vùng Cao nguyên, Đà-lạt. Bây giờ ở đây là chốn rừng thiêng nước độc mà người ta gọi là Nijiring (Di-linh). Sau vài năm công tác, thì Mục Sư Năm đã vướng phải bệnh sốt rét rừng (malaria); còn phần bà thì cũng không tránh khỏi cơn bệnh hiểm nghèo. Song nhờ ơn Chúa đã chữa lành cho hai tôi tớ Ngài.

Tình hình ác chiến giữa Pháp và Việt minh lúc đó, ông bà dời về hầu việc Chúa ở Vĩnh long. 1943-1947 ông bà Năm trở lại trụ sở cũ của mình. Tại đây hai vị được dịp phục vụ Chúa chung với các vị Mục sư Phạm Xuân Tín, Mục Sư Hà Sol, Giáo sĩ Jackson, Mục Sư Lê Văn Trầm... Năm 1954 ông bà Mục Sư Năm mở giảng Tin lành ở Tùng Nghĩa là khu định cư các sắc tộc Thái, Thổ, Mèo, Mường, Nùng.

Bà Mục Sư Năm cũng dự phần dịch Kinh Thánh sách Phi-e-rơ, 100 bài Thánh ca, Đời sống Chúa Cứu Thế từ Việt ngữ ra tiếng Kờho. Một trận đau thập tử nhất sinh kéo đến với bà, nhưng Chúa đã thương xót cứu chữa qua một món thuốc "bí truyền"... "gà xào với gừng và giấm" bà dùng hai lần là bệnh tuyệt luôn! Liền sau đó bà cùng Đoàn truyền giáo băng đèo, lội suối thăm giảng trong rừng sâu suốt 18 ngày đêm mà vẫn an toàn. Dầu là phụ nữ, nhưng bà Năm cũng không thua sút các mày râu, bà xông pha không ngại hiểm trở, vượt thác băng bè tre, lưu giảng, làm thông dịch viên... Kết quả lần đó bà bị té ngựa. Nhưng cũng nhờ cánh tay Chúa nhân từ bà vẫn an nhiên vô sự!

Năm 1960, bà cùng ông về làm Giáo sư tại Thánh Kinh Thần Học Viện, Nha trang. Thời gian này do chính nhu cầu của Viện, bà Năm được cử đi du học ngành Quản thủ Thư viện tại Chủng viện Thần học "The Union Seminary" ở Yoatmal, Ấn độ, từ 10-1961 đến 3-1962. Xong khóa học bà Mục Sư Năm cũng có dịp đi thăm và làm chứng, giảng dạy ở nhiều Hội Thánh Chúa tại Ấn độ. Nhất là bà có thuận tiện tham quan cơ sở truyền giáo "Mukti Mission" của bà Pandita Rambai, người được xưng tụng là "Nữ anh hùng của Hội Thánh Ấn độ", ở Poona.

Chúa cũng dùng bà Mục Sư Năm dạy các lớp Thánh kinh hằng năm, ở nhiều Hội Thánh trong nước, phía Nam thì Sàigòn, Vĩnh long, Long xuyên, Mỹ an, Rạch giá, Cà mau... Ngoài Trung thì Nha trang, Đà nẵng, Trường an, Đại an, Qui nhơn, Quảng ngãi.. Ở đâu, lúc nào bà cũng hoàn thành công tác được giao phó rất xuất sắc.

Bà Mụv Sư Năm cũng được cử đi dự khóa huấn luyện và hội thảo về phương pháp phổ biến Thánh Kinh ở Singapore, năm 1967; rồi khóa học phương pháp phiên dịch Kinh Thánh tại thành phố Banglamung, Thái lan, năm 1971. Bà cũng tháp tùng phái đoàn tham dự Hội nghị Quốc tế về Truyền giáo do Đoàn Truyền giáo Billy Graham bảo trợ, mở ra tại Thành Phố Lauzanne, Thụy sĩ, năm 1974; bà đi với tư cách là Tổng Trưởng ban Phụ nữ Tin lành Việt nam.

Nói đến Bà Mục Sư Năm mà không nói đến Phụ nũ Tin lành là một thiếu sót lớn. Vào những năm đầu chức vụ, ngoài việc phụ giúp cho chồng là Mục Sư Năm, trong những trang báo cũ của Hội Thánh xa xưa, tôi đã thấy thỉnh thoảng bà Năm cũng đã "khuấy động" giới nữ ở miền Nam bộ rồi. Khi ông bà về Sàigòn để lo chương trình Truyền Đạo Sâu Rộng, thì bà đã tổ chức Ban Phụ nữ Tin lành Thủ đô; rồi Phụ nữ Tin lành Đông Nam phần. Đáng kể nhất là Phụ nữ toàn quốc với Hội đồng lịch sử mở ra năm 1974, ở Cô nhi viện Tin lành Nha trang. Khi đọc lại lời bà hồi tưởng: Lúc được Ban Trị sự Tổng liên chấp thuận cho bà viết thư cổ động cho Hội đồng Phụ nữ Toàn quốc, thì bà vừa đánh máy vừa khóc vì sung sướng Chúa đã nhậm lời... Ai mà không cảm động cho tấm lòng của bà đối với Phụ nữ Tin lành?

Từ năm 1975 đến 1992, dấu chân của cố Mục sư Phạm Văn Năm hằn xuống ở những nơi như San Clemente, Chicago, Long Beach, Anaheim, Pháp, Hòa lan, Thụy sĩ, Tây Đức, Liên xô, Ai cập, Úc châu... Tôi tưởng với thân thể gầy yếu đó, ông không thể nào hoàn tất công tác nếu không có sự giúp sức và động viên của người hiền thê này đâu. Cho mãi đến hôm nay sau khi Mục Sư Năm đã về Nước Chúa, bà, với tuổi gần bát tuần nhưng nhịp độ năng nổ tất bật cho công việc Nhà Chúa nơi bà vẫn không suy giảm. Mặc dầu bà bị chứng cao huyết đe dọa không ngừng.

Trong đời sống phục vụ, xét riêng bà Mục Sư Năm, là người lúc nào cũng tuân theo các quyết nghị của Trung ương, rất thanh liêm, không "dĩ công vi tư"; giữ chữ tín, lời hứa dầu đối với người sắc tộc đơn sơ cũng vậy. Bà hết sức chống đối tà giáo. Bà nói với người đưa ra ngày giờ Chúa tái lâm: "Tôi rất phục tài nghiên cứu của ông, nhưng tôi không tin!". Khi bị ông này hăm dọa thì bà đáp "Chết thì chết chớ tôi không tin!". Bà cũng ghét việc thờ lạy hình tượng. Khi thăm viếng xứ Palestine, có những kẻ lợi dụng quê hương Chúa để làm tiền, mê hoặc kẻ nhẹ dạ. Gương trong sáng của bà Mục Sư Năm sẽ mãi mãi phấn khích những người noi theo dấu chân bà để hầu việc Chúa.