SOL, Hà

(1904-1959)

Ông Hà Sol là người có hai điểm "số một". Một, ông là người đầu tiên tin nhận Chúa ở khu vực Đà lạt - Di linh, do công cuộc truyền giáo Tin Lành đem đến; và hai, ông là Chủ nghiệm đầu tiên của Giáo hạt Thượng du thuộc Hội Thánh Tin Lành Việt Nam ở miền Cao nguyên.

Ông Hà Sol sanh năm 1904, là một người thuộc sắc tộc Kơho (là một trong 54 sắc tộc ở Việt nam theo điều tra thống kê, năm 1994). Tuổi thanh niên ông Hà Sol ra làm việc cho người Pháp ở Đà lạt. Sau đó ông làm sở công chánh giao thông; người ta có lần đưa ông vào chức vụ Bang tá, nhưng ông đã từ chối. Đức Chúa Trời công bình chẳng phân biệt ai, nên Ngài đã có chương trình riêng cho đời sống ông. Trong khi đang làm việc kinh tế, ông Hà Sol có dịp tốt được gặp Giáo sĩ H. A. Jackson, và Giáo sĩ này đã hết sức nhẫn nại dắt đưa ông Hà Sol đến với Chúa. Rồi ông Hà Sol trở nên một phiên dịch viên đắc lực và hết lòng hợp tác với Giáo sĩ trong công cuộc truyền giảng Tin Lành cho chi phái ông ở địa phương này. Ông Hà Sol ngày càng trưởng tiến trong sự hiểu biết yêu mến Chúa cũng như mạnh mẽ trên đường học tập phục vụ Ngài và đồng bào sắc tộc mình. Chúa ban cho ông cũng được hiệp tác với các Giáo sĩ và các Mục sư Phạm Văn Năm, Mục sư Phạm Xuân Tín đặt ra chữ Kơho, soạn sách vần, biên soạn nhiều sách Đạo và nhất là công tác phiên dịch Thánh Kinh ra ngôn ngữ này. Ông cũng từng giữ chức Giáo sư Trường Thánh Kinh Kơho, Đà lạt lâu năm.

Ông Hà Sol là người rất thông minh, có tài ăn nói lưu loát, ông cũng có biệt tài về ngôn ngữ và giảng dạy. Ông có thể công bố Lời Chúa bằng tiếng Kơho, Srê, Chru và cả Việt ngữ nữa. Cách giảng dạy của ông rất hấp dẫn, sâu nhiệm và tươi vui. Ông lại biết dùng cả ca dao, thi thơ trong bài giảng nên dễ lôi cuốn người nghe. Ông có tâm tánh rất khao khát học hỏi Lời Chúa và quan tâm hết mực đến việc nhân rộng ảnh hưởng Tin Lành cứu rỗi tội nhân. Là một vị Chủ nhiệm phải chuyên trách trên 100 Chi Hội miền Thượng, hơn 10.000 tín hữu, gồm nhiều chi phái, có lắm ngôn ngữ; song đó không phải là trở lực để cho ông không thể đi đến từng khu vực một giảng dạy, thăm viếng, khích lệ, nâng đỡ các tôi con Chúa trong phạm vi nhiệm vụ của mình đâu. Dầu bị sốt rét rừng kinh niên và yếu gan, nhưng ông Hà Sol không hề bỏ dở công tác Chúa giao cho một giờ phút nào. Ông luôn treo gương sáng chói cho những ai tiếp xúc với ông qua tâm tình hầu việc Chúa được linh cảm, hy sinh không quản gian lao vì bầy chiên Chúa; luôn chụp bắt cơ hội tốt để làm xong sứ mạng mình.

Vì đổ hết tâm lực cho chức vụ nên tháng 3 năm 1959, dầu thấy trong người đã yếu, nhưng ông cũng hiệp cùng Giáo sĩ đi vào khu làng Dạtơrơdê để mở lớp Thánh Kinh ngắn hạn, nên bệnh tình ông bộc phát càng nặng hơn. Ông phải nằm bệnh hơn 6 tháng, song không hề than vãn, rên rĩ, nghi ngờ tình yêu của Chúa bao giờ! Khi được đem vào Bệnh viện Cơ Đốc ở Phú Nhuận, Sài gòn thì ông qua đời bình an trong tay Chúa ngày 3-9-1959, thọ 55 tuổi. Thi hài ông đã được đưa về an táng ở ấp Srêđăng, Di linh, trong một buổi lễ rất cảm động tại Nhà thờ ở ấp này; là nơi mà ông Hà Sol đã đổ nhiều công khó, mồ hôi, nước mắt xây dựng.

Thật Tin Lành là quyền năng siêu nhiên của Đức Chúa Trời để cứu chuộc mọi kẻ tin. Trước là người Y-sơ-ra-ên, sau là các dân tộc nước ngoài, trong đó có đồng bào Việt nam, đồng bào các sắc tộc trên các miền cao nguyên Việt nam nữa.