- Được viết bởi: Nguyễn Thiên Ý
- Chuyên mục: Danh Nhân Cơ Đốc

ZWINGLI, HULDREICH
(1484-1531)
Tên của tiên sinh có hai cách viết Ulrich hoặc Huldreich Zwingli. Ông là một nhà cải cách Giáo hội Cơ Đốc lừng danh, người Thụy Sĩ. Ông đã sống và hy sinh mạng sống mình chỉ vì mục đích cao cả đó.
Huldreich Zwingli sanh ngày 01-01-1484, tại làng Wildhaus, trong thung lũng Taggenburg, hạt Grall, nước Thụy Sĩ. Cha mẹ ông thuộc thành phần khá giả nên sớm cho ông theo đòi đèn sách bút nghiên. Lúc đầu ông theo học ở Basne, Berne, rồi đến Vienne, Paris với vị Giáo sư Wittenbach. Ngay từ khi còn thơ ấu Zwingli đã phát lộ ra là một đứa trẻ có năng khiếu, bẩm sinh thông minh, ham thích thơ văn, đọc sách và nhất là các cổ văn Hy-lạp và Hi-bá-lai ngữ. Ông khởi sự đọc các tác phẩm của các Giáo phụ. Rồi ông hành chức tuyên úy cho các thương gia Thụy Sĩ tại mặt trận Novara (1513) và tại Marignano (1515). Như là một hệ quả phải đến, ông đã khước từ những tệ nạn và thói quen xấu đang thịnh hành của những binh sĩ và thương gia thời đó.
Trước khi làm Linh mục, ông đã làm Tuyên úy cho quân lính đánh thuê của Giáo hoàng. Chứng kiến cách sống phóng túng của các đội quân ô hợp và những xấu xa bại hoại của họ, ông rất bất mãn. Từ đó ông cổ võ, hô hào thanh niên nước ông đừng gia nhập quân viễn chinh làm tay sai vô ích cho Giáo hoàng nữa! Đặc biệt khi nghiên cứu sâu rộng các án văn cổ bất hủ, ông hết sức quan tâm đến Lời Đức Chúa Trời và để thì giờ đào sâu Thánh Kinh. Bởi đó người ta không thấy làm lạ kiến thức tường tận lời giảng dạy của Sách Thánh cách đúng đắn. Ông kiên nhẫn sao chép lại các thư tín của Sứ đồ Phao-lô và học thuộc lòng các sách vở của các Giáo phụ thì khỏi phải nói, ông đã hiểu rõ như bàn tay của mình.
Giai đoạn năm 1515, ông làm Tuyên úy cho toán binh sĩ đến tham dự trận Marigname cũng có nhiều sự kiện đáng nói. Ông giã từ Glarus đến ở Finseideln, tại đây có nhiều tín hữu đi hành hương vì họ được tuyên truyền sai lạc rằng, các hang động ở đó rất linh thiêng. Đó cũng là động lực hay sức đẩy làm cho ông nung nấu tâm can mong muốn mau mau giải thoát Giáo hội khỏi sự mê tín dị đoan. Một nhà thờ kia có tượng bà Ma-ri do các tu sĩ chế tạo khéo thế nào mà có thể nhấp nháy đôi mắt được, khiến cho tín đồ càng tin tưởng hơn! Ngay thời điểm mà Martin Luther vẫn còn là một tu sĩ trung thành với La mã giáo hàng ngày kiên trì ăn chay, ép xác, khổ tu trong tu viện, thì các sự mê muội, bại hoại của tín đồ đã là mối bức xúc thúc đẩy Zwingli sớm Cải chánh Giáo hội rồi.
Cũng trong năm 1515, Zwingli gặp gỡ Erasmus và chịu ảnh hưởng sâu xa bởi tư tưởng tiến bộ của ông này. Sau khi chuyển đến Einsiedeln, ông đã đi bước đầu bắt tay vào việc triển khai những Giáo lý Tin lành, sau khi ông đã điều nghiên một cách cẩn thận và nghiêm túc những tài liệu mà các Giáo phụ, Sứ đồ lưu lại. Năm 1518 ông làm Linh mục cho nhân dân hạt Great Minster ở Zurich. Ông chuyển về dạy nguyên văn Tân Ước và cũng khai mở Cải cách Giáo hội tại Zurich nữa. Ông đã có lần làm việc với Hội đồng Chính quyền thành phố này.
Zwingli ngày càng sâu nhiệm thêm Lời Chúa và Chân lý Cứu rỗi bởi đức tin do các công trình giải kinh của Erasmus đưa đến. Nhờ đó sự giảng dạy Thánh Kinh có một luồng sinh khí và thượng vị thuộc linh mới mẻ, cao cả, thu hút đông đảo những thính giả mến mộ. Từ năm 1518 - 1531, ông chăn bầy ở thành phố Zurich, và cứ tiếp tục thi hành thánh chức này cho đến khi qua đời. Khi vừa đến Zurich, thì ông đụng phải một tay đi rao bán cái mà người ta thường gọi là "Chứng chỉ giải tội"; ông tự nhiên mạnh mẽ phản đối và vận động chính quyền cùng nhân dân thành phố này mau tống khứ tên ấy đi! Ông cắt đứt liên hệ với La mã giáo từ năm 1519; cũng là năm cuộc Cải chánh ở Thụy Sĩ khởi đầu. Nhờ sự yểm hộ của chính quyền địa phương, ông đã lãnh đạo một phong trào Cải cách tận gốc cả chính trị lẫn tôn giáo rất hữu hiệu. Các bài thuyết giảng Thánh Kinh Tân Ước của ông cũng là những ánh đuốc rạng soi cho công tác lớn lao này. Toàn thể nội dung bài giảng Tin lành của ông có những điều như sau:
- Cực lực bài bác Giáo lý Ngục luyện tội.
- Việc cầu nguyện với bà Ma-ri và các thánh là vô giá trị.
- Thủ tiêu "Chứng chỉ xá tội" (xá miễn, giải tội).
- Tội nhân xưng công bình chỉ do tin cậy nơi công lao huyết báu Chúa Giê-xu chớ không phải bởi việc lành hoặc công đức riêng.
Người ta chỉ cần bấy nhiêu. Hẳn nhiên ông được toàn thể tín hữu trong nước Thụy Sĩ và các nước láng giềng tung hô một cách nồng nhiệt. Dĩ nhiên phần nào Zwingli cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp một vài Giáo lý do Martin Luther nhà Cải chánh lớn đưa ra.
Tháng tư năm 1522 ông phát hành tác phẩm Thần học đầu tay của mình, nhan đề "Von Erkies en Fryheit der Spysen", rồi tới tháng 8 cùng năm đó, ông lại ra thêm quyển "Archilales", luận giải về sự phóng thích tín đồ Cơ Đốc khỏi quyền hành của Giáo hoàng và các Giám mục. Đương nhiên ông Giám mục ở Constance, như ngồi phải lửa, đã rất tức giận, vận động chính quyền hãy bịt miệng ông lại và trục xuất ông, đình chỉ công tác ông lập tức, nhưng chẳng ai đem lại kết quả như ý đồ của ông ta. Zwingli còn dám ra mặt thách thức một cuộc tranh luận căn cứ trên 67 điểm giáo lý mà ông đã biên soạn sẵn; trong đó vạch rõ những điều sai lệch của La mã giáo và những chi tiết đúng khít với Thánh Kinh của Cải chánh giáo. Cuộc hùng luận này đã quy tụ được 600 vị thuộc giới thức giả, cũng có Phó Giám mục Faber tham dự nữa. Năm 1523, chính quyền làm trung gian công bố Zwingli đã toàn thắng qua hai cuộc tranh luận khét tiếng ấy, nên dân chúng cả trong đạo lẫn ngoài đời đều rất hồ hởi phấn khởi. Toàn bộ ông Zwingli đã lập luận trên cơ sở này:
- Tất thảy chân lý Tin lành đều nằm trong Thánh Kinh.
- Giáo hoàng chẳng vô ngộ và cũng không có quyền thuộc linh.
- Giữ lễ Misa không có mảy may tác dụng gì.
- Sự thề nguyện sống độc thân của giới thăng lữ, giáo phẩm là vô lý.
- Một mình Giê-xu Christ là Đối tượng và Đấng Trung bảo duy nhất của đức tin Cơ Đốc nhân.
Năm 1524 Zwingli kết hôn với cô Anne Mayer, nhũ danh là Reibard tại Thánh đường thành phố Zurich. (Lại một tư liệu khác thì nói năm 1522 Zwingli bí mật hết hôn?). Bà Anne đã cho ông 4 người con. Từ đó mà đi chính quyền hủy bỏ mọi sắc lệnh truy tố ông là tà giáo và cấm chỉ không cho ai công bố một Tin lành nào khác.
Cũng trong năm 1523 một cuộc tranh luận thứ hai nổ ra với chủ đề "Tin lành và Luật pháp". Lần này phong trào Cải chánh tiến tới một giai đoạn thử thách khá nghiêm trọng, bởi những kẻ từng thua cuộc trước kia trong giới đại học là hai ông Corebe và Manx, người sau đó đã bị chết đuối khi đi tắm. Khi Zwingli đại thắng trong cuộc tranh cãi khác tại Berne năm 1528, và các vùng Basle, Grall, Schaffhausen và Constance... Tất cả đều đứng đằn sau phe Cải chánh. Khi Zwingli và Luther đi đến chỗ bế tắc trong cuộc tranh chấp giáo lý của họ xoay quanh vấn đề Tiệc Thánh tại Marburg (1529), thì tự nhiên là các phong trào Cải chánh Giáo hội mất đi sự yểm trợ của các lãnh chúa người Đức.
Năm 1525 người ta đưa ra quyết định dẹp bỏ hết các tranh, ảnh, tượng, di vật thánh ra khỏi các nhà thờ. Các tu viện thì được trưng dụng vào việc giáo dục, mở mang dân trí cho kẻ giáo lẫn người lương tại Thụy Sĩ. Zwingli không đồng ý với Luther về Tiệc Thánh. Vì Luther tin thuyết "Thánh thể đồng tái hiện" (Consubstantiation), chủ trương rằng, khi tín hữu dự Tiệc Ly thì ăn được thịt thật và uống được huyết thật của Chúa Giê-xu cách mầu nhiệm mà mắt thường không thấy được. Còn Zwingli thì ngược lại chủ trương rằng; Tiệc Thánh với Bánh và Rượu nho; chỉ là kỷ niệm về sự thương khó và chịu chết của Chúa Christ thôi. Bởi thế hai ông chia rẽ nhau và lập ra hai phái.
Năm 1531 hai phái La mã và Cải chánh sau nhiều lần tranh cải với nhau về giáo lý bằng lời và sách vở, bút chiến không phân thắng bại, tại các vùng ở Zurich và Berne họ quyết định kình chống nhau bằng vũ lực. Bấy giờ Zwingli đi làm tuyên úy cho đạo quân Tin lành Cải chánh; vì đoàn quân của ông chỉ bằng 1/4 quân số so với quân đội La mã giáo có số binh lính áp đảo, nên bên Cải chánh đã thảm bại nặng nề. Trong khi Zwingli đang an ủi một binh sĩ bị thương hấp hối, thì ông trúng đạn, thương tích nặng nề và chết ngay sau đó. Phe La mã giáo được 5 đội quân Thụy Sĩ trú đóng trong rừng già gởi quân lực mình đến yểm trợ chống lại phe Zurich. Zwingli tử trận trong cuộc ác chiến ở Kappel, năm 1531. Địch quân liền lập tức chặt đầu ông, đem cả thủ cấp lẫn thi hài ông nữa, để bêu xấu giữa các quảng trường, rồi họ thiêu ra tro để trả thù!
Hầu hết những biên soạn của Zwingli đã dành cho việc biện luận giáo lý. Tác phẩm chính của ông như: "Commemtery on True and False Religion" (1528), đây cũng là một bộ hệ thống Thần học đã tiếp sức tạo tiếng vang đáng kể cho Cải chánh. Bạn thân và cũng là học trò ông, Bullinger, đứng lên thay thế ông.