- Được viết bởi: Nguyễn Thiên Ý
- Chuyên mục: Danh Nhân Cơ Đốc

WESLEY JOHN
(1703-1791);
CHARLES
(1707-1788)
Cả hai anh em Wesley cùng nhau được dựng đài tưởng niệm tại tu viện Westminster, nước Anh. Đó là một bức tường mang một huy hiệu trình bày tóm tắt công nghiệp của hai người nổi tiếng này. John và Charles Wesley là hai anh em ruột cùng là những giáo sĩ truyền bá Phúc Âm đầy tài năng, và là sáng lập viên của Hội Thánh Giám Lý (Methodists). Cả hai đều là những người có biệt tài về giảng dạy; mỗi người đều đóng góp theo tài ba ân tứ đặc biệt của mình. John là nhà tổ chức và điều hành Hội đoàn vào thời điểm mà cao trào tiến bộ Giáo hội đang lên cao. Còn Charles là một ca sĩ nổi tiếng thu hút người nghe; ông có một giọng hát ngọt ngào, truyền cảm, là một "bửu vật quý hiếm" mà Giáo hội Giám lý từng sản sinh và sở được lúc ấy. Các bản Thánh ca do Charles sáng tác đã trở thành một di sản khá phong phú và sâu sắc về mặt thuộc linh được Hội Thánh chung toàn thế giới ưa chuộng.
John và Charles Wesley đều chào đời trong tư thất của vị Mục sư sở tại ở Epworth, vùng Lincolnshire, miền Bắc nước Anh. John sanh năm 1703, còn Charles ra đời 4 năm sau đó (1707). Thân phụ của họ, ông Samuel Wesley, là một Mục sư dày công đưa đời thuộc linh Giáo hội lên cao, nhưng ông bà nội của họ lại không theo Đạo Tin Lành. Mẫu thân của hai người , bà Susanna là một nữ lưu tài đức, gương mẫu có tiếng, một người mẹ đã tạo ảnh hưởng trên các con cái mình một cách phi thường. Ông bà Samuel và Susanna Wesley có 19 người con, nhưng 8 người đã về Nước Chúa lúc còn thơ ấu. Ông bà Wesley là Mục sư của Giáo hội Anh quốc, nhưng vì phụ cấp lúc bấy giờ quá ít ỏi so với gia đình đông đúc của họ, nên ông bà phải lao động để tăng thêm thu nhập cho gia đình rất nhọc nhằn. Dầu vậy, ông bà Wesleys cũng đã hết lòng hầu lo công việc Chúa. John Wesleys đã được Chúa cứu thoát chết sau một vụ hỏa hoạn khủng khiếp vào năm 1709, lúc ông mới 6 tuổi. Sau này ông thường nói bóng gió rằng mình là một que củi được Đức Chúa Trời rút ra khỏi đống lửa.
Trước hết John học ở trường Charlerhouse tại Luân Đôn, rồi tại trường Hội Thánh Đấng Christ, và vào Đại học Oxford. Ông rất say mê triết học và cổ ngữ, nên đã để khá nhiều thì giờ học chuyên sâu các môn này. Đời sống tin kính của John đặc biệt chịu ảnh hưởng bởi tác phẩm "Học theo gương Chúa Giê-xu" của Thánh Thomas ở Kempis. Ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Christchurch, Oxford vào năm 1724; được phong chức chấp sự trong Giáo hội Anh năm 1725, đến năm 1728 thì thọ lãnh chức Mục sư. Ông là hội viên và giảng nghiệm viên trường Đại học Lincoln College ở Oxford. Cùng thời gian đó ông tham gia Đoàn Sinh Viên Học Sinh Tin Lành ở vùng Oxford; và từ đây ông quyết tâm sống một cuộc đời thánh khiết, dâng mình trọn vẹn cho Chúa.
Sau khi thụ huấn qua các học đường khác nhau, mỗi người lần lượt bước chân vào Đại học Oxford. Charles tham gia vào Giáo hội Đấng Christ năm 1726, ngay sau khi John đã hoàn tất việc học của ông ở Oxford thì năm 1729 Charles mới vào Đại học này. John được tuyển chọn vào trường Cao Đẳng Lincoln. Trong khi John đi khỏi Oxford một thời gian, và phục vụ như một thầy tư tế cho thân phụ ông, thì năm 1729 Charles khởi sự gia nhập "Hội đoàn các thánh" bắt đầu tổ chức những buổi thờ phượng, học Thánh Kinh có phương pháp với các đồng bạn mình. Lúc trở về John đã đứng lên nắm vai trò lãnh đạo nhóm người này. Charles là một người tiên phong đã hướng dẫn việc học Thánh Kinh chuyên sâu theo phương thức của George Whitefield khi ông được hoán cải thuộc linh. Nhóm sinh viên này lúc đầu có 25 người, được gọi là nhóm "Methodists" (nghĩa là những người có phương pháp) và từ liệu "Methodists" xuất hiện từ đó. John biệt mình học Thánh Kinh bằng Hi văn. Ông đã tập thói quen kiêng ăn ngày thứ tư và thứ sáu hằng tuần, để nhiều thì giờ cầu nguyện, suy niệm, dự Tiệc Thánh; cùng để thì giờ đi thăm viếng, làm chứng, giúp đỡ những xóm lao động nghèo, những tù nhân trong các lao xá để giảng Tin Lành cho họ.
Năm 1735 (hoặc 1737) hai anh em Wesley vượt đại dương đến tiểu bang Georgia, Bắc Mỹ để đảm nhận một sứ mạng với Hội Truyền giảng Phúc Âm. Charles trở thành thư ký cho Thống Đốc của thuộc địa là ông James Oglethorpe, đồng thời làm Giáo sĩ tình nguyện ở đó 2 năm. Đang trong cuộc hành trình bằng tàu thủy đến Mỹ châu, và ngay tại Georgia, anh em Wesley đã gặp một số Cơ Đốc nhân phái Moravian. Một người trong nhóm này là Spengubergs hỏi một câu làm thức tỉnh tâm linh John: "Chúa Giê-xu đã làm Cứu Chúa của ông chưa?". Hai anh em Wesley vẫn không thỏa mãn với kết quả truyền giáo của mình, và quay về Âu châu năm 1738. Thâm tâm họ đã chịu cảm động cách sâu xa bởi một người Moravian là Peter Potholer, mà trong vòng 3 ngày liên tiếp mỗi người đã nhận được kinh nghiệm của một đời sống Cơ Đốc nhân đầy Thánh Linh, Charles ở tại Whitsunday và sau đó là John vào ngày 24-5-1738, thì tâm linh hai người đã được sưởi ấm một cách lạ lùng. Sự cố này diễn ra tại một buổi thờ phượng ở giáo đường St. Paul, ở đường Aldersgate, Luân Đôn; khi "Lời tựa" giải nghĩa thư tín La mã của Luther được đọc lên cho Hội chúng hiện diện lúc đó. Nó thực chứng có một bước đổi thay quan trọng của phong trào hồi sinh việc rao truyền Tin lành. Sau này được họ ghi lại "Điều kỳ diệu không ngờ được thực sự xảy ra trong một căn phòng nhỏ hệ trọng đối với nước Anh hơn tất cả những chiến thắng của tướng Pitt ở trên đất hay trên biển nữa".
Được sự thôi thúc từ Lời Chúa do các tín hữu Moravian, họ như có một sức bật khích lệ trong sự đầu phục và hiến mình hoàn toàn cho Chúa cách mới mẽ hơn. Bạn thân của John là ông Peter Potholer cũng rất quan tâm đến đời thuộc linh ông, cùng nâng đỡ ông rất nhiều. Năm 1738, Charles rồi đến John không còn hồ nghi gì nữa, họ đã đi đến chỗ quả quyết tin cậy Chúa và được bình an nội tâm, cũng như nhận được Báp-têm bằng Thánh Linh cách sung mãn. Họ mở hướng cho chức vụ mới với những mùa vụ bội thu trong cánh đồng lúa chín của Chúa. Khi đó anh em Wesley chịu thuyết phục chắc chắn để thấy được khải tượng này: "Tất cả những sự đòi hỏi bức xúc nhất của nhân dân Anh là phải được nghe Phúc Âm thuần khiết của sự cứu rỗi". Trong khi một số người khác cùng tuổi tự giam mình trong sự hư mất, bại hoại, thì anh em Wesley tin rằng họ đã nhận được tiếng Chúa gọi đi từ nơi này đến nơi khác để công bố Tin Mừng. Họ đã giảng dạy trong các Nhà thờ, nơi mà các học sinh sẵn sàng để nghe họ. Nhưng thường hơn, khi sự chống đối việc làm của họ nổi lên, và chỉ có hai khu chợ hay các nơi công cộng, đám đông mới có thể nghe được sứ điệp của họ tuyên rao. Kết quả là có hàng hàng lớp lớp người kéo đến với Chúa trong thời điểm các vùng cách mạng kỹ nghệ ngày càng mọc lên và phát triển.
Năm 1749, Charles Wesley kết hôn với Sarah (Sally) Gwynne, ái nữ của ông Chưởng lý xứ Welsh và tạo dựng gia đình ông ở Bristol. Trải qua 20 năm họ làm cho Giám Lý Hội tiến triển vượt bậc, tức là những gì người ta từng chứng kiến lúc đầu ngay trong căn phòng đó. Ông chuyển đến Luân Đôn năm 1771, và chia sẻ chức vụ truyền giảng ở nhà thờ City Road. Charles được nhìn nhận như là một trong những người viết Thánh ca đầy ân tứ và không hề suy giảm mà Anh quốc và thế giới Cơ Đốc giáo đã từng biết đến. Ông đã xuất bản hơn 7000 bài biệt lễ ca và thơ văn. Rất nhiều trong số đó đã đạt đến trình độ tiêu chuẩn rất cao về ý tưởng và âm thanh.
John Wesley là người của Đức Chúa Trời. Ông là một sứ giả phục hưng, là lãnh tụ của một hệ phái Tin lành Cải chánh lớn, nên Chúa hằng theo dõi ông mỗi bước, Ngài ban cho ông đặc tài hùng biện lôi cuốn, giảng giải Thánh Kinh rất uyên bác nhờ nhiều năm tháng miệt mài học tập; lời giảng của ông được hơ nóng bởi Lửa Thánh Linh. Tại cuộc họp đầu năm 1739 ở đường Peter Lane, thành phố Luân Đôn mà John Wesley cùng 60 tín giáo kể cả Anh giáo và hệ phái Moravian nhận được quyền phép từ trên cao, đem cơn bừng tỉnh tâm linh cho hàng lớp giáo dân đang nguội lạnh lúc đó. Sau đó John sang tận nước Đức để gặp bá tước Zinzerdorf và lưu lại ở Herrnhut một thời gian.
Khi trở về Anh quốc, John biệt nhiều thì giờ cùng em là Charles chuyên lo truyền giảng Tin lành. Những đề tài quan trọng hai người thường nhấn mạnh là: Tiếp nhận Đức Chúa Trời, mỗi ngày hãy tăng trưởng trong sự thánh khiết, kính yêu Đức Chúa Trời và thiết tha yêu mến đồng loại, sốt sắng đem Tin lành cứu vớt họ; Phải được cắt bì trong lòng mới có giá trị; giáo lý sự cứu chuộc bởi đức tin qua huyết Chúa Giê-xu cũng được ông nói đến. Sứ điệp Tin lành do anh em Wesley tuyên giảng đã được Đức Chúa Trời dùng để cảm động hàng ngàn tội nhân tìm đến qui thuận Chúa. Trong các buổi giảng của hai ông có từ 5 ngàn đến 10 ngàn người dự thính.
Hội Thánh Giám lý (Methodism) gia tăng mỗi ngày. Năm 1790, tại anh quốc tín đồ của Hội có 71.668 người. Họ thường dùng ngựa để di chuyển trong khi đi lưu giảng. Ông đã đi 500 dặm mỗi tuần và giảng 15 bài cho các khu vực xa. Dầu tuổi ông ngày càng cao, nhưng John đã đi đến giảng ở bất cứ nơi nào mà công chúng cần và nhiệt liệt hoan nghênh ông.
Việc hát Thánh ca đã đóng góp một phần đáng để ý trong phong trào phục hưng Giáo hội Cải Chánh. Các bài hát ít nhất đã tạo được hiệu quả lớn lao như các bức sứ điệp thuyết giảng. Nó không chỉ gây được sự vui mừng, phấn chấn cho kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân, nhưng còn chứa nhiều sự dạy dỗ những lẽ thật quý báu trong Thánh Kinh. John Wesley đã gọi tập Thánh ca mà Giám lý hội xuất bản năm 1780 là "một bộ phận cơ thể nhỏ bé của quyền năng có tính chất thực tiễn và từng trải thiêng liêng". Có người nói Charles Wesley là soạn giả Thánh ca vĩ đại trong mọi thời. Ông soạn chừng 6.500 ca khúc có giá trị về văn chương. Bài "Giê-xu, lover of my soul" (Giê-xu Đấng hằng thương yêu tôi) là một bài ca bất tử được nhiều người hâm mộ.
Thánh ca này được dùng trong các cuộc bố đạo lớn của các diễn giả trứ danh như Charles H. Spurgeon, D. L. Moody. Điểm độc đáo của bài là làm thỏa mãn được linh hồn của kẻ vui mừng và là niềm an ủi có hiệu lực nhãn tiền cho những linh hồn khốn khổ.
"Giê-xu Đấng hằng thương yêu tôi,
Tôi mong đến nghiêng trên ngực Ngài
Lúc sóng bủa ầm bên chân tôi
Trong khi bão tố đang vang dội
Xin che tôi, xin giấu kín luôn
Cho qua cơn mưa ác, gió ôn
Thẳng đến bình yên thiên môn
Mong ơn Chúa tiếp rước linh hồn
(câu 1, Thánh ca Việt Nam số 252)
Thánh ca Việt ngữ có trích rất nhiều bài của Charles Wesley như các số 17, 53, 104, 185, 224.
John Wesley cũng là một văn sĩ Cơ Đốc giáo sáng tác rất dồi dào; ông đã viết nhiều sách, báo, bài giảng, chứng đạo đơn. Charles, em ông là một nhạc sĩ không ai phủ nhận biệt tài, đã được Chúa dùng soạn ra nhiều bài hát đầy ý nghĩa và cảm động, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Năm 1789, John được 86 tuổi, một bản tuyên ngôn của Hội Giám Lý được soạn thảo, giao trách nhiệm cho 100 vị trưởng lão tiếp tục bảo tồn và phát huy đường lối và mục đích của Hội kèm theo công tác truyền bá Tin lành. Tờ Nhật báo của John Wesley chủ trương là một sách giáo khoa tao nhã, những bài minh giảng chân lý súc tích có tính chất mạc khải. Bài tường thuật lại những cuộc hành trình của hai người (anh em Wesley) du hành trên 250.000 dặm để truyền bá Phúc Âm. John Wesley thực sự là một nhà phát minh tờ truyền đạo đơn. Ông cũng làm chủ bút tờ "The Christian Library", mà nó đã cung cấp một sự tuyển lựa phong phú về các sách suy gẫm bồi linh và Thần học mà qua đó truyền đạt đến không phân biệt là loại độc giả nào. Ông còn đi bước đầu trong lãnh vực xuất bản một hình thức mới - tạp chí hàng tháng. Phần lớn các sứ điệp của ông được phát hành kèm theo lời chú giải ghi từ Tân Ước; một hình thức khác biệt về tiêu chuẩn Thần học giáo lý của Giám lý hội thời bấy giờ.
Năm 1791, John Wesley qua đời, thọ 88 tuổi - Để lại một hệ phái tin theo tín lý Cải chánh có đông đảo tín đồ hơn bất cứ Giáo hội Cơ Đốc nào khác ở Anh quốc. Tính ra trong đời ông, ông đã đi lại bằng ngựa để truyền giảng trên 250.000 dặm, giảng 40.000 bài; Hội Giám Lý của ông cho tới khi ông về nước Chúa có 300 giáo sĩ hải ngoại; 1000 Mục sư Truyền đạo và 120.000 Tín hữu chính thức ở nước Anh.