- Được viết bởi: Nguyễn Thiên Ý
- Chuyên mục: Danh Nhân Cơ Đốc

VLADIMIA
(956-1015)
Vladimia còn gọi là Valdimia đại đế, hay thánh Vladimia. Vừa khi lên ngôi vua, Nga hoàng mộ đạo này liền sai các sứ giả của mình triệu tập các vị giáo phẩm của tất cả các tôn giáo hiện có mặt trong nước mình đến kinh đô để thuyết trình cho nhà vua nghe về giáo lý, niềm tin, cách thi hành các nghi lễ trong tín ngưỡng của mình. Các nước đã phái đặc sứ của mình đến yết kiến hoàng đế, và trình bày về sinh hoạt tôn giáo của mình với mục đích mong được vua chuẩn thuận và nhà nước công nhận tính cách hợp pháp của Giáo hội mình. Trước hết là khâm sai của Hồi giáo, rồi đến La mã giáo nói về Tây Giáo hội; sau đó là đạo Do Thái và tất cả các tôn giáo khác đều lần lượt tâu bày cho vua nghe. Vua cũng đặt nhiều câu hỏi để hiểu biết rõ ràng tất cả. Sau hết có một nhà hiền triết Hy-lạp xin yết kiến vua. Ông này thuyết giảng cho vua nghe về Đức Chúa Trời Tạo Hóa; về sự chết chuộc tội của Chúa Giê-xu là Con Một Ngài, và về tất cả những giáo lý cứu rỗi cơ bản của Cơ Đốc giáo; sự phán xét chung kết, hạnh phúc miên viễn ở Thiên đàng ngày sau và cảnh khổ hình đời đời ở địa ngục dành cho những kẻ chối bỏ.
Sau khi đã tìm hiểu cặn kẽ, vua hỏi vị hiền triết: Làm sao để mình hưởng được phước hạnh mà tránh khỏi cơn khổ hình? Vị này đáp: "Tâu bệ hạ, chẳng có cách nào khác hơn là bệ hạ hãy khiêm cung tôn thờ Đức Chúa Trời Ba Ngôi qua huyết báu chuộc tội của Chúa Giê-xu, người Con duy nhất của Ngài; chịu Thánh lễ Báp-têm sau khi đã ăn năn tội mình". Vladimia đại đế bèn hẹn với nhà hiền triết đó cho ông một thời gian để kiểm chứng.
Kế đó, vua bèn biệt phái các cán bộ mình đi ra các nước, nhằm quan sát tường tận các lễ nghi, cách thức thờ phượng, các sinh hoạt của các tôn giáo là như thế nào? Khi các giáo đoàn trở về báo cáo, theo quan điểm chung, các viên chức đều tỏ vẻ ít có thiện cảm đối với đạo Hồi và Do thái giáo. Song về Đông quốc, nhất là tại kinh đô Constantinople thì họ thẩm tra rất kỹ càng về các cơ cấu tổ chức Giáo hội, và các kiến trúc nguy nga, đồ sộ của các giáo đường. Hơn hết là họ được tận mắt thấy tai nghe khi chứng kiến cuộc hành lễ thờ phượng tại Nhà thờ Thánh Sophia ở kinh đô Constantinople, nào là ánh sáng đèn, tiếng ca du dương trầm bổng, nhạc điệu tươi vui, hàng đoàn nam nữ tín giáo nghiêm trang rước kiệu tưng bừng... Họ dường như lạc vào cửa Thiên đàng. Vua nghe xong các sứ giả thuật trình đầy đủ, bèn cảm động và không còn đắn đo gì nữa, quyết định tin theo Đấng Christ theo giáo lý và các phương thức thờ phượng của Đông Giáo hội, và năm 980 vua Vladimia chịu Thánh lễ Báp-têm trên bờ sông Dniepper, thuộc thành phố Cherson. Kế đó vua kết hôn với Anna, công chúa nước Hy-lạp, em gái của hoàng đế Basil II và đưa bà này lên làm hoàng hậu.
Khi Nga Hoàng Vladimia đã vững niềm tin nơi Cơ Đốc giáo rồi, thì vua cho mở trường đào tạo nhân tài cho Giáo hội, cùng các cán bộ truyền giáo và biệt sai họ đi ra giảng truyền Phúc Âm cho công chúng khắp lãnh thổ Nga thời bấy giờ. Nhà vua lại ra sắc lệnh phá hủy các đền miếu ngoại giáo; vua cũng khuyến cáo nhân dân không được thờ lạy hình tượng bất cứ dưới hình thức nào, cấm tiệt mê tín dị đoan; và cũng công bố cho toàn dân trong nước hãy hạ mình, ăn năn trở lại tin thờ Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-xu, chịu Thánh lễ Báp-têm. Vua cũng truyền phải đem pho tượng thần Perou, mà dân chúng đang rất mực sùng bái, ném xuống sông Dniepper. Người dân đa số thấy thần của họ chẳng có vẻ gì là linh thiêng, đáng sợ cả, nên có những làn sóng người đổ xô theo Cơ Đốc giáo và chịu Báp-têm ở sông Dniepper bấy giờ. Sau cuộc phấn hưng, ít nữa về mặt hình thức như vậy, Vladimia bèn cho phép dạy kèm giáo lý vào các chương trình văn hóa ở các trường học. Một người tên Cycille đã đặt mẫu tự Yugoslavia (Nam Tư), cùng lúc một bản Thánh Kinh cũng do chính ông này dịch ra ngôn ngữ Yugoslavia đã được vua Nga cho phép lưu hành, phổ biến cho dân chúng đọc và học Lời Đức Chúa Trời, nhờ đó dân Nga càng thêm hiểu rõ về Đạo Cứu Rỗi của Chúa Giê-xu.
Có thể nói việc truyền bá Phúc Âm ở đế quốc Nga lúc bấy giờ, kết quả vượt trội so với các nước khác trong vùng. Có một đặc điểm đáng nêu bật ở đây là, Vladimia đại đế không hề dùng quyền bính và sức mạnh quân sự của mình để làm lợi khí tuyên rao Đạo Chúa như đa số các vua chúa Âu châu lúc ấy đã làm.
Vladimia, Nga hoàng là người có đầu óc độc lập, tự chủ, chẳng muốn nước nhà và Giáo hội Cơ Đốc Nga phải lệ thuộc vào đế quốc Byzantine cũng như thần phục Constantinople. Có người nghĩ ông không chịu phục thế lực bá quyền có sức mạnh xâm lăng thời bấy giờ chăng? Để đánh tan luận điệu tuyên truyền xuyên tạc này, vua liền xua quân chinh phục một thành phố của đế quốc Byzantine ở Crimée (Crimea). Khi sự thương nghị hòa bình diễn ra, thì ông đòi cưới một công chúa của vương triều Byzantine để "bổ sung" vào số cung phi của ông hầu "trang hoàng" cho cung điện của ông có đủ các sắc dân. Trong sự năng động nhiệt thành của ông, năm 991 dân chúng ở Norgorod đã trở lại công nhận Chúa và nhận lễ Báp-têm do vị Giám mục của thành phố Crimée thi hành, nơi mà Vladimia vừa chiếm lĩnh đó. Cuối đời hoàng đế Vladimia, tại Nga có 7 Tòa Giám mục. Điểm nổi cộm, cũng tỏ ra tính chất của tinh thần tự lập tự chủ của mình, ông cương quyết không chịu để cho Constantinople kiểm soát cả Đạo lẫn nền chánh trị của nước ông. Các tu sĩ sùng kính Chúa từ Nogorod đào tạo cũng tỏ ra sốt sắng đem Đạo Chúa truyền bá đến vùng Volga. Tại đó sau một thời gian, số tín đồ tân tòng cũng khá đông, nhưng đời thuộc linh họ còn nông cạn. Phải qua nhiều thế hệ và công khó họ mới trưởng thành, dự Tiệc Thánh và góp phần hầu việc Chúa, xây dựng Giáo hội được.
Xét ra công lao của Nga hoàng Vladimia trong việc Cơ Đốc hóa dân chúng nước Nga không phải là nhỏ. Một phần ở bản tính rất năng động, nhiệt tình truyền giảng Tin Lành cho đồng bào của ông. Sự tiến triển một phần nữa cũng do tấm lòng mềm mại của dân chúng - như thửa đất màu mỡ đã cày xới, sẵn sàng đón nhận những hạt giống tốt của Đạo châm rễ và mọc lên. Thánh Kinh sớm trở thành phổ thông trong quần chúng bằng tiếng mẹ đẻ của mình, nên ai nấy đều được đọc Lời Đức Chúa Trời không khó khăn gì. Điều này cũng gây hiệu quả hơn các nước lân bang, vì các xứ khác thì hàng giáo phẩm chỉ đọc Thánh Kinh và hành lễ bằng tiếng La tinh, dân chúng không hiểu được, khó tiếp thu và Phúc Âm bởi thế khó đi sâu vào các tầng lớp quảng đại quần chúng.
Nga hoàng Vladimia rất bức xúc khi thấy khải tượng công bố Tin Lành mà Đức Chúa Trời đã đặt để trong lòng ông. Ông đã lợi dụng mọi phương tiện, bắt lấy mọi thời cơ có được trong tay mình mà biến những khải tượng Chúa ban trở thành việc làm cụ thể hầu đạt được những thành quả khả quan như trên.
Năm 1980, Giáo hội Chúa tại Liên xô đã làm Lễ Kỷ Niệm 1000 năm ngày Cơ Đốc giáo truyền đến nước Nga cách tưng bừng, trọng thị, và người ta cũng không quên nhắc lại cá nhân đạo đức tin kính và công lao nóng sốt truyền thông Tin Lành của Vladimia Đại Đế để ghi nhớ công ơn ông.