- Được viết bởi: Nguyễn Thiên Ý
- Chuyên mục: Danh Nhân Cơ Đốc

TERESA, ANNIETTE
(1910-1997)
Nói đến Anniette thì người ta khó hình dung là ai? Nhưng đó là tên thật của một người phụ nữ biệt danh là Teresa, người nữ tu Cơ Đốc giáo theo hệ thống La mã, được cả thế giới biết đến dưới một danh xưng quý mến là "Mẹ Teresa", là người phụ nữ nổi đậm nét nhất của thế kỷ thứ 20 này. Anniette gốc người Anbanie, sanh năm 1910, tại Skopje, Slovenes, thuộc nước Yugoslavie (Nam Tư cũ). Bà ra đời trong một gia đình giàu có, thân phụ bà là chủ một hiệu buôn tại Skopje. Ngay từ ấu thơ bà đã có bản chất biết thương yêu người nghèo.
Năm 1921 bà Teresa bắt đầu bước vào tu viện và học trong dòng tu nữ ở Loreto Dublin (Ireland) cho tới năm 18 tuổi. Rồi bà được phái sang Calcutta, Ấn độ công tác. Tại đây bà dạy trong một trường trung học của dòng tu, rồi làm hiệu trưởng trường này. Sẵn thiên hướng muốn làm vơi đi nổi khổ của hạng người cùng đinh, cho nên ngoài những giờ dạy bà thường tìm thuốc men, thực phẩm, quần áo đi đến các khu nhà ổ chuột, giới lao động bần hàn để chữa lành các vết thương, chăm sóc những kẻ bất hạnh. Ngồi trên các tầng lầu trong khi rỗi việc, nhìn thấy nhân dân lao động đói khổ, lầm than bà chịu không được. Bà có ý định xin nghỉ việc để ra ngoài đời phục vụ những kẻ kém may mắn với tư cách riêng của mình.
Năm 1946, nhân đi trên một chuyến xe lửa, bà đã cảm nhận được một tiếng gọi thiêng liêng thứ hai, là phải làm một cái gì đó để bày tỏ tình yêu mà Chúa Cứu Thế Giê-xu đã yêu bà và xả thân vì bà; tức là phải đến với tha nhân cùng khốn một cách thiết thực hơn. Sau 2 năm vận động, tranh đấu, kêu tận Vatican ở La mã, bà mới thuyết phục được giới giáo phẩm cao cấp nhất trong Giáo hội chấp thuận cho bà được toại nguyện: Ra đời hoạt động độc lập theo đường hướng riêng của mình.
Bà khởi sự đi học một khóa y tá điều dưỡng cấp tốc trong một trường truyền giáo nữ tại Hoa Kỳ. Năm 1950 bà lại đến Calcutta và xin nhập tịch Ấn độ. Hội Truyền Giáo Bác Ái của bà ra đời từ đây. Mở đầu bà khai sáng một ngôi trường dạy chữ Bengali cho trẻ em nghèo. Thấy được việc làm bất vụ lợi của bà, nhiều người đã lạc quyên trợ cấp cho bà đúng theo nhu cầu mà họ thấy được là bà đang cần. Cho đến ngày nay, trong khi các dòng Truyền giáo nam nữ khác hoạt động cầm chừng, thoi thóp hoặc sắp đóng cửa vì thiếu nhân sự, tài chánh, thì Hội Truyền Giáo vì tình yêu của bà ngày càng phát triển với tiến bộ khó ngờ.
Người ta lấy làm lạ không lý giải nổi về nếp sống đơn sơ nghèo nàn của bà: Phục sức giản dị, mặc một chiếc sari loại vải rẻ tiền như một phụ nữ Ấn độ, đi công tác trên các toa tàu hạng bét, khăn quàng thường mạng vá lại chứ không dùng hàng xa xỉ đắc tiền, tự lau chùi nhà cho mình. Bà không hề có lợi tức, không trương mục tiết kiệm, không tài khoản, không tiền bạc tài sản chi thu vén cho riêng bản thân. Bà chỉ biết phục vụ quên mình. Bà có mỗi một sản nghiệp vô cùng quý giá: Yêu kẻ khốn cùng và phục vụ Thiên Chúa hết lòng, hết sức qua những đám người cùng khổ.
Năm 1949, một nữ tu khác là Subashihat, lúc đó 19 tuổi xin gia nhập Hội dòng Bác ái của bà, lấy tên là Anniette (là tên thật của bà) và chị này đã trở nên một cộng tác viên đắc lực cùng đôi vợ chồng luật sư người Anh. Năm 1950 từ con số thành viên lúc đầu là 26, họ là những hạt nhân cho dòng tu Truyền Giáo Bác Ái có tầm cỡ sau này. Năm 1973 số đó lên 750 người, hầu hết đều là các thiếu nữ Ấn độ. Mặc dầu bà bị tấn công bởi chứng đau tim thường trực, người nhỏ bé (cao 1m50), lưng còng, mắt sâu; nhưng ẩn dật bên trong là một sức lực tiềm tàng, cương nghị, nhiệt tình, năng nổ, nhặm lẹ phục vụ không biết mệt mỏi. Đối tượng nghèo nàn, đói rách, thất nghiệp, đau ốm, mù chữ,... đã thu hút người mẹ nhân đạo này như nam châm gặp sắt vậy.
Mẹ Teresa được người ta xem như một vị thánh sống. Bà đã được ví sánh ngang hàng với Thánh Francis d'Assisi (thế kỷ 13) và Albert Schweitzer một bác sĩ truyền giáo hiến mình chăm lo cho kẻ bần khổ, bệnh tật ở Phi châu - Đều là những người có tấm lòng nhân hậu, nóng lòng yêu mến kẻ khó nghèo.
Ngày nay số nữ tu của bà Teresa lên đến 3000, được phân bố cho 408 cơ sở từ thiện trên khắp năm châu. Bà chẳng có một xu dính túi, nhưng không có một công tác thiện chí nào nhằm xoa dịu đau khổ của đồng loại mà bà không thực hiện nổi. Của cải thực sự của bà có thể không thua bất cứ tỉ phú nào trên ở thế giới: 7.500 trẻ em đang theo học trong 60 trường, 960.000 bệnh nhân được chăm sóc tại 213 chẩn y viện, 47.000 người mắc phong cùi được chữa trị trong 54 bệnh viện chuyên khoa, 1.600 trẻ em bụi đời, vô gia cư hoặc mồ côi được nuôi dưỡng ở 20 lưu xá, 3.400 người nghèo nàn, thất nghiệp được bảo trợ trong 23 trại. Tất cả các cơ sở này nằm rải rác tại 35 đô thị thuộc nước Ấn và hàng chục quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ. Cơ sở mới nhất vừa được thành lập của bà là nhà nuôi trẻ em sơ sinh vô thừa nhận, mỗi ngày bà đón tiếp khoảng 5 đến 6 cháu.
Bà được tất cả mọi người khốn cùng yêu mến, được hầu hết nữ tu dòng Bác Ái do bà sáng lập tôn kính; tín đồ bất cứ là Hồi giáo, Ấn độ giáo, Cơ Đốc giáo đều ngưỡng mộ bà, vì bà đã dâng mình trọn vẹn cho người kém may mắn, một nghĩa cử vượt trên mọi biên giới và khuôn hạn trần gian. Hiện tại có chừng trên 3 triệu ân nhân khắp thế giới tình nguyện trợ giúp hằng tháng cho Hội Truyền Giáo vì tình yêu của bà.
Tháng 1 năm 1971 bà được mời về điện Vatican ở La mã để nhận giải thưởng Hòa bình quốc tế "Giáo hoàng John 23" với một tấm ngân phiếu 24.000 USD, số tiền này bà dùng xây dựng một trại cùi kiểu mẫu ở miền Tây bang Bengal (Ấn độ). Năm 1972 bà được chính phủ Ấn độ trao tặng giải thưởng mang tên cố thủ tướng Ấn là "giải Jawaharlal Nehru" vì "sự tận tụy phục vụ con người không chút tị hiềm hẹp hòi, hay phân biệt nhỏ nhen về quốc tịch, chủng tộc, đẳng cấp, tôn giáo". Năm 1979 bà lại nhận thêm giải thưởng cao quí mà mọi người đều thèm khát: Giải Quốc Tế Nobel về hòa bình.
Chính mẹ Teresa đã nhìn thấy ở những kẻ nghèo những thứ mà các kẻ khác không thấy: sự cô đơn, chính trực ngoan cường và óc trào phúng... Bà nói: "Tôi tin rằng chúng ta cần đến người nghèo cũng như họ cần đến chúng ta vậy. Cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp và ý nghĩa hơn nếu sẵn sàng dấn thân tiếp xúc với những người bị đời quên bỏ".
Không ai ngạc nhiên khi thấy mẹ Teresa được hằng triệu người cúi đầu bái phục. Vì trong mùa đông triền miên của bạo lực, đói kém và chết chóc của nhân loại ngày nay... Bà Teresa Anniette đã mang lại mùa xuân và niềm hy vọng cho những cư dân xấu số nhất trên hành tinh của chúng ta.