- Được viết bởi: Nguyễn Thiên Ý
- Chuyên mục: Danh Nhân Cơ Đốc

STUDD, CHARLES T.
(1858-1931)
Charles Thomas Studd là một người Anh, con trai của một chủ nông trại giàu có. Ông Edward Studd, thân sinh ông là một người ham thích thể thao, săn bắn, đánh dã cầu và đua ngựa. Nhân hai nhà truyền giáo Tin Lành nổi tiếng là D. L. Moody và Ira Sankey đến giảng tại Luân Đôn và Dublin, thì bạn ông Edward là Vincent đã tin Chúa, liền dắt đưa người bạn thân trong giới thể thao của mình là Edward Studd tham dự các buổi giảng và trở lại đầu phục Giê-xu làm Cứu Chúa của mình. Sau khi dâng đời sống mình cho Chúa, ông Eaward Studd được biến tạo nên một người mới. Ông không còn say mê khiêu vũ, đánh cá độ hoặc chơi bời tội lỗi như lúc trước nữa. Chính ông Edward Studd đã được nhà truyền giáo Moody khích lệ hãy đưa dắt gia đình, bà con, thân hữu của mình tìm gặp Chúa.
Cậu Charles Thomas Studd đã nhờ lòng sốt sắng của thân phụ mình mà đón tiếp Chúa Giê-xu làm Chủ đời sống riêng của mình. Được thức tỉnh sau một thời gian sa sút thuộc linh, cậu Charless Studd nói: "Tất cả các thú vui trên đời không có điều nào sánh hơn việc đưa một người đến với Chúa cả". Dầu ông rất ưa thích môn dã cầu, song ông đã nhất định từ bỏ trò giải trí ấy và chỉ vào sân để công bố về ơn cứu rỗi Chúa cho nhiều bạn bè của ông mà thôi. Khi nhà truyền giáo Moody từ giã Anh quốc, ông Charles Studd đang là một trạng sư khá thành đạt ở thành phố quê hương. Muốn được rõ ràng nghe tiếng Chúa kêu gọi ra đi phục vụ Ngài, nên ông biệt riêng 3 tháng chuyên cần học Thánh Kinh và cầu nguyện. Một câu Thánh Kinh đến với ông đang khi ông biện luận cùng "thịt và huyết": "Người nào nếu được cả thế gian mà mất linh hồn mình, thì có ích gì?". Khải tượng về hàng triệu linh hồn đang đi lần vào cõi trầm luân đã dày vò và nung đốt trái tim của Charles Studd. Quả thật lòng ông lúc ấy như lửa đốt, và ông thật đã "nhận lấy quyền năng từ trên cao" để làm chứng nhân cho Ngài.
Một đêm kia, ông cùng một người bạn là Stanley đi dự một buổi họp từ giã của một Giáo sĩ sắp ra đi hầu việc Chúa ở hải ngoại. Vị Giáo sĩ ấy cũng làm chứng rằng có vô số dân ngoại xa xôi đang chết mất, và họ đang ngày đêm ngóng chờ Sứ giả Tin Lành. Lời kêu gọi thống thiết ấy đã đánh tan quan niệm sai lầm của Studd rằng: Anh quốc cũng đã đủ rộng cho ông hầu việc Chúa rồi! Nhưng khi được tin là Charles Studd sẽ dâng mình lên đường cứu vớt linh hồn đồng loại ở xa, thì gia đình và bè bạn của ông lại là trở lực chính. Không biết là bao nhiêu lời cám dỗ, luận điệu của Sa-tan nhằm cản bước chân của vị Giáo sĩ tương lai này. Nhưng ông đã gạt hết mọi chướng ngại và nhất quyết dấn thân vào nơi đầy thách thức này. Dầu lúc đó ông được thừa kế một gia tài lớn, nhưng ông đã đem phân phát cho những người nghèo và dâng vào các Hội Truyền Giáo để bày tỏ ý chí của mình.
Kèm theo việc nhất trí hiến mình làm công cụ của Chúa, ông C. T. Studd đã đến thăm nhà truyền giáo danh tiếng Hudson Taylor, người đã sáng lập Hội Truyền Giáo Nội Địa Trung Hoa. Ông đã cùng với 6 người bạn nữa ở Đại học Cambridge cũng cương quyết lựa chọn con đường ấy. Tin tức này làm chấn động dư luận, cả nữ hoàng Victoria cũng hết sức phấn khởi hài lòng khi đọc lời làm chứng đầy tâm huyết của họ. Có ai ngờ rằng buổi họp tiễn đưa 7 vị Tân Giáo sĩ kia đã châm ngòi cho một trận "hỏa hoạn thuộc linh" từ Luân Đôn, Đại học Cambridge, Oxford, nhất là khi hàng khối thính giả nghe lời làm chứng nóng cháy, đượm nhuần tình yêu và quyền phép của Đức Chúa Trời từ môi miệng C. T. Studd tuyên ra.
Bảy vị Giáo sĩ mới xuống tàu sang Trung Hoa vào tháng 2 năm 1885. Món quà đầu tiên trong công tác truyền giáo của họ dâng lên Đức Chúa Trời là những thủy thủ trên tàu. Đoàn khởi sự làm việc ở Thượng Hải, rồi đến Bình Nhưỡng (thủ đô Bắc Hàn ngày nay) đến thành phố Thái Nguyên. Với những cuộc hành trình dài dặt khá gian nan về phong tục, khí hậu; họ vừa đi vừa học tiếng.
Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho Giáo sĩ C. T. Studd một vị hiền nội đảm đang và tận hiến, đỡ nâng chức vụ khá đa đoan của chồng. Khi biết được ông Studd đã dâng gia tài thừa kế của ông là 150.000 bảng Anh cho các Hội Truyền Giáo và các Cô Nhi Viện, chỉ giữ lại 10.000 bảng cho cô Priscila Stewart là hôn thê của mình, thì cô này nói rằng: "Anh Studd ơi, em muốn chúng ta dâng luôn 10.000 bảng và tất cả quà mừng cưới của chúng ta cho Hội Cứu Thế Quân đi! Ngân hàng nào rồi cũng lỗ lã, chi bằng chúng ta gởi vào ngân hàng Thiên đàng thì sẽ không mất mà được lời gấp bội nữa!"
Năm 1900, ông bà Studd nhận được một chỉ thị mới từ Chúa là hãy đi sang Ấn độ để truyền giảng Tin Lành. Ấn độ thời đó còn là một miền đất xa lạ đầu tiên mà ông Studd muốn đến phục vụ Chúa theo lời trối của thân phụ ông trước lúc lâm chung. Tháng 6 năm 1900 ông bà Studd đến tỉnh Tirhoot. Thính giả đầu hết của họ là những người chủ và đám phu phen các đồn điền. Ông cũng được mời làm Mục sư cho một Hội Thánh lớn ở Ootacamund cho tới năm 1906. Năm 1908 sau hạn kỳ nghỉ dưỡng sức kết thúc, ông bà Studd tính trở lại Ấn độ thì bà được Đức Chúa Trời gián tiếp nhắc nhở lời bà ghi trong trang bìa một quyển Thánh Kinh khi bà mới đầu phục Chúa "Trung Hoa - Ấn độ - Phi Châu". Nhưng lúc ấy lại cộm lên hai trở lực lớn: Tài chánh và sức khỏe. Vì sau 15 năm hầu việc Chúa quên mình, hai vị Giáo sĩ này không có một xu dính túi; vả lại thể lực cũng hao mòn vì khí hậu ở nhiều vùng khác nhau tác hại. Bác sĩ Karl Humm là sự cổ xúy đáng kể cho ông bà. Hội Truyền Giáo không chịu trợ cấp cho ông Studd nữa, vì bác sĩ không chịu trách nhiệm để cho ông ra đi. Nhưng với ý chí kiên cường, Giáo sĩ Studd đã nhìn lên Cha Thiên Thượng, và đặt đức tin mình nơi Ngài. Ông tuyên bố: "Dầu máu tôi có đổ ra đi nữa, thì đó sẽ là cái nấc thang thứ nhất để các bạn trẻ sau này bước lên cứu vớt đồng loại!". Và câu Thánh Kinh: "Ai vì cớ Ta và Tin Lành mà mất mạng sống mình thì sẽ được lại" không khi nào rời khỏi tâm trí ông. Do hành động đức tin quả cảm, ông đã đến giảng ở Birmingham, Liverpool (Hội Thánh Linnacle), cảm động qua sự giảng dạy của Giáo sĩ Studd, có người đã dâng cho ông 10 bảng Anh. Đức Chúa Trời thật đã làm phép lạ "hóa tiền" và nhờ 10 bảng Anh đó khai mở cho một trương mục chẳng bao giờ cạn kiệt để đầy tớ của Ngài có thể đi từ nước Anh đến Port Said, miền Khatoum và xa hàng ngàn dặm nữa để làm khâm sai của Ngài. Một người lớn tuổi, kém sức, bị gia đình cản ngăn, Hội Truyền Giáo không yểm trợ, không có tiền, bệnh triền miên,... Thật là một hố thẳm khó vượt! Nhưng Giáo sĩ Studd đã nhờ đôi cánh của thiên sứ Chúa mà bay qua. Kết quả, bởi sự tin cậy vâng lời của ông mà trung tâm ba lục địa Á - Phi - Mỹ châu nhận được Hạt Giống Tin Lành. Sau Khatoum thì đến Soudan rồi miền Bahr-el-Ghazl... Không kể gì đến hiểm trở nguy nan, ông đã trung tín truyền bá Phúc Âm cho vô khối quần chúng đang đói khát, họ không cứ là ai. Người chiến sĩ Tin Lành Studd chẳng hề có ý nghĩ muốn dừng chân ở đâu cả. Sau Soudan lại đến Congo thuộc Belgium (Bỉ).
Năm 1913, ông cùng với Giáo sĩ trẻ là Alfred F. Buxton, đến Phi châu lần thứ hai sau 18 tháng nghỉ ngơi ở Anh quốc. Lần này họ tiến sâu vào các xứ Kenya, Uganda (hồ Albert). Vùng này người đầy tớ tin tuyển của Chúa gặp thử thách nghiêm trọng. Nhiều lần gặp sư tử, bịnh sốt rét rừng rình mò, lửa rừng tại Masindi thiêu hủy lều trại và phần lớn đồ dùng của họ; thổ dân ăn thịt người Balenda, Julu cũng là mối đe dọa đáng ngại.
Nhận thấy "đồng lúa rộng lớn đã chín vàng, nhưng thợ gặt quá ít", năm 1914 ông Studd quay về Anh để cổ động, kêu gọi tấm lòng yêu Chúa mến người của nam nữ Cơ Đốc nhân nước Anh. Nhà truyền giáo kiêm bác sĩ Alfred F. Buxton phải một mình ở lại đảm đương trách vụ. Ông Buxton đã hết lòng lo công việc Chúa, truyền giảng Tin Lành, xây cất Nhà thờ, đặt chữ viết và dịch Thánh Kinh Tân Ước và nửa Cựu Ước ra tiếng Bangala, là ngôn ngữ phổ thông của vùng này, mà hiện nay 6 Hội Truyền Giáo đã dùng để tiếp tục sự nghiệp của họ. Năm 1916 Giáo sĩ Studd trở qua Phi châu đem theo 8 Tân Giáo sĩ nữa, gia nhập Hội Truyền Giáo Trung Tâm Phi Châu do Studd thành lập. Dầu tuổi cao, sức yếu, nhưng nhà truyền giáo lão thành này cũng đã vui mừng bắt tay từ giã vợ con, thân hữu để ra đi. Đây là lần cuối cùng mà ông Studd không bao giờ trở lại Anh quốc nữa. Đúng như ước nguyện ông, là gởi xác ở trung tâm Phi Châu!
Khác với lần đầu, khi Giáo sĩ Studd đặt chân đến Nala thì chỉ có vài túp lều tranh lụp xụp, lần này có khá đông tín đồ ra đón rước ông và phái đoàn. Cũng có cô Edith là ái nữ của ông, là hôn thê của Giáo sĩ trẻ Alfred F. Buxton. Tại đây một lần nữa ta thấy phép lạ Đức Chúa Trời tỏ ra, giáo sĩ Studd viết: "Công việc Chúa ở đây tiến triển lạ lùng, quá sức tưởng tượng của tôi. Ngón tay của Đức Chúa Trời đã giơ lên trên mọi sự. Ba năm trước đó đối với vùng này chúng tôi chỉ là 2 khách lạ; thổ dân thì mê tín, hung dữ, tội lỗi, nhưng bây giờ đã có trên 100 người chịu Báp-têm. Nhiều tù trưởng xây cất Nhà thờ, trường học cho chúng tôi đến giảng Đạo Chúa cho nhân dân. Cửa Tin Lành đang rộng mở".
Thấy công việc Chúa mở mang ở nhiều địa phương, nhiều tín hữu tân tòng được đưa vào Hội Thánh... Thì chưa đủ nếu không nhìn vào chiều sâu tâm linh họ. Đây là tình trạng chung của tất cả các Hội Thánh Chúa xưa cũng như nay. Giáo sĩ Studd đã không chịu an nghỉ cho tới khi Thánh Linh Đức Chúa Trời tuôn đổ xuống. Ông gia công kê cứu Thánh Kinh, cầu nguyện, xưng tội, tìm kiếm sự từng trải đầy dẫy Thánh Linh Ngài để dìu dắt Hội Truyền Giáo Trung Tâm Phi Châu và riêng ở tỉnh Iluti bấy giờ. Căn bệnh đáng ngại của dân chúng lúc ấy là sự biếng nhác cố hữu. Họ cho rằng làm việc là ngu dại và ngồi không trên ghế là khôn ngoan. Họ là những tín đồ đã chịu Báp-têm, gia nhập Hội Thánh nhưng vẫn còn gian lận, lười biếng, tà dâm, phỉnh gạt, dối trá,... Ông Studd đau lòng kết luận: "Họ chưa được đầy dẫy Thánh Linh". Bàn tay của Sa-tan đang hành động ở đâu đó. Giáo sĩ Studd phải bền bĩ chiến đấu. Quả thật năm 1925 Đức Chúa Trời đã thăm viếng công việc Ngài. Một đêm Giáo sĩ đi nhóm ở Ibambi. Lòng ông nặng nề, buồn bã, lo lắng cho tình hình thuộc linh Hội Thánh Chúa mà ông đang chịu trách nhiệm. Nhưng ông cảm biết chắc rằng bằng cách nào đó Đức Chúa Trời sẽ khiến cho ngọn lửa thiêng liêng bùng cháy lên để tẩy sạch Hội Thánh và con dân Ngài; cất hết mọi sự ngăn trở, dọn chỗ cho Thánh Linh chiếm hữu và ngự trị. Chúa đã dùng những "chiến công vinh hiển" của các vị anh hùng đức tin từ ngàn xưa mà dứt dấy Hội Thánh Ngài, đó là Hê-bơ-rơ chương thứ 11. Trước hết, nhà lãnh đạo Hội Truyền Giáo Trung Tâm Phi Châu, rồi đến các Giáo sĩ của Hội có mặt tại đó lần lượt được Chúa Thánh Linh thăm viếng.
Năm 1928 bà Priscila Stewart Studd có sang tận Trung Tâm Phi Châu để thăm viếng cơ sở truyền giáo của chồng bà. Dầu bao lâu bà không cùng chồng trực tiếp gánh vác công việc Chúa tại nhiệm sở này, song bà Studd cũng đã để nhiều thì giờ viết thư cổ động, đi khắp nơi quyên tiền, kêu gọi Giáo sĩ sang hợp tác cùng ông ở Phi Châu. Bà thật được khích lệ và vui mừng khi thấy trên 2000 tín đồ từ các bộ lạc tập họp lại mừng rước bà. Năm 1929 bà đi thăm giảng ở Tây Ban Nha và thình lình về Nước Chúa. Năm 1930 Giáo sĩ Studd vinh dự được vua Belgium (Bỉ) tặng thưởng Bội Tinh vì công khó của ông ở Trung Tâm Phi Châu.
Giáo sĩ Studd có một bạn thân người bản xứ là ông Adzangue, là một cựu tù trưởng chuyên ăn thịt người. Lần này hai người bạn gặp nhau. Thấy tù trưởng bị đau trầm trọng nằm trên cán đến thăm mình, ông Studd nói đùa với bạn mình là tù trưởng rằng: "Ông và tôi hãy chạy đua thử ai lên Thiên đàng trước?". Vì Giáo sĩ ngỏ ý muốn lên Thiên đàng trước để chuẩn bị đón rước Adzangue! Thế là Giáo sĩ Charles Studd đã thắng cuộc vẻ vang! Bạn thân của tù trưởng Adzangue, bậc thánh Studd đã bước vào Nước Sáng Láng trước ông, vào ngày 16-7-1931.
Ngày Chúa Nhật 12-7 (trước đó 4 ngày) Giáo sĩ Studd còn khá khỏe mạnh, đang sắp đặt chương trình để các Giáo sĩ trở về địa hạt mình hầu việc Chúa, còn chính ông thì đi giảng tại Ibambi. 7 giờ 30 tối 16-7 thì ông Studd lìa trần thế này để trình diện Chúa với gương mặt sáng ngời. Tin tức về sự qua đời của Giáo sĩ Studd bay ra làm cho mọi người sửng sốt, tiếc thương. Lễ Tang ông cử hành long trọng, trang nghiêm. Có chừng 2000 tín đồ đến viếng ông lần cuối; họ cũng sa nước mắt tạm chia tay đưa tiễn nhà lãnh tụ Hội Truyền Giáo Trung Tâm Phi Châu về nơi yên nghỉ cuối cùng. Tại phần mộ ông ai nấy đều bùi ngùi, xúc động, dốc đổ linh hồn mình ra trước mặt Chúa vì lâu nay họ cứ cứng cỏi, thờ ơ đối với lời kêu gọi của người hết lòng chăn dắt họ - tức Giáo sĩ Studd lúc còn sinh tiền. Chắc hẳn ông sẽ vui mừng xiết bao vì được tái họp với họ trong ngày Chúa Giê-xu hiện ra!
"Phước thay và thánh thay những kẻ được dự phần về sự sống lại thứ nhất. Sự chết thứ nhì không có quyền gì trên những kẻ ấy; song những người ấy sẽ làm thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và của Đấng Christ, cùng sẽ trị vì với Ngài trong một ngàn năm".
(Khải Huyền 20:6).