Back to Top
Cover of 38 - BẢO TỒN MÙA GẶT - PHẦN E7
Category: Cây Gậy Của Người Chăn Bầy
Library: Định dạng văn bản

Review

Written by Nguyễn Thiên Ý

MỤC LỤC

  1. Lời Nói Đầu
  2. E7.1 - Chương 1: QUYỀN NĂNG CỦA SỰ KHAO KHÁT SÂU XA
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. SỰ KHAO KHÁT LÀ GÌ?
      1. 1. Sự Đam Mê Mạnh Mẽ
      2. 2. Sự Hiểu Biết Và Khải Tượng Phải Gắn Liền Với Nhau
      3. 3. Tạo Nên Đức Tin Thật
    3. B. SỰ KHAO KHÁT SÂU XA NHẤT CỦA TÔI LÀ GÌ?
    4. C. CÓ QUYỀN NĂNG TRONG SỰ KHAO KHÁT HIỆP NHẤT
    5. D. NHỮNG LĨNH VỰC CẦN CÓ SỰ KHAO KHÁT HIỆP NHẤT
      1. 1. Sự Cứu Rỗi Của Những Người Đàn Ông Và Đàn Bà
      2. 2. Chữa Lành Người Bệnh
      3. 3. Sự Tuôn Đổ Của Thánh Linh
      4. 4. Hội Thánh Tân Ước Đang Hành Động
  3. E7. 2 - Quyền Năng Vô Hạn Của Sự Hiệp Nhất Tận Hiến
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. LÀM VIỆC THEO ĐỘI HẾT MÌNH
      1. 1. Sự Tận Hiến Cần Phải Có Ba Mặt
      2. 2. Hai Điều Lợi Khi Làm Việc Theo Đội
        1. a. Tạo Nên Sự Che Chở.
        2. b. Khai Phóng Quyền Năng.
      3. 3. Những Lãnh Đạo Chính Cần Có Sự Hiệp Một
    3. B. DUY TRÌ SỰ HIỆP MỘT
      1. 1. Giá Phải Trả
      2. 2. Một Khuôn Mẫu Cần Phải Làm Theo
        1. a. Đứng Vững Trong Một Tâm Linh.
        2. b. Với Một Tâm Trí Cùng Đấu Tranh.
    4. C. KẾT LUẬN
  4. E7. 3 - Rao Giảng Đầy Đủ Về Tin Lành Của Đấng Christ
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. TIN LÀNH TRỌN VẸN LÀ GÌ?
    3. B. PHAOLÔ ĐÃ RAO GIẢNG TIN LÀNH NHƯ THẾ NÀO?
      1. 1. Ông Rao Giảng Cùng Với Sự Chứng Minh
      2. 2. Ông Rao Giảng Phước Hạnh Của Sự Cứu Rỗi
      3. 3. Ông Rao Giảng Phước Hạnh Của Sự Vâng Lời
      4. 4. Ông Rao Giảng Bằng Dấu Kỳ Và Phép Lạ
      5. 5. Ông Cũng Nói Đến Phước Hạnh Của Quyền Năng Thánh Linh
      6. 6. Ông Rao Giảng Về Sự Hiện Đến Lần Thứ Hai Của Đấng Christ
    4. C. KẾT LUẬN
  5. E7. 4 - Người Rao Giảng Và Dân Chúng Trong Sự Phục Hưng Tân Ước
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. NHỮNG NGƯỜI RAO GIẢNG TRONG CƠN PHỤC HƯNG THỜI TÂN ƯỚC
      1. 1. Tay Các Sứ Đồ
      2. 2. Nhiều Phép Lạ Về Sự Thương Xót
      3. 3. Những Dấu Kỳ Phép Lạ
      4. 4. Bóng Của Phierơ
      5. 5. Chức Vụ Giải Cứu
    3. B. DÂN CHÚNG TRONG CUỘC PHỤC HƯNG THỜI TÂN ƯỚC
      1. 1. Hiệp Một Lòng
      2. 2. Sự Kính Sợ Và Yêu Mến
      3. 3. Số Người Tin Chúa Càng Ngày Càng Thêm Lên
  6. E7. 5 - Hội Thánh Chung Và Các Hội Thánh Tư Gia Trong Tân Ước
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. "HỘI THÁNH" NGHĨA LÀ GÌ?
      1. 1. "Hội Thánh" (Xuất hiện 80 lần trong Tân Ước)
        1. a. Hội Thánh Chung.
        2. b. Hội Thánh Tư Gia.
        3. c. Ngoại Lệ: Dân Ysơraên Là Hình Bóng Về Hội Thánh.
      2. 2. "Các Hội Thánh" (có 35 lần được đề cập đến trong Tân Ước)
      3. 3. "Hội Chúng" (đề cập 5 lần trong Tân Ước)
    3. B. HỘI THÁNH THEO ĐỨC CHÚA TRỜI NHÌN THẤY
    4. C. BIỂU TƯỢNG CỦA CÁC HỘI THÁNH TÂN ƯỚC
  7. E7. 6 - Hình Ảnh Hội Thánh Cơ Đốc Thời Tân Ước
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. BỐN HÌNH ẢNH CHÍNH
      1. 1. Một Tòa Nhà
      2. 2. Người Nhà
      3. 3. Một Thân Thể
      4. 4. Cô Dâu
    3. B. NHỮNG CÁ NHÂN TRONG HỘI THÁNH
      1. 1. Là Những Viên Đá Sống Trong Tòa Nhà
      2. 2. Trở Thành Người Nhà
      3. 3. Những Chi Thể Trong Thân Thể Đấng Christ
      4. 4. Một Phần Trong Cô Dâu Của Đấng Christ
    4. C. KẾT LUẬN
  8. E7. 7 - Chức Thầy Tế Lễ Của Hội Thánh Thời Tân Ước
    1. A. SỰ KHÁC NHAU GIỮA CHỨC VỤ TẾ LỄ THỜI CỰU ƯỚC VÀ TÂN ƯỚC
      1. 1. Chức Vụ Tế Lễ Của Arôn
      2. 2. Chức Vụ Tế Lễ Của Tín Đồ
    2. B. NHỮNG CỦA LỄ CỦA NHỮNG THẦY TẾ LỄ TÍN ĐỒ
      1. 1. Thân Thể Của Chúng Ta, Đời Sống Của Chúng Ta
      2. 2. Sự Ngợi Khen Của Chúng Ta
      3. 3. Tiền Bạc Của Chúng Ta
    3. C. KHÔNG CÓ SỰ PHÂN BIỆT GIỮA HÀNG GIÁO PHẨM VÀ TÍN HỮU TRƠN
  9. E7. 8 - Các Chức Vụ Trong Hội Thánh Thời Tân Ước
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. NĂM CHỨC VỤ ÂN TỨ ĐƯỢC BAN CHO HỘI THÁNH
      1. 1. Duy Đấng Christ Là Đấng Ban Cho
      2. 2. Thực Hiện Dưới Sự Hướng Dẫn Và Quyền Năng Của Thánh Linh
      3. 3. Có Liên Hệ Đến Người Nhận Được Chức Vụ
    3. B. MÔ TẢ NĂM CHỨC VỤ ÂN TỨ
      1. 1. Sứ Đồ
        1. a. Mười Hai Sứ Đồ.
        2. b. Những Sứ Đồ Khác.
        3. c. Chức Vụ Sứ Đồ.
      2. 2. Tiên Tri
      3. 3. Người Giảng Tin Lành
      4. 4. Mục Sư
      5. 5. Giáo Sư
    4. C. MỤC ĐÍCH CỦA CÁC CHỨC VỤ ÂN TỨ
  10. E7. 9 - Các Chức Vụ Trong Hội Thánh Tại Thành Phố Và Tư Gia
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. TRƯỞNG LÃO
      1. 1. Công Việc Của Họ
        1. a. Giữ Lấy Bầy.
        2. b. Nuôi Nấng Hội Thánh.
        3. c. Chăm Sóc Hội Thánh.
        4. d. Khéo Cai Trị.
        5. e. Giữ Đạo Thật.
        6. f. Có Khả Năng Giảng Dạy.
        7. g. Thăm Viếng Và Cầu Nguyện Cho Người Bịnh.
      2. 2. Phẩm Chất Của Họ
      3. 3. Đừng Quá Nhấn Mạnh Đến Cơ Cấu
      4. 4. Chức Vụ Trưởng Lão Ở Địa Phương Bao Gồm Những Chức Vụ Ân Tứ.
    3. B. CÁC CHẤP SỰ
      1. 1. Công Việc Của Họ
      2. 2. Những Phẩm Chất Của Họ
    4. C. NHỮNG CHỨC VỤ KHÁC
    5. D. KẾT LUẬN
  11. E7.10 - Sự Trang Bị Siêu Nhiên Cho Hội Thánh Tư Gia
    1. A. TÍN ĐỒ VÀ THÁNH LINH
      1. 1. "Đấng Yên Ủi Khác"
      2. 2. Thánh Linh Trong Tín Đồ
    2. B. CHÍN ÂN TỨ THÁNH LINH
      1. 1. Các Ân Tứ Mặc Khải
        1. a. Lời Tri Thức.
        2. b. Lời Khôn Ngoan.
        3. c. Phân Biệt Các Linh.
      2. 2. Các Ân Tứ Về Quyền Năng
        1. a. Ân Tứ Đức Tin.
        2. b. Các Ân Tứ Về Các Sự Chữa Lành.
        3. c. Làm Các Phép Lạ.
      3. 3. Các Ân Tứ Về Lời Nói Được Cảm Động
        1. a. Ân Tứ Tiếng Mới.
        2. b. Ân Tứ Thông Giải Tiếng Lạ.
        3. c. Ân Tứ Tiên Tri.
    3. C. CON ĐƯỜNG TỐT LÀNH HƠN
      1. 1. Các Ân Tứ Với Tình Yêu Thương
  12. E7.11 - Mỗi Hội Thánh Tư Gia Là Một Căn Cứ Truyền Giáo
    1. A. HỘI THÁNH TÂN ƯỚC
      1. 1. Hội Thánh ở Giêrusalem
      2. 2. Sự Bắt Bớ Tạo Nên Sự Truyền Giáo
      3. 3. Hội Thánh Ở Antiốt
      4. 4. Sự Nhận Thức Về Chức Vụ Ân Tứ
      5. 5. Khuôn Mẫu Cho Ngày Nay
    2. B. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP GỢI Ý VỀ SỰ TRUYỀN GIÁO CHO THỜI ĐẠI CỦA CHÚNG TA
      1. 1. Rao Giảng Tin Lành
      2. 2. Các Chiến Dịch Bằng Sự Viếng Thăm Của Những Nhà Truyền Giáo.
      3. 3. Các Phim Ảnh Cơ Đốc
      4. 4. Truyền Đạo Đơn
      5. 5. Cá Nhân Chứng Đạo
      6. 6. Các Sinh Hoạt Thanh Niên
      7. 7. Sự Quảng Bá
  13. E7.12 - Sự Kêu Gọi Của Mùa Gặt
    1. A. THEO GƯƠNG MẪU CỦA CHỦ MÙA GẶT
      1. 1. Thức Ăn Của Ông Chủ Phải Là Thức Ăn Của Chúng Ta.
        1. a. Làm Theo Ý Cha.
      2. 2. Thời Điểm Của Chủ Mùa Gặt Là Thời Điểm Của Chúng Ta
        1. a. Thời Gian Có Hạn.
      3. 3. Phương Pháp Của Chủ Là Phương Pháp Của Chúng Ta
        1. a. Các Dấu Kỳ Và Phép Lạ Làm Cho Vững Đạo.
      4. 4. Động Cơ Của Chủ Là Động Cơ Của Chúng Ta
        1. a. Sự Thương Xót Đẩy Chúng Ta Đến Chỗ Hành Động.
      5. 5. Phần Thưởng Của Chủ Là Phần Thưởng Của Chúng Ta
        1. a. "Hoa Lợi Cho Sự Sống Đời Đời".


Lời Nói Đầu

Bạn cần hiểu từ "Hội Thánh" được dùng trong Tân Ước. Điều này sẽ giúp bạn có thể ứng dụng sự dạy dỗ sau cho trường hợp của bạn. Từ HyLạp "Ekklesia" được dịch là "Hội Thánh"

Theo bản King James từ này được dịch là "Hội chúng" (assembly) ba lần (Công 19:32, 39, 41). Trong những đoạn này, từ này nghĩa là một sự nhóm họp dân chúng công khai (trong trường hợp để nghe những lời buộc tội chống lại Phaolô).

Từ này được dịch là "Hội Thánh" trong 76 câu Kinh Thánh và "Các Hội Thánh" trong 35 câu. Cách dùng của từ này nói đến:

Hội Thánh Chung (Khắp thế giới hoặc nhiều nơi).

Chẳng hạn như: "Ta bảo các ngươi rằng. .. Ta sẽ lập Hội Thánh ta trên đá này. Các cửa âm phủ chẳng thắng được hội đó " (Mat 16:18). "Ấy vậy các Hội Thánh trong cả xứ Giuđê, xứ Galilê và xứ Samari. .. được thêm lên " (Công 9:31).

Hội Thánh trong một thành phố (thường được thành lập bởi các Hội Thánh tư gia):

"... Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội Thánh (ở thành Giêrusalem)" (2:47).

"... Trong lúc đó, Hội Thánh ở thành Giêrusalem gặp cơn bắt bớ dữ tợn. .." (8:1; 11:2).

"Hãy viết cho thiên sứ của Hội Thánh ở Êphêsô rằng. .." (Khải 2:1).

Bạn sẽ thấy Hội Thánh của một thành phố được nói đến có sự tương phản với một Hội Thánh "tư gia"."Gaiút là người tiếp đãi tôi cũng tiếp đãi cả Hội Thánh (tất cả các Hội Thánh tư gia trong thành phố), chào anh em " (Rô 16:23).

Hội Thánh Tư Gia: Bạn hãy so sánh phần vừa nói ở trên giữa "cả Hội Thánh" (Hội Thánh Chung) và "Hội Thánh tư gia". "Hãy chào Bêrítsin và Aquila. Kẻ cùng làm việc với tôi trong Đức Chúa Jesus Christ. Cũng hãy chào Hội Thánh nhóm tại nhà họ nữa " (16:3, 5).

"Hãy chào các anh em ở Laođixê (Hội Thánh tại thành Laođixê) và Nimpha, cùng Hội Thánh nhóm trong nhà người (Hội Thánh tư gia)" (Cô 4:15).

Bạn chú ý thấy rằng sau khi Phierơ và Giăng được thả tự do, Kinh Thánh chép: "Khi được thả ra, hai người đến cùng anh em mình (Hội Thánh tư gia), thuật lại mọi điều các thầy tế lễ cả và các trưởng lão đã nói " (Công 4:23).

Khi thiên sứ đem Phierơ ra khỏi ngục, ông đến với Hội Thánh tư gia của mình "... Người đến nhà Mary (Hội Thánh), mẹ của Giăng, cũng gọi là Mác, là nơi có nhiều người đang nhóm lại " (12:12).

Các Hội Thánh Tư Gia Trong Hội Thánh Thành Phố:

"Vậy khi cả Hội Thánh (Hội Thánh thành phố) nhóm lại một nơi. .." (ICôr 14:23).

"Cả Hội Thánh " ám chỉ đến "nhiều Hội Thánh tư gia" ở Côrinhtô và các Hội Thánh tư gia này đã tạo nên "Hội Thánh tại thành phố". Tất cả các Hội Thánh tư gia này thường nhóm lại để thông công và phụng sự trong một buổi nhóm chung. Trong đoạn Kinh Thánh này, Phaolô đã hướng dẫn cách tổ chức buổi nhóm đặc biệt này như thế nào.

E7.1 - Chương 1: QUYỀN NĂNG CỦA SỰ KHAO KHÁT SÂU XA

Phần Dẫn Nhập

Chúng tôi đang nói về một lẽ thật mà có thể làm cuộc cách mạng cho đời sống bạn. Chúng ta sẽ khám phá một nguồn nước sống. Từ nguồn nước này tuôn chảy ra một đức tin thật, sự cầu nguyện có hiệu quả và tất cả những phước hạnh của sự đắc thắng thuộc linh. Những phước hạnh này dành cho bạn nói riêng và cho cả Hội Thánh nói chung.

Tôi nghĩ chúng ta chưa từng tiếp nhận quyền năng lớn lao trong sự KHAO KHÁT.

Chúng ta nghe nhiều về sự cầu nguyện, bài giảng về đức tin. Nhưng khi chúng ta nói đến sư khao khát, đó là điều chúng ta phải giải quyết trước tiên. Khao khát là nền tảng mà chúng ta xây dựng đức tin dời núi và đời sống cầu nguyện có quyền năng trên đó. Đây là bí quyết của sự phục hưng tâm linh thật sự.

A. SỰ KHAO KHÁT LÀ GÌ?

Chúng ta thường dùng từ này không đúng lắm. Chúng ta dùng với ý nghĩa một ước muốn đã qua, những hy vọng hoặc "những mong muốn" của chúng ta.

Tuy nhiên có một ý nghĩa lớn về sự khao khát sâu xa này mà hầu như không ai hiểu thấu đáo. Chữ ao ước sâu xa, mạnh mẽ là chữ được dùng cho từ này theo ý nghĩa đúng đắn và sâu sắc nhất của nó.

1. Sự Đam Mê Mạnh Mẽ

Khao khát là sự đam mê mạnh mẽ một điều gì đó, là sự thèm khát thánh thiện chưa được thỏa mãn xuất phát từ một "khải tượng", một "quan điểm" thúc đẩy đời sống của chúng ta và hình thành chức vụ của chúng ta.

Có rất ít người biết đến sự thành công thật sự và có giá trị trừ khi trong lòng họ rực cháy ngọn lửa khát khao mãnh liệt này.

2. Sự Hiểu Biết Và Khải Tượng Phải Gắn Liền Với Nhau

Có hai câu Kinh Thánh rất hay mà tôi muốn so sánh.

Câu thứ nhất trong Ôs 4:6 "Dân ta bị diệt vì thiếu hiểu biết ". Sự hiểu biết, tự nó không đem đến quyền năng nhưng nếu chúng ta biết vận dụng nó thì điều đó có thể.

Câu thứ hai trong Châm 29:18 "Nơi nào thiếu sự mặc khải (khải tượng), nơi đó dân sự chết mất ". Khải tượng là ánh sáng (sự mặc khải) mà chúng ta nhận được về mục đích của Đức Chúa Trời cho đời sống và chức vụ của chúng ta.

Hai câu này dạy chúng ta hai điều:

• Dân sự không có sự hiểu biết có nguy cơ bị hủy diệt.

• Nhưng dân sự không có khải tượng thì sẽ chết mất. Họ chết từ từ nhưng chắc chắn sẽ đánh mất sự hữu dụng của họ.

Sự khao khát sâu xa là kết quả của việc kết hợp sự hiểu biết và khải tượng. Chính sự hiểu biết khơi lên ngọn lửa trong chúng ta.

Sự hiểu biết giống như một cái máy nhưng khải tượng tạo nên sự khao khát mạnh mẽ để vận hành cái máy đó.

3. Tạo Nên Đức Tin Thật

Đức tin thật được hình thành từ sự hiểu biết Lời Chúa, nhưng chỉ có sự hiểu biết thôi vẫn chưa đủ. Sự hiểu biết của chúng ta về Lời Đức Chúa Trời sẽ tạo nên trong chúng ta sự khao khát mãnh liệt là muốm làm trọn Lời của Ngài.

Nhiều người biết những lời hứa của Đức Chúa Trời nhưng họ chẳng bao giờ hành động theo những lời hứa đó vì họ thiếu lòng khao khát sâu xa và mãnh liệt.

Một lòng khao khát như vậy sẽ làm cho chúng ta không những chỉ biết về lời hứa của Đức Chúa Trời nhưng còn thường xuyên NGHĨ về chúng, NÓI về chúng, vui mừng trong chúng và HÀNH ĐỘNG theo chúng. Đây là loại đức tin sản sinh ra KHẢI TƯỢNG và được sinh ra từ khao khát mạnh mẽ.

Nhiều người trong chúng ta thích câu nói của Chúa Jesus trong Mác 11:24 "Hễ điều gì các ngươi KHAO KHÁT trong khi CẦU NGUYỆN, hãy tin đã NHẬN được, tất điều đó sẽ ban cho các ngươi ". Ở đây chúng ta thấy sự cầu nguyện, đức tin và sự nhận lãnh của chúng ta đều xuất phát từ lòng khao khát của chúng ta.

Thật là tuyệt diệu khi chúng ta biết về phúc âm, tin mừng về sự cứu rỗi, những lẽ thật về sự chữa lành thiên thượng, Báptêm Thánh Linh và tất cả những sự cung cấp vinh diệu của sứ điệp tin lành này.

Tuy nhiên sự hiểu biết về những vấn đề này không đủ đem đến sự đắc thắng và sự phục hưng mà chúng ta cần. Nhìn thấy người dân được cứu, được chữa lành và được báptêm trong Thánh Linh phải trở thành một khao khát mãnh liệt, một khải tượng thường xuyên của chúng ta. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấy và chứng minh được quyền năng của tin lành.

B. SỰ KHAO KHÁT SÂU XA NHẤT CỦA TÔI LÀ GÌ?

Thật là tốt cho mỗi chúng ta cứ thường xuyên tự hỏi mình như vậy. Thật là tốt cho chúng ta để có một khao khát hàng đầu trong đời sống.

Điều này được xác định theo:

• Những nhu cầu của chúng ta

• Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời trên đời sống của chúng ta

• Hoàn cảnh của chúng ta

• Kinh nghiệm thuộc linh của chúng ta.

Ngay bây giờ bạn hãy dừng lại và tự hỏi: "Khao khát sâu xa và mãnh liệt nhất của tôi là gì?".

Sau đó bạn hãy hỏi câu này công khai trong Hội chúng, trong Hội Thánh tư gia, một nhóm tín đồ trong Chúa.

C. CÓ QUYỀN NĂNG TRONG SỰ KHAO KHÁT HIỆP NHẤT

Một trong những bí quyết lớn để Hội Thánh đầu tiên được thành công một cách siêu nhiên là sự hiệp một của họ. Người ta nói về họ rằng: "Tất cả họ hiệp một lòng, một ý ". Họ đã hiệp một trong mục đích, sự cầu nguyện và chức vụ.

Kinh Thánh Tân Ước dạy chúng ta rằng có một quyền năng vô hạn trong khải tượng hiệp nhất: hiệp một trong sự khao khát và niềm tin.

D. NHỮNG LĨNH VỰC CẦN CÓ SỰ KHAO KHÁT HIỆP NHẤT

Đây là một số điều mà chúng ta thấy có sự khao khát hiệp nhất.

1. Sự Cứu Rỗi Của Những Người Đàn Ông Và Đàn Bà

Điều này là ưu tiên hàng đầu của chúng ta.

Sách Công-vụ thuật lại nhiều người thường xuyên tin nhận Chúa. Điều này bao gồm cả việc tin Chúa của nhiều người và việc chinh phục những người đàn ông và đàn bà cho Chúa hàng ngày.

Có điều nguy hiểm lớn là người ta đã trở nên xa lạ với ý tưởng về những kết quả lớn, số lớn người quay về với Chúa đồng một lúc. Đó là điều kỳ diệu và chắc chắn phải có trong kế hoạch của Hội Thánh ngày hôm nay như đã có trong thời kỳ Tân Ước. Tuy nhiên không gì có thể thay thế được tầm quan trọng và giá trị của việc đưa nhiều người đến với Chúa một cách có hệ thống, hàng ngày và hàng tuần.

Trong Công 2:41, Kinh Thánh chép có 3.000 người được cứu vào ngày lễ Ngũ tuần. Trong 4:4, chúng ta thấy có 5.000 người được chinh phục cho Chúa trong một lúc. Đây là những điểm nổi bật nhất trong công tác truyền giáo cho đoàn dân.

Tuy nhiên trong 2:47, chúng ta thấy có một khuôn mẫu truyền giáo của Hội Thánh tại thành phố Giêrusalem "... và mỗi ngày Chúa thêm những kẻ được cứu vào Hội Thánh ".

Các Hội Thánh thường trông cậy nơi chức vụ của một người giảng tin lành đặc biệt, một chiến dịch lớn với một đám đông lớn, để đem nhiều người vào trong số họ. Điều này tốt và chắc chắn có lúc điều này sẽ xảy ra (nếu hoàn cảnh cho phép).

Tuy nhiên không gì có thể thay thế được kết quả kỳ diệu của việc cứu người thường xuyên và có hệ thống. Điều này chỉ có thể xảy ra khi mỗi Hội Thánh tư gia thấm nhuần một khải tượng quan trọng xuất phát từ một lòng khao khát chinh phục người hư mất một cách mãnh liệt.

Nếu Đức Chúa Trời không bao gồm việc cứu người trong kế hoạch của Ngài cho Hội Thánh, thì có lẽ Hội Thánh đã tàn lụi ngay từ trong những ngày đầu. Cảm tạ Đức Chúa Trời, Hội Thánh đã không tàn lụi và sẽ không tàn lụi khi các tín đồ và các Hội Thánh ở các thành phố biết khát khao, tin cậy, cầu nguyện và làm việc để cứu người và hàng ngày đem họ vào Hội Thánh.

2. Chữa Lành Người Bệnh

Có hai lý do mà chúng ta cần ước ao với cả tấm lòng:

• Vì chúng ta thương xót những người đang chịu đau khổ và

• Vì chúng ta khao khát dấu kỳ phép lạ để khẳng định Tin Lành mà chúng ta đang rao giảng.

3. Sự Tuôn Đổ Của Thánh Linh

Có lẽ chúng ta chưa bao giờ phối hợp sứ điệp của chúng ta với kinh nghiệm của Thánh Linh. Đây vẫn còn là thời kỳ của Thánh Linh. Chúng ta cần Báptêm trong Thánh Linh, những ân tứ của Thánh Linh và chúng ta cần bày tỏ bông trái của Thánh Linh. Chúng ta cần quyền năng của Ngài trong đời sống và chức vụ của chúng ta.

Chắc chắn đây là điều chúng ta cần phải đói khát, và khao khát sâu xa. Nguyện sự phục hưng thật sự của Thánh Linh là điều chiếm vị trí ưu tiên trong khải tượng của chúng ta.

4. Hội Thánh Tân Ước Đang Hành Động

Khải tượng về sự phục hưng trong Tân Ước bao gồm mọi phước hạnh và mọi sự cung cấp mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta. Nguyện chúng ta không chỉ tin theo Tân Ước mà chúng ta còn hết lòng khao khát với cả tấm lòng để làm việc, thờ phượng và làm chứng theo khuôn mẫu của Tân Ước.

Thưa các bạn, tôi được thuyết phục về điều này: Nếu khải tượng của chúng ta chứa đầy những điều này, nếu tấm lòng và tâm trí của mỗi tín đồ và mỗi Hội Thánh đều có quan niệm này và nếu chúng ta tận hiến cho những điều chúng ta tin chắc thì chúng ta sẽ thấy sự phục hưng với qui mô lớn trước khi thời đại này kết thúc và Đấng Christ trở lại.

Bạn hãy nhớ rằng sự hiểu biết chưa đủ. Chúng ta phải có sự hiểu biết, nhưng trên hết, chúng ta phải có khải tượng và một tấm lòng bùng cháy với lòng khao khát tin kính.

E7. 2 - Quyền Năng Vô Hạn Của Sự Hiệp Nhất Tận Hiến

Phần Dẫn Nhập

Trong chương vừa rồi, chúng tôi đã viết về quyền năng của sự khao khát sâu xa trong tấm lòng của chúng ta và lòng khao khát hiệp nhất trong Hội Thánh tư gia. Chúng tôi muốn nói vấn đề này nhiều hơn vì cho rằng quyền năng lớn lao này sẽ được phóng thích khi các người nam, người nữ Cơ đốc bước vào sự hiệp nhất tận hiến.

Một chương trình gồm năm điểm cho sự phục hưng trong Hội Thánh là:

• Lòng khát khao sâu xa

• Một chương trình xác định

• Sự hiệp nhất tận hiến

• Những ý tưởng có kỷ luật

• Chức vụ giải cứu.

Điểm thứ nhất đã được nói trong chương 1. Điểm thứ hai phải được mỗi Hội Thánh tư gia hoặc Hội Thánh tại thành phố tiến hành theo hoàn cảnh của họ (xem chương 11).

Chương này nói đến điểm thứ ba và thứ tư. Đó là sự hiệp nhất tận hiến và những ý tưởng có kỷ luật. Chắc chắn đây là hai chìa khóa rất quan trọng để khai phóng quyền năng của Đức Chúa Trời bằng sự phục hưng theo kiểu Tân Ước đúng đắn cho bất cứ Hội Thánh tư gia nào.

A. LÀM VIỆC THEO ĐỘI HẾT MÌNH

Khi chúng tôi nói đến sự hiệp một, nhiều người đã nghĩ đến sự hiệp theo nghĩa thụ động. Họ cảm thấy rằng sự hiệp một chỉ có được bằng cách gạt bỏ sự xích mích và những bất đồng giữa vòng dân sự.

Kiểu hiệp một mà Kinh Thánh Tân Ước mô tả cao hơn sự hiệp một thụ động. Đó là làm việc theo đội cách tích cực. Đó là sự HIỆP MỘT TRONG HÀNH ĐỘNG.

Sự hiệp nhất tận hiến như vậy có thể thực hiện ở bất cứ mức độ nào, giữa vòng những người lãnh đạo Hội Thánh, giữa vòng những người có chức vụ đi truyền giáo, giữa vòng các con cái Chúa trong Hội Thánh, hoặc với bất kỳ nhóm tín đồ nào có chung một mục đích trong sự hầu việc Chúa.

1. Sự Tận Hiến Cần Phải Có Ba Mặt

Làm việc theo đội như vậy đòi hỏi phải có sự tận hiến theo ba mặt:

a. Đối với Chúa.

b. Đối với khải tượng hoặc sự khao khát của đội và đối với chương trình rõ ràng của khải tượng đó.

c. Đối với mỗi thành viên của đội.

Đây là một bí quyết quan trọng về sự phục hưng và phước hạnh của Đức Chúa Trời trong bất kỳ Hội Thánh hoặc nhóm tín đồ nào. Tuy nhiên cũng khá ngạc nhiên vì đó cũng là điều bị lơ là nhất.

Chúng ta phải cầu nguyện và hy vọng về sự hiệp một, nhưng sự hiệp một sẽ chẳng bao giờ đạt được cách thành công trừ khi chúng ta phải làm việc hết lòng. Kết quả của sự hiệp một tạo ra sẽ là một phần thưởng lớn cho tất cả sự nỗ lực và lao khổ.

2. Hai Điều Lợi Khi Làm Việc Theo Đội

Kinh Thánh đưa ra hai điều lợi kỳ diệu của việc kết ước làm việc theo đội. Chúng ta hãy xem xét hai điều đó:

a. Tạo Nên Sự Che Chở.

Ở đây chúng ta thấy giá trị bảo vệ của người tận hiến. Bạn hãy suy nghĩ về sự khôn ngoan của Sa-lô-môn trong Châm 11:14 "Dân sự sa ngã tại không chánh trị, song nếu có nhiều mưu sĩ bèn được yên ổn". Và trong đoạn 15:22 "Đâu không có nghị luận, đó mưu định phải phế. Nhưng nhờ có nhiều mưu sĩ, mưu định bèn được thành ".

Chiến thuật nham hiểm "Chia để trị" của Satan đã xưa lắm rồi. Nhưng nơi nào anh em cùng nhau nghị luận trong đội tận hiến thì những nỗ lực của ma quỉ sẽ bị ngăn chặn và có sự an toàn, sự bảo vệ cho dân sự của Đức Chúa Trời.

Có bao nhiêu mục đích có giá trị đã "thất vọng" và không được thực hiện vì cớ thiếu sự hiệp nhất tận hiến? Khi nào các tín đồ cùng chia xẻ một khát vọng chung, biết hiệp một và làm việc theo đội cách hết lòng thì những mục đích đó có thể được thực hiện. Vâng, thưa các bạn, sự phòng ngự chắc chắn nhất của chúng ta chống lại sự tấn công mạnh mẽ của kẻ thù là sự hiệp nhất tận hiến giữa vòng chúng ta.

Tiếp theo chúng ta hãy xét đến:

b. Khai Phóng Quyền Năng.

Chúng ta chưa bao giờ dừng lại để suy gẫm về chiều sâu và phạm vi của quyền năng làm phép lạ được ẩn giấu trong lời phán của Chúa Jesus ở Mat 18:19, 20 sao "Quả thật ta lại nói cùng các ngươi, nếu hai người trong các ngươi thuận nhau ở dưới đất mà cầu xin không cứ việc chi thì Cha ta ở trên trời sẽ nghe họ. Vì nơi nào có hai, ba người nhơn danh ta nhóm nhau lại, thì ta ở giữa họ ".

Nhiều bản Kinh Thánh đã đặt tiêu đề trên câu 20 là "HÌNH THỨC ĐƠN GIẢN NHẤT CỦA HỘI THÁNH TƯ GIA". Thật vậy, lời bình luận của Chúa chúng ta từ câu 15 đến hết câu 20 là đặc biệt nói đến Hội Thánh tư gia. Ở đây Ngài nói đến quyền năng vô hạn của sự hiệp nhất hết lòng giữa vòng các tín đồ.

Sách Công-vụ (là sách tường thuật có tính lịch sử về Hội Thánh đầu tiên) làm cho chúng ta chú ý đến đặc điểm quan trọng và chủ yếu của họ là sự hiệp một:

"Hết thảy những người đó đều BỀN LÒNG ĐỒNG MỘT Ý mà cầu nguyện " (Công 1:14).

"Đến ngày lễ Ngũ tuần, họ đều ĐỒNG LÒNG nhóm lại một chỗ " (2:1).

"Ngày nào cũng vậy, họ HIỆP MỘT ở đền thờ, còn ở nhà thì bẻ bánh và dùng bữa với nhau cách vui vẻ thật thà " (2:46).

"Mọi người. .. MỘT LÒNG cất tiếng lên cầu Đức Chúa Trời. .." (4:24).

"Vả, người tin theo đông lắm, cứ MỘT LÒNG, MỘT Ý với nhau " (4:32).

3. Những Lãnh Đạo Chính Cần Có Sự Hiệp Một

Các giáo phụ Hội Thánh đầu tiên đã nói "Nơi nào có ba người nơi đó có Hội Thánh". Chúng ta có thể nói thêm rằng "Nơi nào có ba người hiệp nhất tận hiến nơi đó có Hội Thánh quyền năng".

Cần có những người chăn chính hoặc những lãnh đạo nòng cốt (xem Giê 25:34-36).

Trong một Hội Thánh thời Tân Ước, chúng ta phải luôn nhận diện và đi theo người lãnh đạo chính (hoặc người chăn trưởng), người mà Đấng Christ đã ban cho.

Tuy nhiên người lãnh đạo chính này không thể đánh giá thấp một nhu cầu cấp bách của nhóm những người lãnh đạo hết lòng cùng nhau làm việc theo đội

Mọi đội cần có một người lãnh đạo nồng cốt; nhưng những người lãnh đạo nồng cốt cũng phải nằm trong một đội.

Mọi Hội Thánh tư gia đều cần có một người lãnh đạo chăn bầy nòng cốt nhưng người chăn bầy này sẽ làm việc có hiệu quả hơn khi người đó có một nhóm người lãnh đạo khác tập trung quanh và giúp đỡ người đó.

B. DUY TRÌ SỰ HIỆP MỘT

Nhu cầu thiết lập sự hiệp nhất tận hiến cũng tương đương nhu cầu duy trì sự hiệp một đó. Với ý tưởng đó, chúng ta nên có những suy nghĩ như sau:

1. Giá Phải Trả

Không cần phải nghiên cứu Kinh Thánh Tân Ước cách chi tiết mới phát hiện được điều này:

Mỗi tín đồ và mỗi Hội Thánh đều phải có trách nhiệm duy trì sự hiệp một mà Đức Chúa Trời đã tạo nên trong Thánh Linh.

"Dùng dây hòa bình mà GIỮ (duy trì) sự hiệp một của Thánh Linh " (Êph 4:3).

Câu này có thể diễn đạt như sau: "Cố gắng bằng mọi phương tiện có sẵn để duy trì sự hiệp một của Thánh Linh, bằng cách làm cho chính mình trở nên một tù nhân của sự hòa bình ".

Ở đây Kinh Thánh không nói đến việc "tạo ra" hay "tổ chức" một sự hiệp một. Kinh Thánh nói đến sự gìn giữ hoặc duy trì sự hiệp một đã được làm nên cho chúng ta trong Thánh Linh rồi.

Có một giá phải trả. Đó là chúng ta phải sẵn sàng trở thành "tù nhân của sự hòa bình".

Nói cách khác, sự tự do thật có những giới hạn của nó. Chúng ta được tự do chạy xe đạp hay lái xe hơi nhưng chúng ta phải tuân theo luật giao thông. Chúng ta có thể sử dụng tất cả những quyền công dân nhưng phải tuân theo luật pháp và giữ gìn trật tự.

Trong Hội Thánh cũng vậy. Chúng ta chỉ có thể duy trì sự hiệp một của Thánh Linh khi chúng ta có trách nhiệm duy trì sự hòa bình với các anh, chị, em của chúng ta trong Hội Thánh.

Đây là trách nhiệm mà tất cả chúng ta phải chấp nhận nếu chúng ta muốn hưởng thụ được tiềm lực của quyền năng trong sự hiệp nhất tận hiến.

Tiếp theo chúng ta xem xét đến:

2. Một Khuôn Mẫu Cần Phải Làm Theo

Một ngày nọ khi tôi đang đọc Kinh Thánh và suy gẫm về những nhu cầu của những Hội Thánh mà tôi đang phụng sự thì những lời của Phaolô đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên tôi:

"Duy anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với Tin lành của Đấng Christ, để hoặc khi đến thăm anh em, hoặc khi vắng mặt, tôi cũng biết rằng anh em một lòng đứng vững, đồng tâm chống cự vì đức tin của Tin lành, phàm sự gì chẳng để cho kẻ thù nghịch ngăm dọa mình, điều đó là một chứng nghiệm chúng nó phải hư mất, còn anh em được cứu rỗi, và ấy là từ nơi Đức Chúa Trời " (Phil 1:27, 28 bản King James).

"Nhưng dù có điều gì xảy ra với tôi, hãy luôn nhớ rằng phải sống như những Cơ đốc nhân, để hoặc tôi trở lại thăm anh em hoặc không, tôi cũng cứ nghe nói tốt về anh em rằng anh em vẫn đứng sát cánh với một mục đích vững vàng, tức là nói về Tin lành không hề sợ hãi dù kẻ thù của anh em có muốn làm gì " (1:27, 28 bản tlb).

Ở đây chúng ta thấy một gánh nặng lớn trong lòng sứ đồ Phaolô là ông quan tâm đến các Hội Thánh.

Ông đã nhận được tin tốt gì về Hội Thánh ở thành Philíp và các Hội Thánh tư gia tại đó mà ông lại quan tâm đến như vậy?

Đây là điều đã đem niềm vui đến cho lòng ông hơn bất cứ điều gì khác: Đó là việc họ đứng vững trong một tâm linh, và cùng một tâm trí để cùng đấu tranh cho đức tin của tin lành.

Phaolô biết rằng nếu tình trạng này là phổ biến trong bất kỳ Hội Thánh nào thì những điều còn lại sẽ xảy ra. Đó là sự cứu rỗi tội nhân, sự chữa lành người bệnh và phước hạnh của sự phục hưng.

Hãy chú ý hai điều mà Phaolô quan tâm:

• Các tín đồ đều đứng vững trong MỘT TÂM LINH.

• Và họ cùng MỘT TÂM TRÍ để đấu tranh cho tin lành.

Đây là khuôn mẫu của sự hiệp một thuộc linh thật sự.

a. Đứng Vững Trong Một Tâm Linh.

Mỗi tín đồ được tái sanh đều nhận được một tâm linh mới (Êxê 11:19; 18:31). Đây là điều Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta khi chúng ta tin Ngài.

Chính trong tâm linh (hay tấm lòng của con người) chúng ta kinh nghiệm được sự tái sanh, sự xưng nghĩa và quyền năng của Đấng Christ ngự vào. Đây là phép lạ của sự tái sanh. Mỗi Hội Thánh tư gia là một tập thể những người được tái sanh, được Đấng Christ ngự ở trong.

Vì vậy đây là nền tảng cho sự hiệp một của chúng ta: Tất cả chúng ta là những kẻ dự phần trong Thánh Linh của Đấng Christ.

Chúng ta phải tiếp nhận sự kiện này. Chúng ta phải đứng vững trong sự mặc khải này. Đây là điểm khởi đầu của chúng ta.

Chúng ta hãy tiếp nhận những gì Đức Chúa Trời đã thực hiện trong đời sống của mỗi cá nhân chúng ta và biết rằng chúng ta là một tập thể những tạo vật mới trong Đấng Christ.

Chúng ta hãy đứng vững trong một tâm linh.

b. Với Một Tâm Trí Cùng Đấu Tranh.

Đây là trách nhiệm của chúng ta!

Kinh Thánh Tân Ước nói nhiều đến sự đổi mới tâm trí (Rô 12:2; Êph 4:23).

Khi suy gẫm về những ý tưởng này, tôi đã đọc hết Philíp đoạn 2 và chú ý đến việc Phaolô nhấn mạnh đến trách nhiệm của chúng ta phải biết chăm sóc tâm trí và tư tưởng của chúng ta.

Ông nói: "Anh em hãy hiệp ý với nhau. .. hãy khiêm nhường. .. Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có. .." (Phil 2:2, 3, 5).

Tâm trí của chúng ta bao gồm ý chí, khả năng lý luận, những tư tưởng và tình cảm. Trách nhiệm của chúng ta là phải nhờ sự hướng dẫn của Lời Đức Chúa Trời và sự giúp đỡ của Thánh Linh để chăm sóc những điều này.

Đức Chúa Trời đã làm những gì mà chúng ta không thể làm. Ngài đã tạo nên một tâm linh mới trong chúng ta và làm cho chúng ta trở nên con cái của Đức Chúa Trời. Bây giờ chúng ta phải sống và bước đi cách xứng đáng với sự kêu gọi của chúng ta. Việc kiểm soát cách cư xử của chúng ta là thái độ của tâm trí chúng ta.

Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta điểm khởi đầu để chúng ta hiệp một và chúng ta phải đứng vững trong sự mặc khải về địa vị của chúng ta trong Đấng Christ. Chúng ta hãy vui mừng về những gì Đức Chúa Trời đã làm trong chúng ta. Sau đó chúng ta hãy bày tỏ sự đắc thắng ra hằng ngày qua tâm trí, tư tưởng và hành động của chúng ta.

1) Đổi Mới Tâm Trí. Tâm trí là nơi ma quỉ thường hành động. Trước hết nó tìm cách gieo những hạt giống chia rẽ, những tư tưởng thành kiến, sự ganh tị và không tin cậy. Hạt giống nghi ngờ đựợc gieo trong tâm trí chúng ta trước khi những hạt giống đó được bày tỏ trong lời nói và hành động của chúng ta.

Nếu chúng ta duy trì sự hiệp một và vui hưởng những giá trị lớn lao của sự hiệp một thì chúng ta sẽ sẵn sàng trả giá và làm theo khuôn mẫu đó.

Chúng ta phải đứng vững trong một tâm linh, vui mừng về những gì Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta thì chúng ta sẽ cùng đấu tranh trong một tâm trí, thực hiện những gì Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta rồi. Nếu chúng ta suy nghĩ về lẽ thật này, chúng ta sẽ thấy rằng tâm trí chúng ta là lĩnh vực có sự ngăn trở lớn lao nhất.

Trong tấm lòng, chúng ta có đức tin nhưng đức tin đó thường bị thái độ tiêu cực của tâm trí và tình cảm cản trở. Toàn bộ đời sống thuộc linh của chúng ta sẽ bị hạn chế vì chúng ta đã không chịu đổi mới tâm trí.

Bạn hãy điều chỉnh thái độ (tâm trí) của bạn theo sự mặc khải để năng lực lớn lao hay quyền năng của Đấng Christ sẽ vận hành trong bạn. Đây là điều mà Phaolô đã nói trong Cô 1:29 (bản tlb): "Đây là công việc của tôi và tôi chỉ có thể làm điều đó vì năng lực lớn lao của Đấng Christ đang hành động trong tôi ".

C. KẾT LUẬN

Hội Thánh đầu tiên đã hiểu bí quyết đứng vững trong một tâm linh và đấu tranh trong cùng một tâm trí này. Trong Công 4:32 chép

"Người tin theo đông lắm cứ MỘT LÒNG (hoặc tâm linh), MỘT Ý (hoặc tâm hồn) cùng nhau ". Chắc chắn bởi sự hiệp nhất tận hiến được thể hiện trong tinh thần làm việc theo đội tạo nên quyền năng vô hạn.

Sẽ có biết bao sự biến đổi xảy ra nếu các Hội Thánh tư gia ở mọi nơi đều nhận thức được khả năng lớn lao của sự hiệp một thật sự theo khuôn mẫu Tân Ước!

Các Hội Thánh tư gia có thể kinh nghiệm được sự phục hưng lớn lao nếu họ tiếp nhận và thực hiện quan niệm hiệp nhất tích cực này theo Tân Ước.

Đây chính là sự phòng thủ chắc chắn để chống lại sự tấn công chia rẽ của ma quỉ. Đây là đường lối do Chúa chỉ định để bước vào quyền năng và phước hạnh của sự phục hưng theo Tân Ước.

E7. 3 - Rao Giảng Đầy Đủ Về Tin Lành Của Đấng Christ

Phần Dẫn Nhập

"Vì tôi chẳng dám nói những sự khác hơn sự mà Đấng Christ cậy tôi làm ra để khiến dân ngoại vâng phục Ngài bởi lời nói và bởi việc làm, bởi quyền phép của dấu kỳ phép lạ, bởi quyền phép của Thánh Linh Đức Chúa Trời. Ấy là từ thành Giêrusalem và các miền xung quanh cho đến xứ Ilyri, tôi đã RAO GIẢNG ĐẦY ĐỦ về tin lành của Đấng Christ. ..

"Tôi biết khi tôi sang với anh em thì sẽ đem ơn phước dồi dào của Đấng Christ cùng đến " (Rô 15:18, 19, 29).

Trong chương trước, chúng tôi đã nói nhiều bí quyết về sự phục hưng trong Hội Thánh thành phố hoặc Hội Thánh tư gia. Đây là những nguyên tắc cơ bản để dẫn đến sự thành công trong bất kỳ Hội Thánh nào. Tuy nhiên chúng ta phải có một sứ điệp, một sứ điệp đúng đắn, một sứ điệp của Đức Chúa Trời, theo Lời của Ngài.

Vì vậy đây là bí quyết không thể thiếu được của sự phục hưng: Quyền năng của tin lành trọn vẹn.

A. TIN LÀNH TRỌN VẸN LÀ GÌ?

Khi chúng tôi dùng từ "tin lành trọn vẹn", có thể một số người cho rằng có hai loại tin lành trong Kinh Thánh. Dĩ nhiên không phải như thế.

Tôi tin rằng Phaolô đã bày tỏ ý tưởng này rất rõ ràng khi ông viết "Tôi đã rao giảng ĐẦY ĐỦ (trọn vẹn) về TIN LÀNH của Đấng Christ " và "Phước hạnh TRỌN VẸN của TIN LÀNH Đấng Christ ".

Tin lành trong Kinh Thánh của bạn cũng giống như tin lành trong Kinh Thánh của tôi, nhưng vấn đề chúng ta phải đối diện là liệu tin lành ấy có "được rao giảng đầy đủ" hay không. Chúng ta có bày tỏ "phước hạnh trọn vẹn của tin lành" đó hay không?

Chúng ta không thể có sự phục hưng như trong Tân Ước nếu chúng ta không rao giảng tin lành của Tân Ước. Chúng ta không thể có những kết quả như Phaolô đã có nếu chúng ta không rao giảng tin lành như Phaolô đã rao giảng.

Vì vậy đây là một sự thách thức cho chúng ta, cho những cá nhân cũng như cả Hội Thánh. Chúng ta có rao giảng như Phaolô đã rao giảng không? Hội Thánh của chúng ta có rao giảng như Phaolô không? Chúng ta có rao giảng đầy đủ về tin lành của Đấng Christ không?

B. PHAOLÔ ĐÃ RAO GIẢNG TIN LÀNH NHƯ THẾ NÀO?

Chúng ta chú ý rằng Phaolô đã nói "HẦU CHO. .. tôi rao giảng đầy đủ về tin lành của Đấng Christ ". Do đó chúng ta thấy rằng có những điều gì đó rất quan trọng trong tâm trí của Phaolô khiến ông có thể rao giảng đầy đủ về tin lành của Đấng Christ.

Để hiểu chi tiết về sứ điệp của Phaolô, chúng ta cần nghiên cứu cả sách Công-vụ và các thư tín của Phaolô và ở đây chúng ta không thể làm điều này được. Tuy nhiên có những nguyên tắc nổi bật trong chứa vụ của Phaolô để chúng ta nghiên cứu.

1. Ông Rao Giảng Cùng Với Sự Chứng Minh

Phaolô nói "... làm cho dân ngoại vâng phục tin lành bằng lời nói và việc làm " (Rô 15:18). "Lời nói và việc làm " là hai điều cần thiết trong sự rao giảng đầy đủ về tin lành. Không chỉ có lời nói trong chức vụ của Phaolô mà còn là những việc làm siêu nhiên.

Tin lành về sự phục sinh của Đấng Christ không chỉ là lý thuyết trong chức vụ của Phaolô. Ông đã nhìn thấy Chúa phục sinh. Ông đã chứng minh cho sứ điệp và xác quyết sứ điệp đó bằng cách bày tỏ quyền năng của Đức Chúa Trời. Đây là điều thường xảy ra trong chức vụ của tất cả các sứ đồ và những người giảng tin lành đầu tiên trong sách Công-vụ .

Trong câu đầu tiên của sách Công-vụ, Luca đã đề cập đến tin lành. Ông viết "Hỡi Thêôphilơ, trong sách thứ nhất ta (sách tin lành Luca), ta từng nói về mọi điều Đức Chúa Jesus đã làm và dạy từ ban đầu " (Công 1:1). Ở đây Luca xác nhận rằng những điều ghi chép về chức vụ của Đấng Christ trong sách tin lành của ông là "mọi điều Đức Chúa Jesus đã LÀM và DẠY".

Khi Luca viết sách Công-vụ , ông đã viết về chức vụ của Hội Thánh đầu tiên, ông cho chúng ta thấy bằng quyền năng của Thánh Linh, Chúa Jesus đã tiếp tục làm và dạy như thế nào. Chức vụ trong Hội Thánh thời Tân Ước phải bao gồm cả việc LÀM và DẠY. Cần phải có những công việc quyền năng cũng như những lời dạy dỗ.

Để giữ khuôn mẫu này, sứ đồ Phaolô đã rao giảng đầy đủ về tin lành bằng lời nói và việc làm.

2. Ông Rao Giảng Phước Hạnh Của Sự Cứu Rỗi

"Tôi biết khi tôi sang với anh em, thì sẽ đem ơn phước dồi dào của tin lành Đấng Christ đến " (Rô 15:29). Khi Phaolô nói điều này, ông hàm ý đến phước hạnh về sự cứu rỗi cá nhân.

Ngay trong đầu thư tín của ông, ông đã viết: "Ấy vậy hễ thuộc về tôi, thì tôi cũng sẵn lòng rao tin lành cho anh em là người ở thành Rôma. Thật vậy tôi không hổ thẹn về tin lành của Đấng Christ đâu vì ấy là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin " (1:15, 16).

Trong việc rao giảng đầy đủ về tin lành của Đấng Christ, và bày tỏ phước hạnh trọn vẹn của tin lành, Phaolô đã dạy rằng sự cứu rỗi là một kinh nghiệm thật sự quyền năng của Đức Chúa Trời thực hiện.

Thậm chí ngày nay, quyền năng của tin lành trọn vẹn mà chúng ta rao giảng bao gồm kinh nghiệm của sự cứu rỗi rất quan trọng và làm thay đổi lòng người. Chúng ta phải giảng để cứu những linh hồn hư mất! Chúng ta không được thỏa lòng nếu việc rao giảng của chúng ta hay sự rao giảng của hội thánh tư gia chúng ta không đem sự cứu rỗi đến cho những người nam, người nữ bằng quyền năng của Đức Chúa Trời.

Làm thế nào người ta có thể hưởng thụ được phước hạnh trọn vẹn của tin lành nếu phước hạnh này không đem sự cứu rỗi đến cho người khác? Làm thế nào người ta có thể hài lòng hưởng thụ quyền năng của tin lành trọn vẹn nếu quyền năng này không đụng chạm đến đời sống của những người chưa được cứu?

3. Ông Rao Giảng Phước Hạnh Của Sự Vâng Lời

Ông nói rằng tin lành mà ông đã rao giảng là "làm cho dân ngoại vâng phục. .." (15:18). Thật sự tin theo tin lành có nghĩa là vâng phục tin lành. Bước đầu tiên của sự vâng phục đối với những ai nói rằng họ tin tin lành là phép báptêm bằng nước.

Chúng ta chỉ đọc sách Công-vụ và nhiều đoạn trong các thư tín của Phaolô thì có thể khám phá ra rằng Phaolô tin chắc rằng báptêm bằng nước là vâng phục mạng lịnh của Đấng Christ.

Một kết quả cụ thể của việc rao giảng đầy đủ tin lành là những người theo Chúa phải chịu báptêm bằng nước như mạng lịnh của Ngài.

4. Ông Rao Giảng Bằng Dấu Kỳ Và Phép Lạ

Những từ mà Phaolô dùng là "những dấu kỳ và phép lạ quyền năng " (15:19) theo bản King James, thì bản NIV dịch là "bởi quyền năng của các dấu kỳ và phép lạ ". Đó chính là quyền năng của những dấu kỳ và phép lạ siêu nhiên mà Phaolô đã rao giảng đầy đủ trong thời đại của ông. Tin lành mà chúng ta rao giảng ngày hôm nay cũng phải có những sự bày tỏ siêu nhiên như vậy.

Khi chúng ta đọc đến chức vụ của Phaolô được ghi lại trong sách Công-vụ, chúng ta không thể không thấy điều thường hay nói đến là phép lạ chữa bệnh.

Trong Công-vụ đoạn 14, có một người ở Líttrơ, bị què từ lúc mới sanh, đã được chữa lành hoàn toàn qua chức vụ của Phaolô.

Trong Công-vụ đoạn 19, chúng ta thấy có những phép lạ đặc biệt xảy ra qua chức vụ của Phaolô. Người ta lấy những khăn tay và áo của ông đặt trên kẻ đau và người bị quỉ ám thì họ được chữa lành và giải cứu.

Trong Công-vụ đoạn 28, Kinh Thánh chép phép lạ chữa bệnh cho Búpliu và những người trên đảo, sau khi Phaolô bị đắm tàu trên đường tới Lamã.

Trong ICôr 12:1-31, Phaolô viết về ân tứ đức tin, ân tứ chữa bệnh và những công việc quyền năng trong Hội Thánh như là một phần quan trọng trong chức vụ của Hội Thánh.

Thưa các bạn, sứ đồ Phaolô có thể rao giảng đầy đủ về tin lành của Đấng Christ chỉ bởi quyền năng của các dấu kỳ và phép lạ!

Bất kỳ điều gì thấp kém hơn thì không thể được gọi là "phước hạnh trọn vẹn của tin lành ". Bất kỳ điều gì thấp kém hơn cũng không thể gọi là "sự rao giảng đầy đủ về tin lành ".

Nếu chúng ta rao giảng đầy đủ về tin lành, nếu chúng ta đem phước hạnh trọn vẹn đến cho những người đàn ông và đàn bà thì cũng như Phaolô, chúng ta sẽ có quyền năng của những dấu kỳ và phép lạ, đặc biệt là trong phép lạ chữa lành cho kẻ đau. Nơi nào thiếu sự bày tỏ những phép lạ siêu nhiên, nơi đó sẽ không có sự phục hưng như thời Tân Ước.

Hội Thánh Tân Ước là Hội Thánh chữa lành. Tin lành trong thời Tân Ước được làm cho vững bằng các dấu kỳ và phép lạ.

5. Ông Cũng Nói Đến Phước Hạnh Của Quyền Năng Thánh Linh

Phaolô nói rằng ông đã rao giảng tin lành một cách đầy đủ "bởi quyền năng của Thánh Linh " (Rô 15:19).

Trong Công 1:8, Chúa phán "sau khi Thánh Linh giáng trên các ngươi, các ngươi sẽ nhận lấy quyền năng ".

Phaolô đã nhận Thánh Linh (9:17). Phaolô đã đưa dắt những người tin đến chỗ nhận được Thánh Linh và có quyền năng.

Trong Công-vụ đoạn 19, sứ đồ Phaolô đã chào mừng các môn đồ Êphêsô bằng câu hỏi "Từ ngày anh em tin có nhận lãnh Thánh Linh chưa? ".

Sau đó ông đặt tay trên họ thì họ nhận được Thánh Linh. Kết quả là họ đã nói tiếng mới và nói tiên tri.

Ngày nay cũng vậy. Chúng ta, những người nói rằng đang rao giảng tin lành một cách trọn vẹn. Chúng ta, những người đang cung cấp phước hạnh trọn vẹn của tin lành đều tin và dạy rằng tất cả những kẻ tin phải được báptêm bằng Thánh Linh.

Đừng thi hành chức vụ bằng lời nói nhưng phải bằng lời nói và việc làm để chúng ta luôn làm chứng về kinh nghiệm vinh hiển này. Mọi người phải được báptêm bằng Thánh Linh và nhận được quyền phép từ trên cao.

Đây là đời sống sinh động và thiết yếu của mọi tín đồ và mọi Hội Thánh tư gia. Chúng ta không thể là tin lành trọn vẹn, chúng ta cũng không thể rao giảng tin lành một cách trọn vẹn nếu không có phước hạnh về quyền năng của Thánh Linh Đức Chúa Trời.

6. Ông Rao Giảng Về Sự Hiện Đến Lần Thứ Hai Của Đấng Christ

Phaolô dạy lẽ thật này thật rõ ràng. Ông quả quyết rằng khi Đấng Christ tái lâm vào cuối thời đại này thì những tín đồ đã chết sẽ sống lại. Ông nói những tín đồ đang sống sẽ được biến thành thân thể chẳng hay chết và họ cũng sẽ được cất lên để gặp Chúa (ITê 4:17).

Tôi nghĩ Phaolô đã tóm lược sự giảng dạy của ông về sự hiện đến lần thứ hai của Chúa trong Tít 2:13 "đương chờ đợi sự trông cậy hạnh phước của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Đức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jesus Christ ".

Phaolô nói rằng đây là sự trông cậy hạnh phước và vui mừng của Cơ đốc nhân. Nếu chúng ta được cứu thật sự và đang trông đợi Chúa, chúng ta cũng thấy rằng đây là sự hy vọng vui mừng vì chẳng bao lâu Chúa Jesus sẽ trở lại.

Ý tưởng về sự trở lại của Chúa chúng ta chắc chắn sẽ thúc bách chức vụ hầu việc Chúa của chúng ta. Nếu chúng ta muốn rao giảng tin lành một cách trọn vẹn, hãy làm điều đó ngay bây giờ. Nếu chúng ta muốn thấy những dấu kỳ và phép lạ siêu nhiên thì bây giờ là cơ hội.

Có nhiều người có thói quen mong đợi những phước hạnh này trong tương lai. Chính BÂY GIỜ là lúc chúng ta phải hưởng thụ và nói với người khác "về phước hạnh trọn vẹn của Đấng Christ " (Rô 15:29).

C. KẾT LUẬN

Những nguyên tắc mà chúng ta đã xem xét là rất quan trọng đối với sứ đồ Phaolô. Ông đã giảng tin lành một cách trọn vẹn. Làm thế nào chúng ta lại có thể rao giảng kém hơn ông? Làm thế nào chúng ta có thể tin ít hơn ông? Chúng ta phải tận hiến chính mình cho quyền năng của tin lành trọn vẹn, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng việc làm nữa.

Tin lành này là sự cung cấp của Đức Chúa Trời cho tâm linh, tâm trí và thân thể của chúng ta. Đó là đường lối giải cứu của Đức Chúa Trời cho những ai bị trói buộc. Đó là con đường để đi đến sự phục hưng của Tân Ước.

Trong ngày chúng ta đứng trước mặt Chúa, chúng ta cũng có thể dạn dĩ lặp lại những lời của Phaolô "Vì tôi không trễ nãi một chút nào để tỏ ra cho biết hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời " (Công 20:27).

E7. 4 - Người Rao Giảng Và Dân Chúng Trong Sự Phục Hưng Tân Ước

Phần Dẫn Nhập

Đây là đoạn trích từ "sách khuôn mẫu" về Hội Thánh:

"Bấy giờ có nhiềp phép lạ dấu kỳ được làm ra trong dân bởi tay các sứ đồ, và các môn đồ đều hiệp một lòng nhóm nhau dưới hiên cửa Salômôn.

Dầu vậy, chẳng một kẻ nào khác dám nhập bọn với môn đồ, nhưng dân chúng thì cả tiếng ngợi khen. Số người tin Chúa càng ngày càng thêm lên, nam nữ đều đông lắm, đến nỗi người ta đem kẻ bịnh để ngoài đường, cho nằm trên giường nhỏ, hoặc trên chõng, để khi Phierơ đi ngang qua, bóng người ít nữa cũng che được một vài người " (Công 5:12-15).

Khi chúng ta đọc hết sách Công-vụ, không có chữ "Amen" ("kết thúc") vì sách này vẫn còn đang viết.

Sách Công-vụ đã cung cấp những ghi chép thật cảm động về những hoạt động của Hội Thánh đầu tiên. Đức Chúa Trời dự định làm cho những hoạt động này cứ tiếp tục khi nào Hội Thánh còn trên đất, và cho đến khi Đấng Christ trở lại.

Cảm tạ Đức Chúa Trời quyển sách này vẫn còn đang tiếp tục ở khắp nơi trên thế giới ngày hôm nay. Những lời tường thuật về những chức vụ và sự phục hưng siêu nhiên, theo khuôn mẫu của Tân Ước vẫn còn đang được viết.

Chúng ta hãy xem kỹ hơn về những điều chúng ta đã trích ở trên và xem xem các chức vụ và các Hội Thánh ngày nay có tuân theo khuôn mẫu đã được Thánh Linh chỉ dạy này không.

A. NHỮNG NGƯỜI RAO GIẢNG TRONG CƠN PHỤC HƯNG THỜI TÂN ƯỚC

Có điều rõ ràng là: Nếu chúng ta có những người rao giảng thời Tân Ước, một chức vụ thời Tân Ước, chắc chắn chúng ta sẽ có những kết quả như thời Tân Ước. Bạn hãy chú ý đến những điểm sau về những người rao giảng trong cuộc phục hưng này.

1. Tay Các Sứ Đồ

Chúng ta đọc thấy Kinh Thánh chép rằng "Bấy giờ có nhiều phép lạ dấu kỳ được làm ra trong dân chúng bởi tay các sứ đồ ".

Đây là một ý tưởng thú vị. Kinh Thánh nói nhiều đến bàn tay con người như là phương tiện để tiếp xúc với con người.

Tay của các đầy tớ Chúa trong cơn phục hưng thời Tân Ước giữ một vai trò quan trọng trong việc đáp ứng những nhu cầu của dân chúng.

Trong thời Cựu Ước, chúng ta thường đọc thấy "Tay của Đức Giêhôva " và chúng ta tin rằng điều này ám chỉ đến Đức Chúa Jesus Christ. Chẳng hạn trong Êsai , chúng ta thấy "... và cánh tay của Đức Giêhôva sẽ được tỏ ra cho ai? " (Ês 53:1). Vị tiên tri tiếp tục mô tả những sự kiện liên quan đến sự hiện đến của Đấng Mêsia.

Chúa Giêxu Christ khi còn thi hành chức vụ trên đất, chính là "cánh tay của Đức Giêhôva " đã giơ thẳng ra hướng đến nhân loại bằng sự cứu rỗi, sự chữa lành và giải cứu.

Bây giờ Đấng Christ đã được vinh hiển ở bên hữu của Đức Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn là "cánh tay của Đức Giêhôva " giơ thẳng ra với tình yêu và sự thương xót để cứu và chữa lành những ai Ngài đã gọi.

Do đó khi các sứ đồ đã giơ tay họ ra để đem sự giải cứu đến cho dân chúng tức là họ đang hành động như là "cánh tay của Đức Giêhôva ". Họ chính là sự mở rộng của chức vụ Ngài. Chính trong danh Chúa Jesus mà họ đã tiếp tục chức vụ siêu phàm của Chúa Jesus trên đất.

Những người rao giảng trong cuộc phục hưng thời Tân Ước đã có những bàn tay được sử dụng để đem sự giải cứu đến cho dân chúng.

2. Nhiều Phép Lạ Về Sự Thương Xót

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng bởi tay của các sứ đồ nên "nhiều dấu kỳ và phép lạ được làm ra trong dân chúng ". Đây là điều kỳ diệu cần phải suy gẫm. Sự đoán phạt lạ lùng đã xảy đến với Anania và Saphira, những kẻ đã lừa dối Thánh Linh. Đây là kỷ luật nghiêm khắc đầu tiên được thực hiện trong Hội Thánh đầu tiên. Kết quả là "cả Hội Thánh đều rất sợ hãi cho đến người nào nghe tin cũng vậy ".

Và bây giờ theo sau phép lạ về sự đoán phạt này, chúng ta đọc thấy có những dấu kỳ phép lạ đem sự giải cứu cho dân chúng. Thật là sự mặc khải rõ ràng về bản chất và mục đích của Đức Chúa Trời trong giai đoạn này: một phép lạ về sự đoán phạt và sau đó là nhiều phép lạ về sự thương xót.

3. Những Dấu Kỳ Phép Lạ

Việc thuật lại sự phục hưng thời Tân Ước này cho chúng ta biết có nhiều dấu kỳ phép lạ được làm ra trong dân chúng.

Có gì khác biệt giữa "dấu kỳ" và "phép lạ"?

Dấu kỳ là một hành động siêu nhiên về quyền năng của Đức Chúa Trời được bày tỏ để truyền đạt một ý nghĩa hoặc một sứ điệp cho dân chúng. Dấu kỳ có ý nghĩa và đạt được một mục đích nào đó.

Ngược lại phép lạ (như chính từ này đã nói lên) được làm ra để khiến dân chúng khâm phục và thu hút sự chú ý của họ.

Những người rao giảng thời Tân Ước đã nhơn danh Chúa Jesus Christ làm nhiều dấu kỳ phép lạ trong chức vụ của họ.

Trong đại mạng lệnh truyền giáo ở Mác 16:15-18, tuyên bố rằng "Ai tin sẽ nhận dấu lạ này. ..". Những dấu lạ này bao gồm đuổi quỉ, nói tiếng mới (tiếng lạ) và đặt tay trên kẻ đau để chữa lành cho họ.

4. Bóng Của Phierơ

Trong chức vụ của các sứ đồ, rất nhiều dấu kỳ và phép lạ đã xảy ra đến nỗi dân chúng ở Giêrusalem đã đặt kẻ đau trên những giường nhỏ hoặc trên võng rồi đem để trên đường. Họ hy vọng rằng bóng của Phierơ sẽ phủ trên họ khi ông đi ngang qua.

Họ tin rằng nếu tay của Phierơ không thể chạm đến họ thì bóng của ông cũng làm cho họ được lành bệnh. Điều này cho thấy là những dấu kỳ phép lạ đã kích động đức tin của họ dường nào.

Đây là nguyên tắc được nhìn thấy ở bất cứ nơi đâu trong thời Tân Ước: Tay (hoặc bóng) đã trở thành phương tiện tiếp xúc mà qua đó đức tin của dân chúng được phóng thích để Chúa đụng chạm đến họ.

Bạn còn nhớ người đàn bà đã chạm đến trôn áo của Chúa chúng ta (Mat 9:20).

Có những "khăn và áo " mà người ta lấy của Phaolô, đem đặt trên kẻ đau và kẻ bị quỉ ám (Công 19:12) thì họ được chữa lành.

Cũng vậy, dân chúng ở Giêrusalem đã xem cái bóng của Phierơ là phương tiện tiếp xúc để họ được chữa lành.

5. Chức Vụ Giải Cứu

Kinh Thánh mô tả rằng "Dân sự ở các thành lân cận cũng lũ lượt kéo tới thành Giêrusalem, đem đến những người đau ốm và kẻ bị tà ma ám hại thì hết thảy đều được chữa lành " (5:16).

Chức vụ giải cứu đã trở thành khuôn mẫu sau khi chức vụ đó có một quyền năng thu hút. Chức vụ đã thu hút dân chúng ở những nơi xa là những người có tấm lòng rộng mở sẵn sàng tiếp nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa.

Thế giới này đầy dẫy những người đau khổ về tâm trí và cơ thể. Mặc cho tất cả sự đối kháng và bắt bớ mà những người lãnh đạo Hội Thánh đầu tiên phải chịu, hầu hết dân chúng đều nhìn thấy rằng họ sẽ được giải cứu và chữa lành trong chức vụ của những người lãnh đạo.

Chúng ta quan sát thấy họ đã nhận biết sự khác nhau giữa sự đau yếu cơ thể và sự đau đớn của quyền lực ma quỉ.

Chức vụ của Hội Thánh đầu tiên đã đem đến sự chữa lành cho người bệnh và sự giải cứu cho những ai bị trói buộc và đau khổ. Nguyện Đức Chúa Trời dấy lên trong thời đại này một chức vụ bày tỏ quyền năng hơn theo như khuôn mẫu đã chép trong thời Tân Ước.

B. DÂN CHÚNG TRONG CUỘC PHỤC HƯNG THỜI TÂN ƯỚC

Trong mọi cơn phấn hưng lớn luôn có những điều kiện đòi hỏi người rao giảng và dân chúng phải thỏa mãn. Chúng ta hãy chú ý đến điều kiện của dân chúng trong cuộc phục hưng được mô tả trong đoạn Kinh Thánh này.

1. Hiệp Một Lòng

Kinh Thánh chép: "Họ đều hiệp một lòng nhóm nhau dưới hiên cửa Salômôn " (5:12). Đây là từ chúng ta thường đọc thấy trong sách Công-vụ. Ở trên phòng cao, trước ngày lễ Ngũ tuần, họ thảy đều "đồng lòng, bền ý mà cầu nguyện " (1:14). Vào ngày Lễ Ngũ Tuần tất cả các môn đồ đều "đồng lòng nhóm tại một chỗ " (2:1). Ngay sau ngày Lễ Ngũ Tuần, chúng ta đọc thấy dân chúng đã "hằng ngày cứ hiệp một trong đền thờ " (2:46). Sau đó trong sự tuôn đổ Thánh Linh, chúng ta thấy "người tin theo đông lắm, cứ một lòng, một ý cùng nhau " (4:32).

Và bây giờ giữa sự phục hưng, chúng ta thấy dân chúng đã "một lòng nhóm nhau dưới hiên cửa Salômôn ". Chắc chắn ở đây chúng ta đã thấy những bí quyết rõ ràng về sự phục hưng trong một Hội Thánh thành phố: một chức vụ siêu nhiên và một Hội Thánh hiệp một.

2. Sự Kính Sợ Và Yêu Mến

Chúng ta đọc được những từ kỳ lạ này: "Chẳng một kẻ nào khác dám nhập bọn với môn đồ, nhưng dân chúng thì cả tiếng ngợi khen ". Do đó chúng ta thấy rằng, giữa sự phục hưng thời Tân Ước, có sự sợ hãi, tôn kính (a) và quí mến đối với dân sự của Đức Chúa Trời (b).

Trong 2:43, 47 chúng ta thấy phản ứng hai mặt này "Mọi người đều kính sợ. .." đồng thời "dân chúng cũng đẹp lòng về họ ".

Không cần phải có sự thỏa hiệp nào khi quyền năng của Đức Chúa Trời đang hành động. Phản ứng của dân chúng sẽ biểu lộ ra khi Thánh Linh của Chúa được bày tỏ giữa dân Chúa.

3. Số Người Tin Chúa Càng Ngày Càng Thêm Lên

Đây là một kết quả mỹ mãn trong cuộc phục hưng thời Tân Ước: "Số người tin Chúa càng ngày càng thêm lên, nam nữ đều đông lắm ".

Đây là kết quả của chức vụ siêu nhiên được dân sự hiệp một ủng hộ. Đây nên là kinh nghiệm thường xuyên của mọi Hội Thánh vui hưởng cơn phục hưng của thời Tân Ước.

Bạn hãy chú ý câu Kinh Thánh đầy ý nghĩa này "Số người tin Chúa càng thêm lên ". Đây là sự cứu rỗi thật sự.

Hãy lưu ý câu nói mang đầy ý nghĩa "số người càng thêm lên vào trong nhà Chúa ". Đây là sự cứu rỗi thật.

Thêm vào Hội Thánh vẫn chưa đủ. Tên của một ai đó được thêm vào danh sách của Hội Thánh vẫn chưa đủ. Điều này là tốt nhưng điều quan trọng mà mọi người cần phải kinh nghiệm là họ phải được "thêm vào cho Chúa" - được liên kết với Đấng Christ bởi đức tin trong Ngài.

Thưa các bạn, tôi xin đoan chắc rằng trong thời đại này Đức Chúa Trời đang dấy lên những người rao giảng và những tín đồ chịu tuân theo khuôn mẫu Tân Ước. Sự làm chứng của họ được xác chứng bằng những dấu kỳ, phép lạ.

Đối với mọi người tin, tất cả đều được ban cho đặc ân vinh quang, sự cần thiết sống còn của việc được thêm vào trong Chúa bởi đức tin trong quyền năng cứu chuộc của Ngài.

E7. 5 - Hội Thánh Chung Và Các Hội Thánh Tư Gia Trong Tân Ước

Phần Dẫn Nhập

Bây giờ chúng ta bắt đầu nghiên cứu về khuôn mẫu Hội Thánh ở thời kỳ Tân Ước.

Vì cớ giới hạn của bài viết này, chúng tôi không thể nghiên cứu hoàn toàn và thông suốt điều này. Nhưng chúng tôi hy vọng cung cấp cho đọc giả sự hiểu biết về khuôn mẫu của Kinh Thánh về Hội Thánh ngày hôm nay.

A. "HỘI THÁNH" NGHĨA LÀ GÌ?

Từ "Hội Thánh" và "Các Hội Thánh" lấy từ tiếng HyLạp là "ekklesia " nghĩa là MỘT ĐOÀN THỂ ĐƯỢC KÊU GỌI RA KHỎI.

1. "Hội Thánh" (Xuất hiện 80 lần trong Tân Ước)

Từ "Hội Thánh" (theo số ít) ám chỉ đến Hội Thánh chung tại một thành phố hoặc tại một tư gia. Từ này không hề ám chỉ đến giáo phái hoặc nhà thờ.

Trong hai cách dùng đầu tiên của từ "Hội Thánh" trong Tân Ước, trước tiên ám chỉ đến Hội Thánh chung và thứ hai là Hội Thánh tư gia.

a. Hội Thánh Chung.

Cách dùng thứ nhất: "Ta sẽ xây dựng Hội Thánh ta" (Mat 16:18). Đấng Christ đang nói đến Hội Thánh chung chứ không nói đến bất kỳ một hệ phái hay sự phân chia nào.

b. Hội Thánh Tư Gia.

Cách dùng thứ hai: "... hãy cáo cùng Hội Thánh lại nếu người không chịu nghe Hội Thánh. .." (18:15-17). Phân đoạn Kinh Thánh này nói đến những mức độ kỷ luật khi tín đồ lầm lỗi không chịu sự hòa giải.

Do đó rõ ràng từ "Hội Thánh" được dùng trong cách thứ hai là nói đến Hội Thánh tư gia chứ không phải Hội Thánh chung.

Cũng vậy trong Tân Ước có 80 lần nói đến từ "Hội Thánh" và tùy theo văn mạch, chúng ta sẽ biết từ đó nói đến Hội Thánh chung hay Hội Thánh tư gia.

c. Ngoại Lệ: Dân Ysơraên Là Hình Bóng Về Hội Thánh.

Trong Công 7:38 có một trường hợp ngoại lệ về cách dùng chung của từ "Hội Thánh". Trong câu đó chúng ta đọc thấy "Hội Thánh tại nơi đồng vắng ". Câu nầy nói đến cuộc hành trình trong đồng vắng của dân Ysơraên khi được giải cứu khỏi AiCập hướng về Biển Đỏ.

Trong khi dân Ysơraên không phải Hội Thánh theo nghĩa của Tân Ước nhưng từ "ekklesia" vẫn ứng dụng cho dân Ysơraên trong cuộc lang thang nơi đồng vắng. Với ý nghĩa đó, dân Ysơraên là hình bóng của Hội Thánh trong thời kỳ này.

* Dân Ysơraên được chuộc bởi huyết của con chiên,

* Ra khỏi AiCập (thế gian), được phân rẽ khỏi AiCập bởi Biển Đỏ (báptêm bằng nước),

* Được cung cấp siêu nhiên trong đồng vắng (mana từ trời và nước từ vầng đá, hình bóng về Đấng Christ),

* Được dẫn qua sông Giôđanh (báptêm bằng Thánh Linh) và cư ngụ ở xứ Canaan (hình bóng về những nơi trên trời).

Do đó dân Ysơraên, một hội chúng được kêu gọi, là hình bóng về Hội Thánh Cơ Đốc. 7:38 là chỗ duy nhất trong Tân Ước mà từ "Hội Thánh" được dùng để chỉ một điều gì đó hơn là nói đến Hội Thánh chung hay Hội Thánh tư gia.

2. "Các Hội Thánh" (có 35 lần được đề cập đến trong Tân Ước)

Từ "Các Hội Thánh" luôn ám chỉ đến các Hội Thánh tư gia và chẳng hề có ý nói đến các hệ phái, các nhóm có tổ chức hoặc các nhà thờ. Những cách dùng tiêu biểu về từ "Các Hội Thánh" trong Tân Ước như sau:

"... Các Hội Thánh của dân ngoại " (Rô 16:4).

"... Các Hội Thánh của Đức Chúa Trời " (ICôr 11:6).

"... Các Hội Thánh của các thánh đồ " (14:33).

"... Các Hội Thánh trong xứ Asi " (16:19).

Tất cả những câu này đều nói đến cộng đồng các tín đồ thường xuyên gặp nhau (thường trong nhà một người nào đó) để thờ phượng và phục vụ.

3. "Hội Chúng" (đề cập 5 lần trong Tân Ước)

Chúng ta hãy xem xét từ "Hội chúng" (Assembly) trong Tân Ước. Đó là từ thường được dùng để ám chỉ đến các Hội Thánh tư gia của chúng ta ngày nay.

Ba trong số năm lần, từ "Hội chúng" (Assembly) không dùng để chỉ Hội Thánh nhưng để nói đến một hội đoàn dân chúng bình thường (xem Công 19:32, 39, 41).

Hai lần khác từ này được tìm thấy trong Hêb 12:23. Theo nghĩa đen từ này có nghĩa là "một buổi họp lớn " - ám chỉ đến Hội Thánh chung. Trong Gia 2:2, nghĩa đen của từ HyLạp này là "nhà hội "

Điều này hoàn toàn phù hợp khi Giacơ sử dụng từ này với ý nghĩa đơn giản là "đến nhóm lại". Nhà hội Do Thái có lẽ là kiểu mẫu của việc nhóm họp của Hội Thánh tư gia.

B. HỘI THÁNH THEO ĐỨC CHÚA TRỜI NHÌN THẤY

Cách dùng từ "Hội Thánh" và "Các Hội Thánh" là hết sức đơn giản. Sự hiểu biết của chúng ta về những từ này cho chúng ta một nền tảng vững chắc mà chúng ta có thể dựa vào đó để nghiên cứu về Hội Thánh Tân Ước.

Mặc dù từ "Hội Thánh" được dùng phổ biến ngày nay để ám chỉ đến các giáo phái như Hội Thánh Baptist, Hội Thánh Trưởng Lão hoặc Bầy Nhỏ, thì Kinh Thánh không dùng từ này theo cách đó.

Theo quan điểm của Đức Chúa Trời, Hội Thánh chung là Hội Thánh bao gồm những tín đồ được tái sanh thuộc các quốc gia và các ngôn ngữ khác nhau.

Đức Chúa Trời nhìn thấy Hội Thánh lớn lao này của Đức Chúa Jesus Christ được phân chia vào trong các Hội Thánh tư gia, các đoàn thể tín hữu địa phương thường xuyên nhóm nhau lại trong Danh của Ngài.

Nói đúng ra, tổ chức Hội Thánh duy nhất mà Kinh Thánh thừa nhận là những hoạt động trong Hội Thánh tư gia. Tất cả những tổ chức khác được thiết lập để tạo thuận lợi cho các Hội Thánh tư gia là phương tiện để phối hợp.

Tân Ước xem Hội Thánh tư gia là tự chủ (dưới sự kiểm soát của những người tham dự), tự cung cấp, tự quản trị và truyền bá tin lành.

Các Hội Thánh tư gia có kinh nghiệm thuộc linh và giáo lý giống nhau có lẽ thích nhóm chung với nhau vì mối quan tâm đến khải tượng cụ thể của họ. Nhưng chúng ta đừng bao giờ đánh mất quan niệm này của Tân Ước: Hội Thánh chung được phân chia vào các nhóm tín đồ tư gia. Đó là ý nghĩa từ "Hội Thánh" và "Các Hội Thánh" của Tân Ước.

C. BIỂU TƯỢNG CỦA CÁC HỘI THÁNH TÂN ƯỚC

Trong Khải Huyền đoạn 1, chúng ta thấy một biểu tượng của Hội Thánh Tân Ước được tổ chức trong nhiều Hội Thánh ở các thành phố. Trong khi bị đày ở đảo Bátmô, sứ đồ Giăng chìm ngập trong Thánh Linh vào ngày của Chúa khi ông được Chúa cho một khải tượng.

Ông đã nhìn thấy "một người giống như Con người " đang đứng giữa "bảy chơn đèn ". Ngài cầm bảy ngôi sao trong tay.

Trong câu 20 chúng ta thấy có sự giải thích về biểu tượng này. Bảy chơn đèn là bảy Hội Thánh ở bảy thành phố của Tiểu Á. Bảy ngôi sao là các thiên sứ (hoặc các người lãnh đạo) của những Hội Thánh đó.

Đức Chúa Jesus Christ xuất hiện giống như một thầy tế lễ cả đang chăm sóc các chơn đèn. Đây là sự ứng nghiệm những kiểu mẫu có trong đền tạm của Môise và trong Đền thờ của Salômôn thời Cựu Ước.

Khi chúng ta đọc qua Khải Huyền đoạn 2 và 3, chúng ta thấy Chúa có từng sứ điệp đặc biệt cho mỗi Hội Thánh.

Hầu hết những người nghiên cứu sách Khải Huyền đều đồng ý rằng bảy Hội Thánh ở các thành phố này đều có ở Tiểu Á.

Nhưng bảy Hội Thánh này cũng minh họa bảy giai đoạn lịch sử khác nhau để bày tỏ những thế kỷ tương lai trong giai đoạn Hội Thánh (thời kỳ Hội Thánh). Thời kỳ này bắt đầu từ thời của sứ đồ Giăng cho đến khi Chúa Jesus tái lâm (xem phần G1 trong tài liệu hướng dẫn huấn luyện người lãnh đạo để biết chi tiết hơn).

"Số bảy" trong Kinh Thánh là con số đại diện cho sự trọn vẹn. Do đó bảy chơn đèn vàng trong khải tượng của Giăng tiêu biểu cho toàn bộ Hội Thánh trong giai đoạn này và mỗi chơn đèn là hình bóng cho từng Hội Thánh tại mỗi thành phố.

Bức tranh do Thánh Linh mặc khải ở đây là: Đấng Christ phục sinh đang đứng giữa các Hội Thánh ở mọi nơi và mọi thế hệ xuyên suốt thời đại này. Ngài làm việc trực tiếp với mỗi Hội Thánh. Ngài có một sứ điệp đặc biệt cho mỗi Hội Thánh: Quở trách, cảnh báo, khuyên bảo, khích lệ, khen ngợi.

Đây là sự hòa hợp hoàn hảo của khái niệm Tân Ước về Hội Thánh của Chúa Jesus Christ.

Ngài không chỉ là cái đầu của Hội Thánh chung. Quyền làm đầu của Ngài còn được thể hiện trong mỗi Hội Thánh ở mỗi thành phố hoặc mỗi tư gia. Ngài có một mục đích và kế hoạch cho mỗi Hội Thánh. Đấng Christ hằng sống đang tìm cách bày tỏ chính Ngài trong mỗi thành phố hoặc Hội Thánh tư gia để điều chỉnh, khích lệ trong ân điển và ngợi khen.

Hơn nữa, Ngài đang nắm chức vụ trong tay Ngài. Các sứ giả, thiên sứ (những người thi hành chức vụ) đã nhận sứ điệp trực tiếp từ Đấng Christ hằng sống để truyền đạt cho từng Hội Thánh tư gia đó để hình thành nên Hội Thánh tại thành phố.

Chắc chắn một khải tượng như vậy sẽ giúp cho chúng ta mở rộng tầm nhìn và có sự hiểu biết tốt hơn về mục đích của Chúa cho cả Hội Thánh chung lẫn các Hội Thánh tại thành phố và các tư gia theo khuôn mẫu của Tân Ước

E7. 6 - Hình Ảnh Hội Thánh Cơ Đốc Thời Tân Ước

Phần Dẫn Nhập

Hình ảnh của Hội Thánh là cách giải thích Hội Thánh Cơ Đốc bằng cách so sánh Hội Thánh với những vật chúng ta đã biết. Chẳng hạn Hội Thánh giống như một tòa nhà, giống như một thân thể và giống như một cô dâu.

Bây giờ chúng ta hãy xem xét một số hình ảnh trong Tân Ước về Hội Thánh Cơ Đốc. Để làm như vậy, chúng ta phải nhớ rằng đó là Hội Thánh chung, tuy nhiên có một khía cạnh là mỗi Hội Thánh tư gia là một đại diện thu nhỏ của Hội Thánh chung.

A. BỐN HÌNH ẢNH CHÍNH

Trong Tân Ước, có bốn hình ảnh của Hội Thánh như sau:

1. Một Tòa Nhà

Chúng ta để ý thấy Hội Thánh không được mô tả là các tòa nhà nhưng luôn là số ít. Chỉ có một Hội Thánh. Trong ICôr 3:1-22, chúng ta thấy sứ đồ Phaolô đã mô tả Hội Thánh là một tòa nhà.

Trong câu 9, ông nói "Anh em là nhà của Đức Chúa Trời ". Trong câu 10, Phaolô xác nhận ông là "một người thợ xây khéo " đã đặt nền cho Hội Thánh Côrinhtô. Ông nói những người thi hành chức vụ khác phải chịu trách nhiệm trong việc xây trên nền đó trong câu 11, cái nền này chính là Đức Chúa Jesus Christ.

Điều này phù hợp với những lời của chính Chúa Jesus đã phán trong Mat 16:13-18. Trong sự mặc khải thánh được ban cho Chúa Jesus là "Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống ". Ngài nói tiếp "Ta sẽ lập Hội Thánh ta trên đá này (nền tảng này)".

Do đó, chúng ta thừa nhận sự kiện căn bản là Hội Thánh của Chúa Jesus Christ, theo khía cạnh chung, là một tòa nhà được dựng trên nền lẽ thật lớn rằng Chúa Jesus là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống.

Quay lại ICôr 3:16, 17 chúng ta thấy Phaolô đã quay lại vấn đề này. Ông nói rằng Hội Thánh là Đền thờ của Đức Chúa Trời có Thánh Linh của Ngài ngự ở trong.

Hình ảnh Hội Thánh là một ngôi nhà được lặp lại trong Êph 2:20-22. Ở đây, Phaolô nói "nền của các sứ đồ và tiên tri " nhưng ông nói thêm "Chính Đức Chúa Jesus Christ là đá góc nhà ". Sau đó ông nói thêm "Cả cái nhà đã dựng lên trên đá đó, sắp đặt cách hẳn hoi, để làm nên một đền thờ thánh trong Chúa. Ấy, anh em cũng nhờ Ngài mà được dự phần vào trong nhà đó, đặng trở nên nhà ở của Đức Chúa Trời trong Thánh Linh ". Trong IPhi 2:5, Phierơ cũng mô tả giống như vậy "Anh em là những viên đá sống, được xây nên nhà thuộc linh ".

Mục đích của Đức Chúa Trời suốt thời đại này là phải hoàn thành tòa nhà Hội Thánh này để trong các thời hầu đến, Hội Thánh có thể bày tỏ sự ngợi khen và vinh hiển của Đức Chúa Trời.

2. Người Nhà

Hội Thánh được mô tả như là người nhà trong những câu Kinh Thánh sau:

"Nếu người ta đã gọi chủ nhà là Bêênxêbun, phương chi là người nhà " (Mat 10:25).

"Người nhà chúng ta trong đức tin. .." (Ga 6:10).

"Dường ấy, anh em chẳng phải là người ngoại, cũng chẳng phải là kẻ ở trọ nữa, nhưng là người đồng quốc với các thánh đồ và là người nhà của Đức Chúa Trời " (Êph 2:19).

"... Vì Ngài (Đức Chúa Jesus Christ) đã được xưng là đáng vinh hiển cao trọng hơn Môise, chẳng khác nào thợ cất nhà được tôn trọng hơn chính cái nhà. .. nhưng Đấng Christ thì trung tín như con trai quản trị nhà Chúa tức là nhà của chúng ta " (Hêb 3:3, 6).

Do đó Hội Thánh được xem như là người nhà mà Đấng Christ là Chủ.

3. Một Thân Thể

Trong Tân Ước có nhiều chỗ đề cập Hội Thánh như là thân thể của Đấng Christ.

"Chúng ta là nhiều người mà hiệp nên một thân trong Đấng Christ, và hết thảy chúng ta là các phần chi thể của nhau " (Rô 12:5).

"Vả như thân là một, mà có nhiều chi thể, và như các chi của thân dầu có nhiều, cũng chỉ hiệp thành một thân mà thôi, Đấng Christ khác nào như vậy. Vì chưng chúng ta. .. đều đã chịu báptêm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân. .." (ICôr 12:12, 13).

"Vả, anh em là Thân của Đấng Christ, và là chi thể của Thân, ai riêng phần nấy" (12:27) (cũng xem Êph 1:22, 23; 4:4, 12, 16).

Thân thể con người với sự quan hệ liên đới và sự phối hợp của các chi thể đã được Phaolô dùng để nói đến hình ảnh Hội Thánh của Đấng Christ.

Hình ảnh này cho thấy tầm quan trọng và sự phụ thuộc lẫn nhau của các thành viên trong Hội Thánh. Vị sứ đồ đã dùng hình ảnh này để nói lên sự hiệp một cần thiết giữa các thành viên trong Hội Thánh.

4. Cô Dâu

Trong Êph 5:22-23, sứ đồ Phaolô đã vẽ lên hai hình ảnh song song giữa mối quan hệ của Đấng Christ với Hội Thánh và mối quan hệ của vợ chồng.

Trong những câu này, mối quan hệ giữa vợ và chồng được dùng để minh họa cho mối quan hệ giữa Đấng Christ và Hội Thánh. Chúng ta hãy xem xét những câu Kinh Thánh trích trong đoạn này:

"Vì chồng là đầu vợ CŨNG NHƯ Đấng Christ là đầu Hội Thánh ".

"Ấy vậy, NHƯ Hội Thánh phục dưới Đấng Christ THÌ đờn bà phải phục dưới quyền chồng mình trong mọi sự ".

"Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình NHƯ Đấng Christ đã yêu Hội Thánh ".

"Cũng một thể ấy, chồng phải yêu vợ như chính thân mình. .. Vì chẳng có người nào ghét chính thân mình, nhưng nuôi nấng và chăm sóc nó NHƯ Đấng Christ đối với Hội Thánh."

Một số người khó nhìn thấy Hội Thánh vừa là cô dâu vừa là thân thể của Đấng Christ, nhưng trong những câu này, sứ đồ Phaolô đã dạn dĩ nói rằng Hội Thánh mang hai ý nghĩa đó.

Chúng ta hãy xem câu 30-32 trong đoạn này để thấy hình ảnh thân thể và cô dâu được nói đến như thế nào: "Vì chúng ta là các chi thể của thân Ngài, của thịt Ngài và của xương Ngài. Vậy nên người đàn ông phải lìa cha mẹ mà dính líu với vợ mình, hai người đồng nên một thịt. Sự mầu nhiệm ấy là lớn, TÔI NÓI VỀ ĐẤNG CHRIST VÀ HỘI THÁNH VẬY."

Theo quan điểm của những câu Kinh Thánh trên, chúng ta thấy Hội Thánh chung của Đấng Christ trong Tân Ước được xem như là: MỘT TÒA NHÀ, được dựng lên trên nền là chính Đấng Christ; Là NGƯỜI NHÀ mà Đấng Christ là Chủ; Là MỘT THÂN THỂ mà Đấng Christ là Đầu và là MỘT CÔ DÂU mà Đấng Christ là CHÚ RỂ.

Chúng ta cũng thấy chỉ có một Hội Thánh - một tòa nhà, một người nhà, một thân thể, một cô dâu; mặc dầu vì những lý do nào đó, con người đã phân chia Hội Thánh Tân Ước vào trong những hàng rào giáo phái và giáo lý.

Như chúng ta đã thấy trong những chương trước, sự phân chia duy nhất của Hội Thánh Tân Ước là các Hội Thánh tư gia.

B. NHỮNG CÁ NHÂN TRONG HỘI THÁNH

Khi đã xem xét những hình ảnh ở trên về Hội Thánh thì thật dễ hiểu bản chất thật của những thành viên trong Hội Thánh, tức là trong Hội Thánh chung. Ngày nay nhiều người cho rằng ghi tên của họ vào danh sách Hội Thánh tư gia sẽ làm cho tính chất thành viên của họ được an toàn trong Hội Thánh của Đấng Christ. Tuy nhiên hãy xem qua bốn hình ảnh nói trên trong Tân Ước và xem mối quan hệ cá nhân của chúng ta với mỗi hình ảnh đó.

1. Là Những Viên Đá Sống Trong Tòa Nhà

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng, là những tín đồ, chúng ta "được xây trên nền tảng này " và "được xây để làm nơi ở của Đức Chúa Trời trong Thánh Linh " (Êph 2:20-22). Sứ đồ Phierơ cũng nói rằng

"Hãy đến gần Ngài là hòn đá sống. .. và anh em cũng như ĐÁ SỐNG, được xây trên nhà thiêng liêng " (IPhi 2:4, 5).

Rõ ràng chúng ta là những thành viên trong Hội Thánh như là một ngôi nhà chỉ khi nào chúng ta trở thành những viên đá sống bởi mối quan hệ cá nhân của chúng ta với Đức Chúa Jesus Christ, là đá góc nhà.

2. Trở Thành Người Nhà

Trong Ga 4:6, 7 Phaolô viết "Lại vì anh em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta, kêu rằng "Aba, là Cha! Dường ấy ngươi không phải là tôi mọi nữa, bèn là con, và nếu ngươi là con, thì cũng là kẻ kế tự bởi ơn của Đức Chúa Trời ".

Trong nhà có nhiều tôi tớ hoặc nhiều người ở trọ. Họ có thể đến hoặc đi tùy ý. Nhưng chúng ta đã trở thành người nhà của Đức Chúa Trời bởi sự tái sinh, chúng ta thuộc về người nhà của Đức Chúa Cha, là những con trai, con gái, chúng ta có quyền chia xẻ gia tài của gia đình.

3. Những Chi Thể Trong Thân Thể Đấng Christ

Chúng ta có phần trong Thân thể của Đấng Christ bởi phép báptêm. Đó là giấy chứng minh của chúng ta với Đấng Christ (ICôr 12:13).

Chúng ta trở thành "chi thể của Đấng Christ" bởi sự sống của Ngài ở trong chúng ta. Đây là sự liên hiệp sống và quan trọng của chúng ta với Chúa Jesus là Đầu thân thể.

4. Một Phần Trong Cô Dâu Của Đấng Christ

Mối quan hệ cá nhân của chúng ta với Chúa trong ý nghĩa này được nói đến trong 6:17 "Còn ai kết hiệp với Chúa thì trở nên một tánh thiêng liêng cùng Ngài ".

ý tưởng này cũng được tìm thấy trong IICôr 11:2 "Vì về anh em, tôi sốt sắng như sự sốt sắng của Đức Chúa Trời, bởi tôi đã gã anh em cho một chồng mà thôi, dâng anh em như người trinh nữ tinh sạch cho Đấng Christ ". Do đó, là một phần trong cô dâu của Đấng Christ, chúng ta được gắn bó với Ngài, được liên hiệp trong một tâm linh.

C. KẾT LUẬN

Từ những minh họa của Kinh Thánh, chúng ta thấy rõ rằng quyền làm chi thể trong Hội Thánh của Chúa Jesus Christ không phải là kết quả của sự gia nhập vào Hội Thánh tư gia một cách thông thường, hoặc là bởi ghi tên vào danh sách Hội Thánh nhưng đó là kết quả của mối kinh nghiệm cá nhân quan trọng giữa chúng ta với Chúa. Kinh nghiệm này được gọi là sự cứu rỗi hoặc sự tái sinh.

Một người có thể ghi tên mình vào danh sách thành viên của một Hội Thánh tư gia nhưng người ấy chẳng hề trở thành một chi thể trong Hội Thánh của Chúa.

Ngược lại, một người có thể trở nên chi thể trong Hội Thánh của Chúa bởi sự tái sinh nhưng chưa hề tham gia vào một Hội Thánh tư gia hay một tổ chức Hội Thánh nào.

Như sứ đồ Phaolô đã tuyên bố "Tuy vậy, nền vững bền của Đức Chúa Trời đã đặt vẫn còn nguyên, có mấy lời như ấn đóng rằng: Chúa biết kẻ thuộc về Ngài " (IITi 2:19).

Quyền làm chi thể của một người trong một Hội Thánh tư gia chỉ có sau khi họ đã trở nên một chi thể trong Hội Thánh chung. Hơn nữa, khi một người đã được sanh lại, người ấy luôn tìm mọi cách để trở thành một thành viên trong sự nhóm lại của Hội Thánh tại tư gia.

Chúng ta được khích lệ trong Hêb 10:25 "Chớ bỏ qua sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau và hễ anh em thấy ngày ấy hầu đến chừng nào, thì cũng phải làm như vậy chừng nấy."

Mỗi một chúng ta cần sự nhóm lại, sự trao đổi, sự khích lệ và kỷ luật của một Hội Thánh tư gia.

Bởi đức tin nơi Đấng Christ, chúng ta đã tìm thấy vị trí của mình trong Hội Thánh Tân Ước vĩ đại của Chúa, nguyện tất cả chúng ta sẵn sàng kết ước chính mình để gắn bó với Hội Thánh tại tư gia, hết lòng hiệp một trong sự thờ phượng, làm chứng và hầu việc Chúa cùng với nhau.

E7. 7 - Chức Thầy Tế Lễ Của Hội Thánh Thời Tân Ước

A. SỰ KHÁC NHAU GIỮA CHỨC VỤ TẾ LỄ THỜI CỰU ƯỚC VÀ TÂN ƯỚC

Chúng ta không thể hiểu đầy đủ về khuôn mẫu của Hội Thánh Cơ đốc nếu không đánh giá được sự khác nhau cơ bản giữa chức vụ tế lễ thời Cựu Ước và Tân Ước.

1. Chức Vụ Tế Lễ Của Arôn

Trong thời Cựu Ước, Đức Chúa Trời ban cho dân Ysơraên một cơ hội để trở thành "một nước thầy tế lễ" (Xuất 19:6). Tuy nhiên dân Ysơraên đã không phát huy được đặc ân lớn lao này nên Chúa đã chỉ định chức vụ tế lễ của Arôn (28:1). Chính Kinh Thánh Cựu Ước đã thuật lại sự thất bại của chức vụ này trong việc hầu việc Chúa cách trung thành và giúp đỡ vì cớ dân Ysơraên (Êxê 22:26).

2. Chức Vụ Tế Lễ Của Tín Đồ

Quay lại với Tân Ước, chúng ta khám phá ra rằng chức vụ tế lễ là đặc quyền của mọi tín đồ thật (IPhi 2:5, 9). Như vậy, chúng ta có đặc quyền vinh hiển được đến gần Đức Chúa Trời qua thầy tế lễ thượng phẩm là Đức Chúa Jesus Christ.

Việc đến gần Đức Chúa Trời của các tín đồ được Kinh Thánh nói rõ trong Hêb 10:19-22

"Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus, được dạn dĩ vào nơi rất thánh, bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài, lại vì chúng ta có một thầy tế lễ lớn đã lập lên cai trị nhà Đức Chúa Trời, nên chúng ta hãy lấy lòng thành thật, với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong mà đến gần Chúa ".

Trong thời đại của chúng ta, một số giáo phái Cơ đốc cho rằng chỉ những người lãnh đạo mới là thầy tế lễ. Điều này không được Kinh Thánh Tân Ước ủng hộ và hoàn toàn trái ngược với nguyên tắc căn bản của sự mặc khải Tân Ước về Hội Thánh.

Bạn hãy suy gẫm những lời được chép trong IPhi 2:5, 9 "Anh em cũng. .. làm chức tế lễ thánh, dâng của lễ thiên liêng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà đẹp ý Đức Chúa Trời. .. Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức tế lễ nhà vua, là dân thánh,. .. hầu cho anh em rao giảng nhơn đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi sự tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài ".

Đây là đặc ân cao nhất trong kinh nghiệm Cơ đốc của chúng ta. Chúng ta được vào trong nơi chí thánh, vào trong chính nơi hiện diện của Đức Chúa Trời qua Chúa Giêxu Christ.

Khi Chúa Cứu Thế chết trên thập tự giá, bức màn trong đền thờ bị xé từ trên xuống dưới. Nói theo cách bóng bẩy, nhiều người đã cố khâu lại tấm màn đó, nhưng vô ích. Hình bóng này đã làm cho trọn vẹn những hình bóng được nói trước đây. Những hình bóng đó đã được thay thế. Đấng còn đang sống đời đời, là Đấng trung bảo duy nhất giữa Đức Chúa Trời và con người.

Trong Hội Thánh Cơ Đốc, Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta nhiều chức vụ khác nhau, có những mục sư và những người khải đạo và khuyên lơn chúng ta. Tuy nhiên không ai có thể đem chúng ta đến gần Đức Chúa Trời được. Đấng Christ đã làm điều này một lần đủ cả. "Vậy chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng " (Hêb 4:16).

B. NHỮNG CỦA LỄ CỦA NHỮNG THẦY TẾ LỄ TÍN ĐỒ

Như những thầy tế lễ Cựu Ước đã dâng của lễ cho Đức Chúa Trời thể nào thì ngày nay chúng ta là những thầy tế lễ Tân Ước cũng phải dâng của lễ lên cho Chúa. Tân Ước cho chúng ta thấy của lễ chúng ta có ba phần:

1. Thân Thể Của Chúng Ta, Đời Sống Của Chúng Ta

"Vậy hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời mà khuyên anh em hãy dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em " (Rô 12:1).

Trong IGiăng 3:16, chúng ta thấy mức độ cao nhất của tế lễ này là "Bởi đó chúng ta nhận biết lòng yêu thương, ấy là Chúa đã vì chúng ta bỏ sự sống, chúng ta cũng nên bỏ sự sống vì anh em mình vậy ".

Lẽ thật cơ bản mà chúng ta phải chấp nhận khi đến với Chúa ấy là: Thân thể của chúng ta là đền thờ của Thánh Linh "Vì chưng anh em được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời " (ICôr 6:20).

2. Sự Ngợi Khen Của Chúng Ta

"Vậy hãy cậy Đức Chúa Jêsus mà hằng dâng tế lễ bằng lời ngợi khen cho Đức Chúa Trời, nghĩa là bông trái của môi miếng xưng danh Ngài ra " (Hêb 13:15).

Các thầy tế lễ Cựu Ước phụng sự Đức Chúa Trời ở một nơi trong đền thờ gọi là nơi thánh.

Mùi hương được xông lên từ bàn thờ xông hương trong nơi thánh. Mùi hương này len qua cái màn vào đến nơi chí thánh, ở đó Đức Chúa Trời đang ngự trên ngôi thi ân.

Đây là hình bóng (bức tranh tiên tri) về chúng ta là những thầy tế lễ Tân Ước, đang dâng lên sự ngợi khen và cảm tạ làm của lễ đẹp lòng Chúa.

Kinh Thánh Tân Ước không mời gọi chúng ta ngợi khen Chúa như chỉ là một sự biểu lộ cảm xúc nhưng mà còn là một chức vụ dâng của lễ cho Chúa nữa.

Chúng ta không dâng của lễ bằng sự ngợi khen tùy theo hoàn cảnh của chúng ta nhưng là bất chấp hoàn cảnh. Nếu chúng ta làm điều này, chẳng bao lâu chúng ta sẽ thấy trong của lễ bằng sự ngợi khen có sự đắc thắng trên hoàn cảnh. Bổn phận và đặc ân làm thầy tế lễ của chúng ta là ngợi khen Chúa!

3. Tiền Bạc Của Chúng Ta

Bản Kinh Thánh Diễn Ý đã diễn giải ý nghĩa câu Kinh Thánh trong Hêb 13:16 rất hay "Đừng quên hoặc phớt lờ làm điều thiện và điều lành, hãy rộng rãi và hãy đóng góp giúp đỡ người nghèo vì của lễ như vậy làm Đức Chúa Trời đẹp lòng ".

Câu Kinh Thánh này cũng như những câu Kinh Thánh khác dạy chúng ta rằng một thầy tế lễ (tín đồ) trung tín phải dâng một số tiền của mình để sử dụng trong việc chăm sóc cho những kẻ kém may mắn hơn mình, và để lo công việc Chúa.

C. KHÔNG CÓ SỰ PHÂN BIỆT GIỮA HÀNG GIÁO PHẨM VÀ TÍN HỮU TRƠN

Từ "hàng giáo phẩm" và "tín hữu trơn" không có trong Kinh Thánh. Những từ này được sử dụng là do những người lãnh đạo giáo hội đã dạy rằng họ có đặc quyền trên những thành viên khác trong Hội Thánh.

Sự phân biệt giữa "tăng lữ" và "tín hữu trơn" không có trong Hội Thánh Tân Ước. Chắc chắn có những chức vụ và công việc khác nhau do Đức Chúa Trời sắp xếp. Những chức vụ này được ban cho để gây dựng Hội Thánh và cung cấp sự lãnh đạo cho dân sự của Chúa.

Chức vụ tế lễ trong Tân Ước tạo nên tình huynh đệ của những người nam, người nữ được tái sinh. Tất cả chúng ta đều có cùng đặc quyền đến gần Đức Chúa Trời qua Chúa Jesus là thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta.

Cũng vậy, tất cả chúng ta là những chi thể trong Thân Thể của Đấng Christ, được Chúa Jesus là Đầu của Thân thể trực tiếp dẫn dắt (Êph 1:22; 5:23; Cô 1:18).

Điều quan trọng là lẽ thật về chức vụ tế lễ của tất cả các tín đồ này phải được hiểu một cách rõ ràng và được đánh giá cẩn thận nếu không chúng ta sẽ không đánh giá đúng đặc quyền của chúng ta trong Hội Thánh. Chúng ta có thể trở thành miếng mồi cho chức vụ tế lễ nhân tạo hoặc cho chế độ tôn ti trật tự của các nhà lãnh đạo tôn giáo, những người muốn làm chủ người khác (IPhi 5:3).

E7. 8 - Các Chức Vụ Trong Hội Thánh Thời Tân Ước

Phần Dẫn Nhập

Hội Thánh Cơ đốc, là tổ chức được biệt riêng ra thánh hơn là một tổ chức do con người thiết lập nên, phải có sự lãnh đạo và các ân tứ do Đức Chúa Trời ban cho. Nhưng rủi thay, ngày nay hầu hết các chức vụ lãnh đạo Cơ đốc lại căn cứ vào học vị, sự kêu gọi và chỉ định của con người.

Tuy nhiên khuôn mẫu trong Tân Ước nói đến một chức vụ được lựa chọn cách siêu nhiên và được trang bị thánh cho Hội Thánh.

Có một số chức vụ nào đó trong mỗi Hội Thánh tư gia. Các trưởng lão và các chấp sự phụng sự trong Hội Thánh tư gia và phải có một số phẩm chất cá nhân nào đó theo Kinh Thánh đã nói. Chúng ta sẽ xem xét đến những phẩm chất này trong bài nghiên cứu sau. Nhưng ân tứ lãnh đạo mà Đấng Christ đã ban cho Hội Thánh của Ngài dựa trên năm chức vụ ân tứ.

Những chức vụ ân tứ này được chính Đấng Christ ban cho một số người nào đó cách siêu nhiên. Những người lãnh đạo này sẽ tiếp tục thực hiện chức vụ của Chúa Jesus trong Hội Thánh của Ngài trên đất này. Họ đang làm những gì Ngài đã làm.

A. NĂM CHỨC VỤ ÂN TỨ ĐƯỢC BAN CHO HỘI THÁNH

"Nhưng đã ban ân điển cho mỗi một người trong chúng ta theo lượng sự ban cho của Đấng Christ. Vậy nên có chép rằng: Ngài đã lên nơi cao, dẫn muôn vàn kẻ phu tù, và ban các ân tứ cho loài người và những chữ "Ngài đã lên " có ý nghĩa gì?

Há chẳng phải là Ngài cũng đã xuống trong các miền thấp ở dưới đất sao? Đấng đã xuống, tức là Đấng đã lên trên hết các từng trời, để làm cho đầy dẫy mọi sự " (Êph 4:7-10).

"Ấy chính Ngài đã làm cho người này làm sứ đồ, kẻ kia làm tiên tri, người khác làm thầy giảng tin lành, kẻ khác nữa làm mục sư và giáo sư " (4:11).

Những câu Kinh Thánh này nói rõ rằng sau khi Ngài về trời ngồi bên hữu Đức Chúa Cha, Ngài đã ban năm chức vụ ân tứ này cho những người trong Hội Thánh của Ngài.

Những chức vụ ân tứ này là sự bày tỏ một phần chức vụ trọn vẹn của Đấng Christ. Không một người lãnh đạo Hội Thánh nào lại có thể bao hàm hết toàn thể chức vụ của Chúa Jesus. Cần phải có nhiều "tôi tớ lãnh đạo" được ban cho những ân tứ này. Chức vụ trọn vẹn của Đấng Christ cần phải tái hiện giữa vòng dân sự của Ngài.

1. Duy Đấng Christ Là Đấng Ban Cho

Năm chức vụ này là những ân tứ của Đấng Christ và chỉ có Ngài mới ban cho. Những ân tứ này không phụ thuộc vào sự chỉ định của con người. Đấng Christ dấy lên và trang bị cho những người nam (người nữ) những ân tứ cụ thể trong Hội Thánh.

2. Thực Hiện Dưới Sự Hướng Dẫn Và Quyền Năng Của Thánh Linh

Khi những chức vụ này xuất hiện giữa vòng chúng ta và chúng ta nhận diện được thì đó là điều rất tốt. Nhưng dù chúng ta có nhận ra được hay không, thì những chức vụ này phải thực hiện dưới sự hướng dẫn và quyền năng của Đấng Christ hằng sống.

3. Có Liên Hệ Đến Người Nhận Được Chức Vụ

Có điều thú vị đáng chú ý là những chức vụ ân tứ của Đấng Christ luôn gắn liền với người nhận được chức vụ đó.

Ngược lại, các ân tứ của Thánh Linh (ICôr 12:1-31) gắn liền với Đấng ban cho hơn là với người nhận lãnh. Chúng ta gọi đó là những ân tứ CỦA THÁNH LINH (Đấng ban cho). Nhưng chúng ta không thể tách rời năm chức vụ ân tứ này khỏi người đã nhận và thi hành ân tứ đó.

Chúng ta không thấy Kinh Thánh chép là con người nhận được "một ân tứ sứ đồ" hoặc "ân tứ mục sư", nhưng chúng ta thấy Kinh Thánh chép rằng "Ngài đã ban cho một số người làm sứ đồ, một số người làm tiên tri " v.v... Ân tứ (hoặc khả năng) đã đồng hóa với chính người đó cho biết họ là ai và họ là gì trong Hội Thánh.

Chính những con người đó là ân tứ của Đấng Christ ban cho Hội Thánh Ngài. Họ được đầy dẫy Thánh Linh, được trang bị cách siêu nhiên, hết thảy họ đều mang một phần chức vụ vinh hiển, trọn vẹn của Đấng làm Đầu Hội Thánh là Đấng Christ.

B. MÔ TẢ NĂM CHỨC VỤ ÂN TỨ

Bây giờ chúng ta hãy xem xét mỗi ân tứ trong năm chức vụ ân tứ này.

1. Sứ Đồ

Từ "sứ đồ" (apostle), theo tiếng HyLạp là "apostolos" nghĩa là "một người được sai đi " hoặc là "sứ giả ". Đức Chúa Jesus Christ là một sứ đồ (Hêb 3:1) - Đấng "được Đức Chúa Trời sai đến ". Ngài đã đặt nền cho Hội Thánh. Bây giờ Ngài đang xây dựng Hội Thánh.

a. Mười Hai Sứ Đồ.

Trong suốt chức vụ trên đất của Đấng Christ, Ngài đã chỉ định mười hai sứ đồ là những người được Ngài trang bị đầy đủ cho chức vụ và "sai họ đi " (Mat 10:16).

Những vị sứ đồ này không phải được con người chỉ định nhưng họ đã hoàn toàn vâng theo mạng lệnh và năng lực (quyền năng và quyền bính) của Đấng Christ.

Họ được xem là "những sứ đồ của Chiên Con". "Còn tường thành có mười hai cái nền, tại trên có để mười hai danh, là danh mười hai sứ đồ của Chiên Con " (Khải 21:14).

Họ có một chức vụ và mối quan hệ mật thiết với nước Ysơraên và dân tộc Do Thái "Ấy đó là mười hai sứ đồ Đức Chúa Jesus sai đi, và có truyền rằng: Đừng đi đến dân ngoại, cũng đừng vào một thành nào của dân Samari cả, song thà đi đến những con chiên lạc mất của nhà Ysơraên " (Mat 10:5, 6).

Phần thưởng của họ là được ngồi trên mười hai ngôi xét xử mười hai chi phái Ysơraên (Lu 22:28-30).

b. Những Sứ Đồ Khác.

Nghiên cứu Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta thấy ngoài mười hai sứ đồ mà Chúa Jesus đã chọn để làm việc với Ngài trong khi Ngài còn ở trên đất thì còn có những sứ đồ khác.

Một trong mười hai sứ đồ đầu tiên là Giuđa, kẻ phản Chúa, đã được thay thế bằng Mathia ngay trước ngày lễ Ngũ tuần (Công 1:26; 2:14) để cho trọn số mười hai "sứ đồ của Chiên Con ".

Tuy nhiên, ngoài Mathia, sau ngày lễ Ngũ tuần, còn có nhiều sứ đồ được Chúa chọn và sai đi. Nếu gọi những vị sứ đồ này là "sứ đồ sau sự thăng thiên" thì cũng thích hợp vì họ được ban cho chức vụ sau khi Đấng Christ về trời.

"Các sứ đồ sau sự thăng thiên" có mối quan hệ đặc biệt với Hội Thánh dân ngoại. Những sứ đồ được Kinh Thánh Tân Ước nói đến là Phaolô và Banaba (14:14), Antrônicơ và Giunia (Rô 16:7), Giacơ (Ga 1:19), Sila và Timôthê (ITê 1:1; 2:6), và những người khác (ICôr 9:5; IICôr 8:23).

Phaolô và Banaba (Công 14:14) là những gương nổi bật của các sứ đồ được Đấng Christ ban cho Hội Thánh sau lễ Ngũ tuần.

Hơn nữa, việc Hội Thánh đầu tiên thường lặp lại lời khuyên đề phòng "các sứ đồ giả" (IICôr 11:13; Khải 2:2), cho thấy rằng còn có những sứ đồ khác.

Câu Kinh Thánh rõ ràng nhất xác định chức vụ sứ đồ còn tiếp tục ở trong câu chúng ta đã trích ở trên. Câu này chép rằng Đấng Christ đã "ban cho một số người làm sứ đồ " SAU KHI NGÀI THĂNG THIÊN. (Ghi chú: Để rõ hơn về năm chức vụ ân tứ xem phần C5).

c. Chức Vụ Sứ Đồ.

Sứ đồ, là một người được Đấng Christ "sai đi", là người tiên phong, đặt nền tảng, thành lập các Hội Thánh theo trật tự Kinh Thánh, cai quản và chăm sóc các Hội Thánh đó và làm cho họ vững vàng trong lời Chúa.

Họ chỉ thực hiện một phần nhỏ chức vụ của vị sứ đồ lớn của chúng ta là Đức Chúa Jesus Christ. Người ấy được Đấng Christ kêu gọi và dấy lên, ban cho khải tượng về công việc họ phải làm (Công 16:15-18).

Bằng chứng của chức vụ này là kết quả của sự lao khổ người ấy, tức là công việc mà người ấy đã làm. Như Phaolô đã viết cho Hội Thánh Côrinhtô "Tôi chẳng phải là sứ đồ sao? ... vì anh em là ấn chứng của chức sứ đồ tôi trong Chúa " (ICôr 9:1, 2).

Phaolô ám chỉ rằng việc thiết lập Hội Thánh ở Côrinhtô là bằng chứng về chức vụ sứ đồ của ông. Ông cũng xác nhận rằng chức vụ của ông đến trực tiếp từ Chúa chứ không phải từ con người.

"Phaolô, làm sứ đồ chẳng phải bởi loài người, cũng không nhờ một người nào, bèn là bởi Đức Chúa Jesus Christ và Đức Chúa Trời, tức là Cha, Đấng đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại " (Ga 1:1).

Chức vụ sứ đồ về việc thành lập các Hội Thánh mới được thấy trong những lời của Phaolô viết trong thư Côrinhtô "Theo ơn của Đức Chúa Trời ban cho tôi, tôi đã lập nền như một tay thợ khéo " (ICôr 3:10).

Chức vụ tiên phong này ngày hôm nay vẫn còn đang xảy ra. Hội Thánh là một cơ thể sống chứ không phải là một tổ chức chết. Những Hội Thánh tư gia mới vẫn còn đang được thiết lập, những cánh đồng mới vẫn còn đang được khai phá, vì Hội Thánh vẫn còn đang lớn lên và tiến lên.

Có bằng chứng cho thấy chức vụ ân tứ sứ đồ có thể bao gồm những yếu tố của bốn chức vụ ân tứ còn lại. Ngoài yếu tố tiên phong, lập nền, coi sóc, chức vụ này còn đòi hỏi một số yếu tố về chức vụ tiên tri, giảng tin lành, mục sư và giáo sư. Tuy nhiên chức vụ ân tứ sứ đồ vẫn có những khác biệt so với những ân tứ khác.

2. Tiên Tri

Từ HyLạp là "prophetes", xuất phát từ hai từ HyLạp "pro" nghĩa là "trước" - đằng trước; và "phemi" nghĩa là "bày tỏ hoặc làm rõ những ý tưởng của một người nào đó ", tức là nói, xác nhận. Nối hai từ này lại với nhau có nghĩa là người có thể nói (nói trước) ý tưởng của Đức Chúa Trời hoặc có khi là ý tưởng của những người khác.

Chẳng hạn Phierơ đã vận dụng sự xức dầu của ân tứ tiên tri khi ông nói với Anania rằng "... Hỡi Anania, sao quỉ Satan đã đầy dẫy lòng ngươi đến nỗi ngươi nói dối cùng Đức Thánh Linh. .." (Công 5:3). Phierơ đã biết ý tưởng của Anania và ông đã nói ra sự lừa dối và đạo đức giả của Anania.

Từ này cũng có nghĩa là "một người phát ngôn được hà hơi". Nhưng Kinh Thánh Tân Ước cũng cho thấy chức vụ tiên tri còn hơn là rao giảng.

Ân tứ này cũng liên quan đến những ân tứ khác như giảng tin lành, mục sư và giáo sư, tất cả những ân tứ đó đều có liên quan đến lời nói.

Tiên tri là người nói ra những điều dưới sự cảm động của Thánh Linh mà không suy gẫm trước hoặc chuẩn bị trước. Chức vụ của người đó thường quan hệ đến sự vận hành ân tứ tiên tri (ICôr 12:10) nhưng chắc chắn cũng bao gồm cả ân tứ về sự mặc khải chẳng hạn như Lời Tri Thức và Lời Khôn Ngoan (12:8).

Ân tứ tiên tri vận hành trong Hội Thánh thành phố hoặc Hội Thánh tư gia (14:1-40) nhưng chức vụ ân tứ tiên tri là sự ích lợi cho toàn thể Thân thể của Đấng Christ.

Người tiên tri truyền đạt sự mặc khải về những điều thuộc linh và những sự kiện, tình trạng hiện tại và tương lai hay hoàn cảnh mà sự hiểu biết phàm nhân của người ấy không thể nào biết được. Người ấy không kiểm soát (cai trị) trên những người lãnh đạo, những tín đồ hoặc các Hội Thánh. Người ấy cũng không đưa ra sự hướng dẫn nào. Hơn thế nữa người ấy chỉ xác quyết những gì mà Đức Chúa Trời đã phán với một cá nhân nào đó.

Như chúng ta đã thấy trong bài trước, có một khác biệt căn bản giữa chức vụ tế lễ Cựu Ước và Tân Ước.

Ngày nay, mọi tín đồ đều là thầy tế lễ của Đức Chúa Trời, được trực tiếp vào trong "nơi chí thánh ".

Mọi tín đồ đều có quyền hiểu biết ý tưởng của Đấng Christ và hiểu biết ý chỉ của Đức Chúa Trời, và không nên phụ thuộc vào sự hướng dẫn của một tiên tri.

Tuy nhiên, tiên tri thời Tân Ước đưa ra sự nổi bật về những sự kiện hiện tại và tương lai và mỗi tín đồ đều được tự do hành động theo sự mặc khải đó. Trong những câu Kinh Thánh sau, chúng ta thấy chức vụ tiên tri vận hành như thế nào.

Công 11:27-30 Ở đây tiên tri Agabút nói đến sự mặc khải về cơn đói kém sắp đến. Các sứ đồ đã có hành động thực tế theo lời tiên tri này và gửi sự cứu trợ đến cho các anh em ở Giêrusalem.

20:22-24 Trong đoạn này chúng ta thấy Phaolô đã quyết định lên Giêrusalem mặc cho lời cảnh báo của Thánh Linh (có lẽ qua chức vụ tiên tri) rằng dây xích và hoạn nạn đang đợi ông.

21:10-14 Tiên tri Agabút đưa ra lời tiên tri và sự báo trước minh họa cho sự khổ sở đang chờ đợi Phaolô ở Giêrusalem. Tuy nhiên vị sứ đồ này vẫn tiếp tục cuộc hành trình của mình và nói rằng "Nguyện ý Chúa được nên ".

Những tiên tri khác trong Tân Ước là Giuđa và Sila (15:32).

Do đó chúng ta được ban cho sự hiểu biết kỹ càng về chức năng của ân tứ tiên tri theo khuôn mẫu của Tân Ước. Nguyện Đức Chúa Trời dấy lên chức vụ như vậy với cách lớn lao hơn trong những ngày đến, và ban cho chúng ta sự khôn ngoan để nhận ra được sự vận hành của ân tứ này.

(GHI CHÚ: Để nắm rõ hơn về chức vụ tiên tri, xin xem phần C5).

3. Người Giảng Tin Lành

Từ này có nghĩa là "người rao giảng tin lành ". Có lẽ chức vụ ân tứ của người giảng tin lành được hiểu rõ ràng hơn cả. Vị trí và chức năng của chức vụ này ít khi là chủ đề của sự tranh cãi. Người giảng tin lành không làm công việc của một sứ đồ là hình thành và thiết lập Hội Thánh, cũng không phải là công việc của một mục sư.

Chúng ta thấy một gương mẫu nổi bật về chức vụ giảng tin lành của Philíp (8:5-40). Philíp xuống Samari để rao giảng về Đấng Christ. Nhiều người đã tin, những dấu kỳ và phép lạ đã xác minh chức vụ của ông. Philíp đã làm báptêm bằng nước cho họ nhưng sau đó ông đã giao những người mới tin Chúa (kết quả) trong cuộc truyền giáo của ông cho sứ đồ Phierơ và Giăng chăm sóc. Philíp lại đến đồng vắng để rao giảng tin lành cho hoạn quan Êthiôpi.

Thảm họa thường xảy đến trong công tác của một số người giảng tin lành ngày hôm nay, đó là họ không nhận thức được bản chất thật về chức vụ ân tứ này.

Vì Đức Chúa Trời đã chúc phước cho chức vụ truyền giảng nên họ quyết định ở lại một chỗ lâu dài. Điều này làm cho những người chưa được cứu không nhận được ích lợi của chức vụ giảng tin lành của họ và ngăn cản những người mới tin Chúa không nhận được sự phong phú của những ân tứ khác như sứ đồ, mục sư và giáo sư.

Hãy nhớ rằng, Hội Thánh KHÔNG ĐƯỢC xây trên nền của các nhà truyền giáo nhưng "... được xây trên nền của các sứ đồ và tiên tri. .." (Êph 2:20). Nếu các chức vụ sứ đồ và tiên tri không củng cố và làm vững những người mới tin qua chức vụ giảng tin lành thì Hội Thánh khó mà tồn tại. Nếu có đi chăng nữa, thì chẳng mấy chốc cũng ngã vì thiếu cái nền.

Những người giảng tin lành là "cánh tay" của Đấng Christ vươn ra đến thế gian. Kết quả của chức vụ này sẽ được gom vào trong các Hội Thánh tư gia và được các chức vụ khác mà Chúa đã thiết lập trong Hội Thánh hỗ trợ.

Trong mọi trường hợp trong sách Công-vụ, nếu những người mới tin không phải là kết quả của chức vụ sứ đồ thì chẳng bao lâu các sứ đồ và tiên tri sẽ đến để lập nền. Điều này làm cho những người mới trở thành một Hội Thánh mạnh mẽ.

Bạn hãy đọc 11:19-27. Nhiều người đã tin. Sau đó sứ đồ Banaba đến. Ông rời nơi đó tìm Saulơ (Phaolô) cùng ông đến Antiốt. Chẳng bao lâu sau, các tiên tri đến cộng tác (câu 27). Thật nguy hiểm vì chúng ta đã bỏ lơ khuôn mẫu này.

4. Mục Sư

Từ HyLạp cho từ này là "poimen" nghĩa là "người chăn bầy". Mục sư là người chăn bầy, chăm sóc và nuôi dưỡng bầy chiên của Đức Chúa Trời. Chức vụ chăn bầy rất giống với chức vụ trưởng lão. Mục sư có một nhân cách và chức vụ yêu thương, chăm sóc và nuôi nấng bầy.

Sự khác nhau căn bản với trưởng lão là các trưởng lão thường là người cao tuổi hơn, được chỉ định bởi những phẩm cách cá nhân nào đó (ITi 3:1-7; Tít 1:5-9 v.v...). Công việc của trưởng lão cũng là "chăn Hội Thánh của Đức Chúa Trời " (Công 20:28).

Tuy nhiên chức vụ trưởng lão là chức vụ ở địa phương trong khi chức vụ ân tứ mục sư được ban cho toàn thể Thân thể của Đấng Christ. Mục sư có thể đi từ Hội Thánh này đến Hội Thánh khác nhưng trưởng lão chỉ gắn liền với một Hội Thánh tại tư gia.

Người ta cho rằng Timôthê và Tít có ân tứ mục sư. Những người trẻ này đã phụng sự dưới sự giám sát chung của Phaolô. Họ cũng được Phaolô sai lập các trưởng lão (Tít 1:5).

Mục sư cũng phải có phẩm chất như trưởng lão, ngay cả sứ đồ Phierơ cũng xác nhận ông là một trưởng lão (IPhi 5:1).

Chức vụ trưởng lão chỉ hạn chế trong Hội Thánh tại tư gia trong khi đó chức vụ ân tứ mục sư hoạt động trong khắp các Hội Thánh tư gia, và là ân tứ được ban cho toàn thể Thân thể của Đấng Christ.

5. Giáo Sư

Từ HyLạp là "didaskalos " nghĩa là "người dạy dỗ ", và được dịch theo bản tiếng Anh là tiến sĩ (doctor) và thầy (master). Có mối quan hệ gần gũi giữa chức vụ ân tứ mục sư và giáo sư. Điều này nẩy sinh là do cấu trúc của văn mạch trong Êph 4:11 "Ngài ban cho một số người làm mục sư và giáo sư. ..". Moffatt đã dịch câu này như sau "Ngài ban cho một số người làm người giảng tin lành, một số người làm người chăn và dạy dỗ ".

Chúng ta xem từ "mục sư" và "giáo sư" đồng nghĩa nhau là không đúng. Đừng cho rằng những chức vụ này là giống nhau.

Tuy nhiên có một sự liên hệ mật thiết giữa hai chức vụ. Giáo sư làm việc với mục sư và trưởng lão để chăn bầy và dạy dỗ Hội Thánh tư gia, chăm lo cho sự giàu có thuộc linh của họ và hướng dẫn họ bằng Lời của Đức Chúa Trời.

Trong chức vụ dạy dỗ thường có một số điều trùng lặp. Chức vụ dạy dỗ thường là một phần của các chức vụ khác.

Chẳng hạn sứ đồ Banaba (Công 14:14) cũng được xem là một giáo sư "Trong Hội Thánh tại Antiốt có. .. mấy giáo sư tên là: Banaba. .." (13:1).

Cũng vậy Phaolô cũng minh họa một người có thể mang lấy nhiều chức vụ ân tứ đa diện. Ông viết "Vì lời chứng ấy, ta được cử làm người rao giảng, làm sứ đồ và giáo sư cho dân ngoại " (ITi 2:7 và IITi 1:11).

C. MỤC ĐÍCH CỦA CÁC CHỨC VỤ ÂN TỨ

Bây giờ chúng ta đã biết rằng tất cả các chi thể trong Thân hể của Đấng Christ đều có phần trong việc gây dựng Hội Thánh và làm vinh hiển Đấng Christ.

Tuy nhiên Đấng Christ thăng thiên đã ban cho năm chức vụ ân tứ vì một mục đích cụ thể được mô tả trong Êph 4:12 "Để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng Thân Thể Đấng Christ ".

Từ trọn vẹn trong câu này được dịch từ một tiếng HyLạp là "katartismos", có nghĩa là "làm cho trọn vẹn". Từ này có từ gốc là "katartizo ", nghĩa là "sửa chữa hay điều chỉnh, làm cho hợp, làm cho hoàn hảo, khôi phục".

Điều này mô tả những gì năm chức vụ này phải làm. Một bản dịch khác dịch câu này rõ hơn "Để chuẩn bị dân của Đức Chúa Trời cho công việc phục vụ, để cho Thân Thể của Đấng Christ được gây dựng " (4:12 NIV).

Điều này mở ra một ý tưởng thách thức mới về mục đích của những chức vụ ân tứ này trong Hội Thánh. Năm chức vụ ân tứ này KHÔNG làm công việc của chức vụ. Những chức vụ này sẽ chữa lành những cuộc đời tan vỡ và chuẩn bị các tín đồ để những chi thể này sẽ làm công việc của chức vụ.

Điều này được xác nhận trong 4:12 theo bản Diễn Ý như sau:

"Ý định của Ngài là trang bị cho các thánh đồ (dân được chọn của Ngài) một cách trọn vẹn và đầy đủ để họ làm công việc của chức vụ nhằm gây dựng Thân Thể của Đấng Christ (Hội Thánh)".

Thật là một ánh sáng kỳ diệu về mục đích của các chức vụ trong Thân Thể của Đấng Christ.

Trong sự thành lập quân đội, trước hết các viên chỉ huy phải được huấn luyện sau đó đến lược họ huấn luyện cho quân đội. Cũng vậy, Đấng Christ đã ban ân tứ cho một số người nào đó trong Hội Thánh, để qua chức vụ ân tứ của họ, họ có thể trang bị cho các thánh đồ để phụng sự cho toàn thể Hội Thánh.

Do đó Thân Thể của Đấng Christ và mỗi Hội Thánh tư gia sẽ tự phục vụ và tự gây dựng.

Mặc dù không phải tất cả các tín đồ đều có chức vụ ân tứ, nhưng tất cả đều có nhiệm vụ gây dựng Hội Thánh và dân sự của Đức Chúa Trời. Nguyện mỗi người trong chúng ta, là những chi thể trong Thân Thể của Đấng Christ, đều khám phá được chức vụ của mình và làm trọn chức vụ đó.

"Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin; ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ hãy chăm mà dạy dỗ; ai gánh việc khuyên bảo hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai trị hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót hãy lấy lòng vui mà làm " (Rô 12:6-8).

E7. 9 - Các Chức Vụ Trong Hội Thánh Tại Thành Phố Và Tư Gia

Phần Dẫn Nhập

Chúng ta đã xem năm chức vụ ân tứ hoạt động trong Hội Thánh chung, trong toàn thể Thân Thể của Đấng Christ, bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu sơ qua những chức vụ có liên quan đến Hội Thánh tại thành phố và tại tư gia. Chúng ta thấy sự quản trị theo Tân Ước dựa trên Hội Thánh tại thành phố và tại tư gia.

Khuôn mẫu nguyên thủy đưa ra một hình ảnh về các Hội Thánh tư gia tự quản trong đó các trưởng lão coi sóc và nuôi dưỡng bầy chiên. Các Hội Thánh tư gia trong một thành phố này được các giám mục (người coi sóc) phối hợp và cùng hoạt động để mở rộng Vương quốc của Đức Chúa Trời.

Khi nói đến chức vụ ân tứ mục sư, chúng ta chú ý là có sự giống nhau nổi bật giữa chức vụ mục sư và chức vụ của một trưởng lão.

Sự khác nhau căn bản giữa hai chức vụ này là: chức vụ mục sư phục vụ trong Hội Thánh tư gia, cũng không nhất thiết phải gắn bó với một Hội Thánh tư gia nào. Đó là một ân tứ có thể phục vụ cho bất kỳ Hội Thánh tư gia nào muốn mời mục sư đến. Chức vụ mục sư phục vụ cho toàn thể Thân Thể của Đấng Christ.

Về cơ bản, có hai chức vụ trong Hội Thánh tại thành phố. Đó là chức vụ trưởng lão (phục vụ trong một Hội Thánh tư gia) và chức vụ chấp sự (phục vụ cho tất cả các Hội Thánh tư gia trong Hội Thánh tại thành phố).

Chẳng hạn trong thành Giêrusalem, có nhiều Hội Thánh tư gia. Hội Thánh tại thành phố này có 3.000 người mới tin vào ngày lễ Ngũ tuần và 5.000 người đàn ông (không kể phụ nữ và trẻ con) chỉ một thời gian ngắn sau đó (xem Công 2:41, 44).

Họ nhóm thành những nhóm nhỏ trong nhà. Những người nào có tiền thì chia xẻ trực tiếp cho những người nghèo khi họ cần đến (2:44, 45).

Nhưng có một số người còn đi xa hơn bằng cách bán đất đai, tài sản rồi đem tiền đến cho các sứ đồ để cung cấp cho những ai có nhu cầu. Dường như số tiền này không do các trưởng lão trong các Hội Thánh tại tư gia giữ. Đúng hơn, số tiền này được giao cho các sứ đồ, và các sứ đồ chọn các chấp sự phân phát số tiền đó cho các bà góa và những người có nhu cầu (xem 4:34-37; 5:3; 6:1-7).

Trong Phil 1:1, Phaolô viết "Gửi cho hết thảy các thánh đồ trong Đức Chúa Jesus Christ ở thành Philíp (Hội Thánh ở thành phố này), cùng cho các giám mục và các chấp sự ". Giám mục là người chăm nom hoặc giám sát trưởng lão. Cũng xem Tít 1:5, 7. Chúng ta hãy xem xét chức vụ này kỹ càng hơn.

A. TRƯỞNG LÃO

1. Công Việc Của Họ

Trong Công 20:1-38, chúng ta thấy Phaolô cho mời các trưởng lão tại Êphêsô "... Bấy giờ Phaolô sai người ở Milê đi tới thành Êphêsô, mời các trưởng lão trong Hội Thánh đến " (20:17).

Phaolô nói với họ "Vì tôi không trễ nãi chút nào để tỏ ra cho biết hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời. Anh em hãy giữ lấy mình, và luôn cả bầy mà Đức Thánh Linh đã lập anh em làm kẻ coi sóc, để chăn Hội Thánh của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình " (20:27, 28).

Ở đây Phaolô đang nói chuyện với CÁC TRƯỞNG LÃO và ông nói với họ rằng Thánh Linh đã lập họ làm KẺ COI SÓC (tiếng HyLạp là presbuteros và trong bản English Authorized Version dịch là "các giám mục" (bishops)).

Vị sứ đồ bảo họ là phải NUÔI NẤNG bầy chiên là những người mà họ coi sóc. Điều này cho thấy mối quan hệ gần gũi giữa chức vụ mục sư và chức vụ trưởng lão, tuy nhiên ở đây không đòi buộc một chức vụ ân tứ nào.

Câu Kinh Thánh này và những câu khác trong Kinh Thánh cho chúng ta một kết luận sau về công việc của trưởng lão trong Hội Thánh tư gia:

a. Giữ Lấy Bầy.

Họ phải "giữ lấy. .. cả bầy mà Đức Thánh Linh đã lập họ coi sóc " (20:28).

b. Nuôi Nấng Hội Thánh.

Họ cũng phải "nuôi nấng (chăn) Hội Thánh của Đức Chúa Trời (20:28, cũng xem IPhi 5:14).

c. Chăm Sóc Hội Thánh.

Họ phải "chăm sóc Hội Thánh của Đức Chúa Trời " (ITi 3:5).

d. Khéo Cai Trị.

Trưởng lão phải biết "cai trị " và là những người "khéo cai trị " để được "kính trọng bội phần, nhứt là những người chịu chức rao giảng và dạy dỗ " (5:17).

e. Giữ Đạo Thật.

Một trách nhiệm khác của một trưởng lão là phải "giữ đạo thật y như đã nghe dạy hầu cho có thể theo đạo lành mà khuyên dỗ người ta và bác lại kẻ chống trả " (Tít 1:9).

f. Có Khả Năng Giảng Dạy.

Người trưởng lão cũng phải "khéo (có khả năng) giảng dạy " (3:2).

g. Thăm Viếng Và Cầu Nguyện Cho Người Bịnh.

Trưởng lão phải sẵn sàng khi được mời đi thăm người bệnh và "cầu nguyện bởi đức tin " (Gia 5:14, 15).

TÓM LẠI: Dường như cũng có những trưởng lão là sứ đồ (như Phierơ); có những người chịu trách nhiệm cả thành phố như các giám mục (giám sát, cai quản những người khác), có những người đặc biệt có ơn rao giảng và dạy dỗ, và có những người như những người cha thuộc linh trong một Hội Thánh tư gia vì tuổi tác hoặc tư cách của họ.

2. Phẩm Chất Của Họ

Phẩm chất cần thiết cho chức vụ trưởng lão được chép trong ITi 3:1-7 và Tít 1:6-9. Kết hợp hai đoạn này lại với nhau, chúng ta liệt kê được những phẩm chất cá nhân theo yêu cầu của Hội Thánh.

"Người giám mục cần phải không chỗ trách được, chồng của một vợ. .. có tiết độ, có tài trí, xứng đáng, hay tiếp khách và khéo dạy dỗ, đừng mê rượu, đừng hung bạo, phải mềm mại hòa nhã, lại đừng ham tiền bạc, khéo cai trị nhà riêng. .. chẳng kiêu ngạo. .. chẳng giận dữ. .. kẻo sa vào sự đoán phạt của ma quỉ. ..

"Là người khéo cai trị nhà riêng mình, con cái phải tin Chúa, không bị cáo là buông tuồng hoặc ngỗ nghịch, giữ con cái mình cho vâng phục và ngay thật trọn vẹn. .. Phải được người ngoại làm chứng tốt cho, kẻo bị sỉ nhục và mắc bẫy ma quỉ ".

Do đó có thể thấy rằng đặc điểm nổi bật của một trưởng lão có phẩm chất theo Kinh Thánh nói nằm ở đời sống cá nhân của họ.

Về chức vụ thì người trưởng lão phải giảng dạy những gì mà chính mình đã được giảng dạy và biết chăm sóc bầy.

3. Đừng Quá Nhấn Mạnh Đến Cơ Cấu

Mặc dầu chúng ta đặt ra cơ cấu để bảo quản mùa gặt, và cơ cấu đó có thể quan trọng, nhưng người lãnh đạo Hội Thánh đừng quá nhấn mạnh đến điều này.

Điều gì quan trọng nhất? Rượu (mùa gặt) hay bầu rượu (là để bảo quản mùa gặt)?

Kinh Thánh trả lời cho câu hỏi này "... thợ cất nhà được tôn trọng hơn chính cái nhà " (Hêb 3:3). Chúa Jesus đang xây dựng cái nhà của Ngài (Hội Thánh). Nhưng chúng ta phải luôn tôn trọng Ngài hơn là chính cái nhà của Ngài.

Chức vụ lãnh đạo và chức vụ ân tứ rất cần thiết để gây dựng Hội Thánh. Cơ cấu lãnh đạo mà chúng ta nhận để bảo quản mùa gặt thì ít quan trọng hơn Chúa của mùa gặt (Chúa Jesus) hoặc chính mùa gặt (tín đồ).

Vì vậy đừng quá nhấn mạnh đến bầu rượu, cơ cấu, sự quản trị hoặc những công việc đó được tổ chức như thế nào. Hãy chấp nhận những gì đang có trong dân tộc và văn hóa của bạn. Hãy cầu xin Chúa ban cho bạn sự khôn ngoan và giúp bạn thiết lập cơ cấu tối thiểu có thể được.

Hãy nhớ rằng Hội Thánh Giêrusalem có trên 5.000 gia đình (khoảng 30.000 người hoặc hơn nữa) mà chỉ có bảy chấp sự và mười hai sứ đồ.

4. Chức Vụ Trưởng Lão Ở Địa Phương Bao Gồm Những Chức Vụ Ân Tứ.

Chức vụ ân tứ của mục sư và giáo sư được thiết lập trong Hội Thánh để phục vụ cho nhiều hội chúng. Nhưng trưởng lão thực hiện một chức vụ tương tự trong Hội Thánh tư gia tại địa phương. Các mục sư có thể đến và đi, các giáo sư cũng có thể đến và đi nhưng các trưởng lão thì vẫn cứ ở lại trong Hội Thánh tư gia đó.

Năm chức vụ ân tứ (trong hầu hết các trường hợp) là những trưởng lão hay đi lại. Dường như chức vụ trưởng lão của một Hội Thánh tư gia có thể bao gồm một hoặc tất cả năm chức vụ ân tứ này. Ít ra cũng có bằng chứng là Phierơ là một sứ đồ, cũng là một trưởng lão "... Tôi gửi lời khuyên nhủ này cho các bậc trưởng lão trong anh em, tôi đây cũng là trưởng lão như họ " (IPhi 5:1).

Một trưởng lão của một Hội Thánh thành phố hoặc một Hội Thánh tư gia cũng có thể có chức vụ ân tứ sứ đồ như Phierơ. Như trong Hội Thánh tại Antiốt (Công-vụ 13;1-3), có thể có những người có chức vụ ân tứ tiên tri, giảng tin lành, mục sư hoặc giáo sư. Họ gọi đây là Hội Thánh tư gia.

Trong trường hợp này, những người này có thể hầu việc trong chức vụ trưởng lão ở Hội Thánh tư gia của họ, tuy nhiên chức vụ của họ lại hoạt động ở mức độ rộng hơn nhiều, có ích lợi cho toàn thể Thân Thể của Đấng Christ.

Cũng vậy, một người có thể có một chức vụ ân tứ nhưng vì một lý do nào đó lại không đủ phẩm chất để làm một trưởng lão trong một Hội Thánh tư gia.

Nếu như vậy, chúng tôi tin rằng chức vụ ân tứ đi đây đó phải đầu phục các trưởng lão là người Đức Chúa Trời đặt để trong Hội Thánh tư gia.

Từ những điều này chúng ta có thể nói tóm lại rằng chức vụ trưởng lão là người coi sóc ở địa phương và được chỉ định theo những phẩm chất cá nhân nào đó. Những chức vụ ân tứ là do Đức Chúa Jesus Christ ban cho để phục vụ Hội Thánh của Ngài trong nhiều địa phương trên đất này theo ý chỉ của Ngài.

B. CÁC CHẤP SỰ

1. Công Việc Của Họ

Từ "chấp sự" nghĩa là "đầy tớ". Công việc của chấp sự là phục vụ những nhu cầu thực tế của người lãnh đạo và các chi thể của Hội Thánh thành phố và Hội Thánh tư gia. Chấp sự có thể có nhiều cách phục vụ những nhu cầu của Hội Thánh thành phố nhưng tùy mỗi Hội Thánh và trường hợp cụ thể người ta có thể thấy được những nhu cầu cần phục vụ.

Nói chung, chúng ta nên hiểu rằng các chấp sự có trách nhiệm lo về những khía cạnh vật chất (tài chánh) cho công việc của Hội Thánh tại thành phố. Nhờ đó người thi hành chức vụ và người coi sóc được rãnh tay để chuyên quan tâm đến những nhu cầu và tình trạng thuộc linh của Hội Thánh.

2. Những Phẩm Chất Của Họ

Trong ITi 3:8-13 đã liệt kê tất cả những phẩm chất cá nhân của một chấp sự. Những phẩm chất này bao gồm tất cả những khía cạnh về nhân cách, thuộc linh và đời sống gia đình có trật tự.

Theo bản Living Bible, câu 13 đưa ra một lời hứa cho những chấp sự trung tín "Ai thực hiện tốt chức vụ chấp sự thì sẽ được ban thưởng bởi sự kính trọng của những người khác cũng như được gia tăng lòng tin chắc và sự trông cậy dạn dĩ nơi Chúa ".

Mọi Hội Thánh năng động tại một thành phố nào đều cũng biết đến giá trị của những chấp sự trung tín và có năng lực.

C. NHỮNG CHỨC VỤ KHÁC

Trong Công 6:1-6, chúng ta thấy có sự lựa chọn bảy người được đầy dẫy Thánh Linh để giúp cho các sứ đồ rãnh rỗi để chuyên tâm cầu nguyện và có chức vụ Lời.

Một số người cho rằng có lẽ những người này là những chấp sự đầu tiên. Nhưng trong Kinh Thánh không nói đến điều này. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy nguyên tắc về sự phân biệt giữa nhiệm vụ thuộc linh và nhiệm vụ lặt vặt tốn hết thời gian có liên đới thế nào với Hội Thánh tại thành phố và Hội Thánh tại tư gia.

Trở lại ICôr 12:28, chúng ta thấy có liệt kê một số chức vụ và công việc Chúa đã thiết lập trong Hội Thánh bao gồm sự "giúp đỡ" và "quản trị". Bản Kinh Thánh Tân Ước Diễn Ý và bản dịch Moffatt đã dịch những từ này là "người giúp đỡ" và "người quản trị".

Những người lãnh đạo hầu việc Chúa ở những nhóm lớn hơn hoặc trên nhiều Hội Thánh tư gia trong một thành phố, có thể bổ nhiệm những người giúp đỡ trong tổ chức và quản trị những công việc của Hội Thánh thành phố.

Nhiều Hội Thánh đã chỉ định các ban chấp sự để coi sóc những vấn đề liên quan đến công việc của Hội Thánh. Điều này được chứng minh là rất hiệu quả, đặc biệt trong việc xử lý các yêu cầu về tài chánh và trật tự của Hội Thánh.

Theo nguyên tắc chung, chúng ta thấy có nhiều người có phẩm chất để làm các chấp sự nhưng không nhất thiết được trang bị để xử lý những công việc liên quan đến sự quản trị.

Do đó chúng ta thấy ưu điểm cần phải có một ban chấp sự được chỉ định để đáp ứng những nhu cầu này và để phục vụ Hội Thánh dưới sự giám sát của các trưởng lão.

D. KẾT LUẬN

Tóm tắc các chức vụ hoạt động trong Hội Thánh tư gia, chúng ta biết rằng Chúa đã chỉ định:

* Những trưởng lão là những người quản trị và giám sát những nhu cầu thuộc linh của Hội Thánh, mặc dù chức vụ trưởng lão cũng bao gồm những anh em có những chức vụ ân tứ.

* Các chấp sự được chỉ định để coi sóc vấn đề vật chất (tài chánh) về những hoạt động của Hội Thánh tại tư gia. Kinh Thánh Tân Ước cũng cho phép chỉ định những người có phẩm chất tốt để khuyên lơn, an ủi và góp ý trong công tác quản trị của Hội Thánh tại thành phố và tư gia.

Tuy nhiên tất cả các hoạt động phải ở dưới sự giám sát thuộc linh của trưởng lão địa phương.

E7.10 - Sự Trang Bị Siêu Nhiên Cho Hội Thánh Tư Gia

GHI CHÚ: Để làm rõ thêm về chủ đề này xin xem phần D.

A. TÍN ĐỒ VÀ THÁNH LINH

"Hỡi anh em, tôi không muốn anh em chẳng biết về các ân tứ thuộc linh " (ICôr 12:1).

Bằng những lời này, sứ đồ Phaolô bắt đầu dạy cho chúng ta biết về bản chất và sự vận hành của chín ân tứ Thánh Linh.

Phần lớn các giáo sư và những người nghiên cứu Kinh Thánh đều không hiểu ba đoạn Kinh Thánh 12:1-13:13 và 14:1-40. Bởi vì họ đã chối bỏ ơn phước đầy đủ của Thánh Linh trong đời sống Cơ đốc và sự biểu lộ đầy đủ của Thánh Linh trong Hội Thánh hiện nay.

Tuy nhiên khi Thánh Linh được tự do hành động (không bị dập tắt) thì chẳng mấy chốc người ta sẽ khám phá ra rằng Kinh Thánh Tân Ước không lỗi thời nhưng lại là kinh nghiệm của Cơ đốc nhân hiện tại.

Quyền năng và sự bày tỏ Thánh Linh ngày nay cũng giống như trong thời đại của Kinh Thánh. Nếu chúng ta để Ngài được tự do như Ngài muốn, thì ba đoạn Kinh Thánh mà Phaolô viết cho người Côrinhtô sẽ được người ta hiểu và kinh nghiệm.

1. "Đấng Yên Ủi Khác"

Khi Chúa Jesus còn ở trên đất này trong xác thịt, các môn đồ hằng ngày đã phụ thuộc vào Ngài để được huấn luyện, được ban quyền năng, được dẫn dắt và sửa trị. Họ nương dựa nơi đức tin, sự khôn ngoan và quyền năng CỦA NGÀI.

Khi Ngài bảo họ rằng Ngài sẽ lìa họ thì họ rất buồn bã. Họ sẽ làm gì bây giờ? Họ sẽ nương cậy vào ai đây?

Chính lúc đó, Thầy của họ đã phán rằng nếu Ngài đi thì ĐẤNG YÊN ỦI KHÁC (Đấng giúp đỡ) sẽ được sai đến. ĐẤNG YÊN ỦI này được gọi là "Đấng Cha đã hứa " và "Thần lẽ thật ". Đấng đã ở với họ rồi và sau đó Ngài sẽ ở TRONG họ (Giăng 14:17).

Chúa phán rằng KHI ĐẤNG YÊN ỦI (Thánh Linh) đang ở TRONG họ, thì các môn đồ sẽ tiếp tục làm những việc quyền năng như họ thấy Ngài đã làm.

Chúa Giêxu dạy những môn đồ rằng họ sẽ làm những việc lớn hơn Ngài đã làm bởi vì dù Ngài đã về trời, Thánh Linh cũng sẽ ban quyền năng cho nhiều môn đồ trên khắp thế giới trong thời đại tin lành này (xem 14:12-17; 16:7-15).

Nếu các môn đồ đầu tiên đã nương cậy hoàn toàn nơi Đấng Christ thì chúng ta lại không nương cậy hoàn toàn và thường xuyên nơi ĐẤNG YÊN ỦI KHÁC, là Thánh Linh hay sao? Ngài đã được sai đến để tạo điều kiện cho chúng ta có thể tiếp tục chức vụ kỳ diệu của Chúa Jesus cho đến ngày trở lại vinh hiển của Ngài.

Chúa Jesus phán với các môn đồ rằng: "Mọi sự Cha có, đều là của ta, nên ta nói rằng Ngài sẽ lấy mọi điều về ta mà rao bảo cho các ngươi ". Thánh Linh là Đấng đại diện cho Đấng Christ ở TRONG mọi tín đồ, Ngài đem và bày tỏ quyền năng, sự khôn ngoan, quyền bính, bản tánh của ĐẤNG CHRIST vào trong và qua tín đồ, cũng như qua mọi nhóm tín đồ.

2. Thánh Linh Trong Tín Đồ

Thánh Linh từ trời giáng xuống vào ngày Lễ Ngũ tuần đổ đầy cho 120 môn đồ đang cầu nguyện chờ đợi trên phòng cao ở Giêrusalem.

Sau đó Thánh Linh đã đổ đầy mọi tín đồ đói khát thuộc linh và ban quyền năng (khả năng) cho họ để làm chứng nhân có hiệu quả cho Đấng Christ (Công 1:8; 2:38, 39).

Đức Thánh Linh ở VỚI các tín đồ, nhưng tín đồ cần phải NHẬN Thánh Linh để Ngài ở TRONG họ.

Đây là một kinh nghiệm riêng biệt về sự cứu rỗi và báptêm bằng nước (Công 8:12-17; 14:1-6). Khuôn mẫu của Tân Ước là ĂN NĂN, sau đó TIN ĐẤNG CHRIST, CHỊU BÁPTÊM bằng nước và NHẬN LÃNH SỰ ĐẦY ĐỦ CỦA THÁNH LINH (2:38, 39; 19:1-7).

B. CHÍN ÂN TỨ THÁNH LINH

Phaolô đã viết ba đoạn Kinh Thánh (ICôr 12:1-13:13; 14:1-40) cho một Hội Thánh đã được đầy dẫy Thánh Linh.

Ông đang giải thích về việc Thánh Linh đến đem những ÂN TỨ (các khả năng siêu nhiên) khác nhau cho những chi thể ở trong Thân Thể của Đấng Christ (Hội Thánh) trên đất này để họ tiếp tục chức vụ của Đấng Christ đã được tôn cao. Đây là sự trang bị siêu nhiên của Đức Chúa Trời dành cho chức vụ và thờ phượng.

Để cho tiện, chúng tôi chia chín ân tứ thuộc linh này thành ba loại, mỗi loại ba ân tứ như sau:

CÁC ÂN TỨ MẶC KHẢI - lời tri thức, lời khôn ngoan và phân biệt các linh.

CÁC ÂN TỨ QUYỀN NĂNG - Ân tứ đức tin, ân tứ về sự chữa lành và ân tứ làm các phép lạ.

CÁC ÂN TỨ LỜI NÓI ĐƯỢC CẢM ĐỘNG - Ân tứ tiếng mới (các ngôn ngữ), ân tứ thông giải các thứ tiếng và ân tứ nói tiên tri.

1. Các Ân Tứ Mặc Khải

a. Lời Tri Thức.

Ân tứ này không hàm ý tri thức tự nhiên có được nhưng đó là sự ban cho siêu nhiên về một phần sự toàn tri của Đức Chúa Trời. Đó là một ân tứ của Thánh Linh.

Đó là sự truyền đạt lạ lùng về một phần nhỏ tri thức của Đức Chúa Trời cho một tín đồ đầy dẫy Thánh Linh. Giống như LỜI NÓI có thể bày tỏ chỉ một phần nhỏ tri thức của bạn thì ân tứ "Lời tri thức" bày tỏ một phần nhỏ tri thức vô hạn của Đức Chúa Trời - Ân tứ này chỉ đủ đáp ứng nhu cầu của một thời điểm nào đó.

Ân tứ này vận hành khi chúng ta được xức dầu và có quyền năng của Thánh Linh. Đó là lời tri thức về một điều gì đó được ban cho để truyền đạt. Đó có thể là sự hiểu biết về một sự kiện hoặc sự hiểu biết về điều gì đó đã gây nên bệnh tật (cụ thể trong chức vụ chữa lành).

Ân tứ này cũng liên quan đến sự hiểu biết về những trường hợp nào đó. Đó là tri thức được truyền đạt theo thuộc linh mà không ai có thể tự có được.

Đó là một phần về sự toàn tri của Đức Chúa Trời đặt vào trong lòng con người để đáp ứng một nhu cầu cụ thể trong sinh hoạt của Thân Thể Đấng Christ trên đất này.

Lời tri thức không được ban cho để thỏa mãn sự tò mò của con người. Ân tứ này được ban cho với cùng mục đích như các ân tứ khác: "để ai nấy đều được sự ích chung " (12:7). Ân tứ này giúp cho người tín đồ được đầy dẫy Thánh Linh, tiếp tục chức vụ kỳ diệu của Chúa Jesus.

b. Lời Khôn Ngoan.

Đây không phải là sự khôn ngoan tự nhiên cũng không phải là sự khôn ngoan của một triết gia hay một "tư tưởng gia". Đây là ân tứ siêu nhiên của Thánh Linh. Đây là sự truyền đạt lạ lùng một phần nhỏ sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời cho những tín đồ đầy dẫy Thánh Linh.

Cũng như LỜI NÓI có thể diễn đạt một phần sự khôn ngoan của bạn thì "Lời khôn ngoan" cũng diễn đạt một phần sự khôn ngoan vô hạn của Đức Chúa Trời, chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu của thời điểm đó.

Những ai đã kinh nghiệm phước hạnh khi vận hành ân tứ này đều biết rằng ân tứ này đến cách siêu nhiên để đáp ứng một nhu cầu nào đó. Ân tứ này chỉ được vận hành khi chúng ta được sự xức dầu của Thánh Linh.

Ân tứ này thường vận hành cùng với Lời tri thức. Qua Lời khôn ngoan (bởi Thánh Linh) chúng ta biết phải làm gì (ứng dụng như thế nào một cách cụ thể) với tri thức (thông tin) mà chúng ta nhận được khi Lời tri thức đến với chúng ta.

Chắc chắn "Lời khôn ngoan" này rất cần cho công tác lãnh đạo và chức vụ của mọi Hội Thánh tư gia.

c. Phân Biệt Các Linh.

Đây KHÔNG PHẢI là ân tứ BIỆN BIỆT như thường bị trích dẫn sai. Phân biệt các linh bị giới hạn hoàn toàn trong thế giới của các linh. Qua ân tứ này, chúng ta có thể biết một phép lạ hay sự biểu hiện nào đó là của Thánh Linh, nhân linh hay tà linh.

Ân tứ này rất hữu ích trong chức vụ đuổi quỉ (Mác 16:17...).

Từ "phân biệt" này xuất phát từ tiếng HyLạp là "diakrisis " nghĩa là "một sự đoán phạt kỹ lưỡng hoặc đi đến kết luận, hoặc là đánh giá ".

Ân tứ Thánh Linh này giúp cho một người có thể đánh giá tình trạng bị quỉ ám một cách đầy đủ, biết được tên, bản chất và sức mạnh của quỉ và có được quyền năng để đuổi quỉ đó ra trong danh Chúa Jesus.

Vì quyền lực của sự tối tăm thường ẩn sau những căn bịnh về tâm thần và cơ thể, nên tầm quan trọng của ân tứ phân biệt các linh không nên được nhấn mạnh quá trong bất cứ chức vụ giải cứu nào ngày hôm nay.

2. Các Ân Tứ Về Quyền Năng

a. Ân Tứ Đức Tin.

Tất cả các Cơ đốc nhân đều có đức tin như là một khả năng của tâm linh họ. Đức tin được sinh ra trong lòng của mọi người nam hay nữ. Một số người có "đức tin ít", một số khác có "đức tin như sóng biển", và một số lại có "đức tin lớn". Tuy nhiên ân tứ đức tin là sự truyền đạt siêu nhiên đức tin mạnh mẽ của Đức Chúa Trời vào lòng của một tín đồ đầy dẫy Đức Thánh Linh. Đây là một đức tin đặc biệt cho một mục đích đặc biệt.

Đây là sự trang bị siêu nhiên để thực hiện chức vụ kỳ diệu của Chúa Jesus và là một ân tứ Thánh Linh. Ân tứ này vận hành theo sự xức dầu của Thánh Linh. Các cá nhân tín đồ và các Hội Thánh tư gia chắc chắn sẽ làm được nhiều điều lớn lao cho Đức Chúa Trời một khi ân tứ này được biểu lộ càng nhiều hơn.

b. Các Ân Tứ Về Các Sự Chữa Lành.

Các ân tứ này là để chữa lành các bệnh tật của cơ thể.

Có nhiều cách để chữa lành. Có cách chữa lành bằng những phương tiện y khoa, bằng những phương pháp ăn kiêng tự nhiên..., bằng cách hướng suy nghĩ về những điều đúng đắn, tích cực và lành mạnh, bằng sự cầu nguyện và đức tin của chính người đó, hoặc bằng sự cầu nguyện và đức tin của những người khác. Tuy nhiên không có điều nào trong những phương pháp này được gọi là CÁC ÂN TỨ VỀ CÁC SỰ CHỮA LÀNH cả.

Các ân tứ về các sự chữa lành là sự ban cho siêu nhiên của Thánh Linh cho những tín đồ đầy dẫy Đức Thánh Linh. Những ân tứ đó giúp con người có thể thực hiện được chức vụ chữa lành của Chúa Jesus.

Các ân tứ này KHÔNG vượt quá đức tin của người bịnh. Chúa Jesus không thể chữa lành nơi nào không có đức tin (Mác 6:5, 6).

Tuy nhiên nơi nào có những người đang vận dụng các ân tứ chữa lành thì quyền năng chữa lành dành sẵn cho những ai có lòng tin tiếp nhận lấy.

Nhiều người đã tự hỏi tại sao Phaolô dùng "các ân tứ" (ở số nhiều). Dường như có nhiều ân tứ khác nhau cho cần thiết cho nhiều loại bệnh khác nhau. Cũng giống như trong lĩnh vực y khoa, cần phải có "nhiều chuyên gia" cho những loại bệnh khác nhau.

Điều đáng chú ý là các ân tứ về các sự chữa lành là một phần không thể thiếu trong chức vụ của Đấng Christ - đã được LẬP trong Hội Thánh (ICôr 12:28).

c. Làm Các Phép Lạ.

Tiếng HyLạp là "energemo dunamis" theo nghĩa đen có nghĩa là "sức mạnh". Ân tứ Thánh Linh này dùng để bày tỏ quyền năng của Đức Chúa Trời. Có lẽ người ta đã chứng kiến được những sự chữa lành kỳ diệu đã xảy ra như việc nối các xương gãy một cách tức thì, làm tan biến những tế bào ung thư...

Nhưng ân tứ này còn vượt quá lĩnh vực vật lý và bao gồm những hành động có quyền năng thiên thượng vượt xa tự nhiên, chẳng hạn như sự rủa sả cây vả (Mác 11:1-33), vượt qua những yếu tố tự nhiên như biến nước thành rượu (Giăng 2:1-25), làm cho bão tố yên lặng (Lu 8:1-55).

Không còn nghi ngờ gì nữa, khi chúng ta càng đến gần cuối thời đại này và sự tuôn đổ của Thánh Linh càng gia tăng, chúng ta sẽ càng thấy nhiều điều được thực hiện bởi ân tứ "làm các phép lạ" này hơn những gì chúng ta đã từng thấy.

3. Các Ân Tứ Về Lời Nói Được Cảm Động

a. Ân Tứ Tiếng Mới.

Đây không phải là khả năng học và nói những ngôn ngữ khác như một số người đã tưởng. Mục đích của ân tứ này cũng không phải là dành cho việc rao giảng tin lành ở ngoại quốc.

Vào ngày lễ Ngũ tuần (Công 2:1-47) có 120 môn đồ đầy dẫy Thánh Linh và nói các thứ tiếng khác nhau để các du khách từ các nước đến Giêrusalem có thể nghe Tin lành bằng ngôn ngữ của họ.

Nhưng khi cần thiết phải trả lời những câu hỏi của họ và rao giảng tin lành thì Phierơ đã đứng lên và nói với tất cả mọi người bằng ngôn ngữ Aram, là ngôn ngữ phổ biến ở khu vực đó. Điều này đưa đến kết quả là có 3.000 người ăn năn và được cứu.

Chắc chắn là họ đã hiểu những gì Phierơ rao giảng. Vì vậy "các thứ tiếng khác nhau" là bằng chứng về việc đầy dẫy và có quyền năng Thánh Linh, nhưng không có mục đích là rao giảng cho người ngoại quốc.

Trong ICôr 14:2 Phaolô nói: "Vì người nào nói tiếng lạ thì KHÔNG PHẢI nói với người ta, bèn là với Đức Chúa Trời ". Và trong câu 4: "Kẻ nói tiếng lạ tự gây dựng lấy mình ".

Trong câu 5, ông nói "Tôi ước ao anh em đều nói tiếng lạ cả " và trong câu 18 "Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời vì đã được ơn nói tiếng lạ nhiều hơn hết thảy anh em ". Trong câu 39 "Đừng ngăn cấm việc nói tiếng lạ " (NIV).

Trong sách Công-vụ đoạn 2, 10 và 19 nhiều người đã nhận lãnh Thánh Linh và họ đã nói các thứ tiếng khác nhau. Đó là dấu hiệu phổ biến nhất của sự đầy dẫy Thánh Linh.

Trong ICôr 12:1-14:40, Phaolô đang nói về ân tứ tiếng lạ. Đó là một khả năng nói trong buổi nhóm có ân tứ thông giải các thứ tiếng kèm theo.

Trong 14:27, ông nói rằng nếu có người thông giải thì trong buổi nhóm nên có hai, ba người nói tiếng lạ. Nếu không có người có ơn thông giải hiện diện thì họ nên im lặng, chỉ tự nói với mình và với Đức Chúa Trời (14:27, 28).

Một số người đã dạy rằng Tân Ước phân biệt giữa:

* "Tiếng lạ" là bằng chứng đầu tiên về sự đầy dẫy Thánh Linh.

* "Tiếng lạ" để thờ phượng hoặc cầu thay trong sự thờ phượng riêng tư.

* ÂN TỨ NÓI TIẾNG LẠ được vận hành trong một buổi nhóm kèm theo ÂN TỨ THÔNG GIẢI để mọi người đều được gây dựng.

Tác giả bài viết này thấy rằng khi các tín đồ được dạy dỗ đúng đắn và có được kinh nghiệm về ân tứ thì họ có thể vận dụng ân tứ này trong tất cả các trường hợp trên.

Phaolô cũng giải thích rằng khi người ta nói tiếng lạ, thì sự hiểu biết (tâm trí) của họ lơ lững và tâm linh họ (không phải tâm trí) đang nói chuyện với Đức Chúa Trời (ICôr 14:14, 15). "Bởi đó, kẻ nói tiếng lạ, hãy cầu nguyện để được thông giải tiếng ấy " (14:13).

Đức Thánh Linh, Chúa của tất cả các ngôn ngữ, vận hành và cảm động trong tâm linh của một người để họ nói bằng một ngôn ngữ mà họ cũng không biết.

Đây là ân tứ của Thánh Linh, cũng là một ân tứ siêu nhiên như những ân tứ nói trên.

b. Ân Tứ Thông Giải Tiếng Lạ.

Đây là một ân tứ "đi đôi" với ân tứ trên. Trong 14:5, Phaolô viết "Người nói tiên tri là trọng hơn kẻ nói tiếng lạ mà không giải nghĩa để cho Hội Thánh được gây dựng ".

"Nói tiếng lạ" chỉ có ích lợi cho người nói (câu 4) trừ khi kèm theo ân tứ thông giải. Điều này làm cho sứ điệp của họ dễ hiểu đối với hội chúng.

Vì lý do này, Phaolô nói trong câu 13 "Bởi đó, kẻ nói tiếng lạ, hãy cầu nguyện để được thông giải tiếng ấy ". Bằng cách vận dụng cả hai ân tứ này, người nói có thể đem sự gây dựng đến cho Hội Thánh.

Thông giải tiếng lạ cũng là một ân tứ siêu nhiên như ân tứ tiếng lạ hoặc bất kỳ một ân tứ nào trong chín ân tứ thuộc linh. Một người không HỌC ngôn ngữ, nhưng chính Đức Thánh Linh là Đấng cảm động nói tiếng lạ cũng là Đấng cảm động để thông giải.

Ân tứ này không phải là sự thông địch. Thông dịch là dịch theo từng từ hoặc cố dịch theo nguyên văn. Nhưng ân tứ thông giải tiếng lạ nói lên Ý NGHĨA của sứ điệp tiếng lạ đó. Thánh Linh thông giải ý nghĩa những gì nói bằng tiếng lạ đó. Điều này có nghĩa là có nhiều chi tiết và sự giải thích hơn trong tiếng lạ.

Khi cầu nguyện bằng tiếng lạ, thì sự thông giải có thể thuật lại lời cầu nguyện bằng ngôn ngữ đã biết.

Nếu sự thông giải có thể là sự đáp lời cầu nguyện của Đức Chúa Trời, thì hãy để cho hội chúng biết rằng Đức Chúa Trời sẽ làm gì vì cớ lời cầu nguyện và những điều kiện phải được thỏa mãn để sự cầu nguyện được đáp lời.

Sự liên kết giữa người nói tiếng lạ và người thông giải là Thánh Linh, Đấng cảm động cả hai.

c. Ân Tứ Tiên Tri.

Cuối cùng chúng ta xem xét đến ân tứ thứ ba về lời nói là ân tứ tiên tri.

Đây không phải là sự rao giảng, mặc dù nhiều khi sự rao giảng cũng nhờ ân tứ tiên tri. Nếu có trường hợp như vậy thì người rao giảng đang nói bằng lời tiên tri (14:6). Trong tiếng HyLạp có nhiều từ được dùng trong Kinh Thánh Tân Ước chỉ "sự rao giảng".

Nhưng nói tiên tri có nghĩa là "nói như có người đang hướng dẫn ", "nói theo sự cảm động ", "nói lên những lời không được chuẩn bị hay suy gẫm trước ".

Ân tứ tiên tri cũng là một ân tứ siêu nhiên như bất kỳ một ân tứ nào khác.

Đó không phải là một sứ điệp do tâm trí tự nhiên chuẩn bị và soạn ra nhưng là một sứ điệp tuôn ra từ tâm linh bên trong.

Mục đích của ân tứ này có ba điều: "Gây dựng, khuyên lơn và an ủi " (14:3).

Mặc dù lời tiên tri là lời nói theo sự cảm động nhưng người nói vẫn kiểm soát được ân tứ này. Dó đó trong 14:32 chép "Linh của các tiên tri thuận phục sự kiểm soát của các tiên tri " (Bản NIV).

Điều này có nghĩa là ý chí và khả năng của con người có thể điều chỉnh sự vận hành của ân tứ thuộc linh này. Bản Living Bible dịch câu trên như sau: "Hãy nhớ rằng một người có sứ điệp đến từ Đức Chúa Trời thì có quyền năng để tự mình dừng lại hoặc đợi đến phiên mình ".

Chúng ta đã xem xét sơ lược ba ân tứ về lời nói theo sự cảm động - Đó là ân tứ nói tiếng lạ, ân tứ thông giải và ân tứ nói tiên tri.

Những ân tứ này sẽ được vận hành trong mọi Hội Thánh. Đó là những đặc điểm của Hội Thánh Tân Ước và là một phần của khuôn mẫu Tân Ước cho Hội Thánh ngày hôm nay.

(GHI CHÚ: Phần D1 có nói nhiều về các ân tứ Thánh Linh).

C. CON ĐƯỜNG TỐT LÀNH HƠN

Ngày nay khi phải đối diện với thách thức của các ân tứ thuộc linh, nhiều người đã trích dẫn câu Kinh Thánh sau để ứng dụng sai "Tôi sẽ chỉ cho anh em CON ĐƯỜNG TỐT LÀNH HƠN " (12:31; 13:1-13).

Thật là sai lầm khi xác quyết rằng "con đường tốt lành hơn " là con đường yêu thương chứ không phải các ân tứ.

Chúng ta có tin rằng sứ đồ Phaolô dạy chúng ta dùng TÌNH YÊU THƯƠNG để thay thế CÁC ÂN TỨ THÁNH LINH không? Không.

Đoạn 13 được đặt một cách khôn ngoan giữa đoạn 12 và 14 để đưa ra sự quân bình hài hòa giữa TRÁI THÁNH LINH (điển hình là tình yêu thương) với CÁC ÂN TỨ THÁNH LINH. Trái của Thánh Linh giúp chúng ta bày tỏ bản tánh của Đấng Christ cho người khác. Còn các ân tứ Thánh Linh làm cho chúng ta bày tỏ quyền năng của Đấng Christ cho người khác. Chúng ta đều cần cả hai.

Trái Thánh Linh được nói đầy đủ trong Ga 5:22, 23 nhưng TÌNH YÊU THƯƠNG bao gồm tất cả các trái thuộc linh này.

TRÁI là kết quả của sự trưởng thành. Để có trái cần phải có thời gian để lớn lên và trưởng thành. Cũng vậy TRÁI của Thánh Linh là kết quả của sự lớn lên và trưởng thành thuộc linh. Đó là bằng chứng về bản tánh Cơ đốc được hình thành trong đời sống của chúng ta bởi Đức Thánh Linh.

CÁC ÂN TỨ thì không như vậy. Các ân tứ được cung cấp như là sự trang bị siêu nhiên cho chức vụ và để phục vụ. CÁC ÂN TỨ này được Thánh Linh phân phát (ban cho cách nhưng không). TRÁI được Thánh Linh tạo ra và là một phần của chúng ta.

Do đó trong ICôr 13:1-13, Phaolô viết rằng dù ông có nói "các thứ tiếng loài người và thiên sứ. .. nói tiên tri. .. có tri thức. .. có đức tin " v.v. .. (tất cả đều tốt và đáng ca ngợi) nhưng nếu đời sống ông lại thiếu tình yêu thương thì ông cũng chẳng ra gì.

Nói cách khác, chúng ta có thể có CÁC ÂN TỨ của Thánh Linh để phục vụ nhưng lại không sản sinh ra BÔNG TRÁI là tâm tánh của một Cơ đốc nhân.

1. Các Ân Tứ Với Tình Yêu Thương

Thế thì "con đường tốt lành hơn " là gì? Phải chăng tình yêu thương làm mất hết các ân tứ? Hoặc các ân tứ làm mất hết tình yêu thương?

Không! "Con đường tốt lành hơn " là CÁC ÂN TỨ VỚI TÌNH YÊU THƯƠNG. Chúng ta không thể có các ân tứ mà lại không có tình yêu thương và cũng không thể có tình yêu thương mà lại không có các ân tứ. Chúng ta cần có sự quân bình tốt đẹp giữa các ân tứ (sự trang bị) và trái Thánh Linh (phẩm chất).

Bạn nên nhớ là không có sự phân đoạn trong bản gốc (sự phân đoạn này là do người dịch), chúng ta thấy rằng đoạn 13 được tóm gọn trong câu đầu tiên của đoạn 14 "Hãy nôn nả tìm kiếm tình yêu thương, cũng hãy ước ao các ân tứ thuộc linh ".

Do đó, "Con đường tốt lành hơn " dành cho các tín đồ và các Hội Thánh ngày nay là "HÃY NÔN NẢ TÌM KIẾM TÌNH YÊU THƯƠNG, CŨNG HÃY ƯỚC AO CÁC ÂN TỨ THUỘC LINH ". "Con đường" này bao gồm trái phẩm chất Cơ đốc cùng với các ân tứ của sự trang bị siêu nhiên.

E7.11 - Mỗi Hội Thánh Tư Gia Là Một Căn Cứ Truyền Giáo

A. HỘI THÁNH TÂN ƯỚC

Theo khuôn mẫu Tân Ước, các Hội Thánh tư gia nên:

• Có tài chánh do các chi thể dâng hiến.

• Do các trưởng lão quản trị.

• Do các chấp sự được chỉ định phụng sự.

Họ phải có nhiệm vụ truyền giáo và truyền bá phúc âm. Nếu tin lành được rao truyền có hiệu quả cho mọi người xung quanh, thì mỗi Hội Thánh tư gia phải trở thành một căn cứ cho các hoạt động truyền giáo. Đây là khuôn mẫu trong Hội Thánh Tân Ước đầu tiên.

1. Hội Thánh ở Giêrusalem

Bảy đoạn đầu trong sách Công-vụ mô tả các hoạt động của Hội Thánh đầu tiên tại Giêrusalem.

Dường như sau sự tuôn đổ của Thánh Linh vào ngày lễ Ngũ tuần, Hội Thánh đã mất nhiều năm để huấn luyện và trang bị chức vụ hầu việc cho các tân tín hữu. Sau đó Hội Thánh bắt đầu yên nghỉ trong sự an ủi thuộc linh và quên lời dạy dỗ của Chúa Jesus.

Chúa Jesus phán "Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giêrusalem, cả xứ Giuđê, xứ Samari, cho đến cùng trái đất " (Công 1:8).

Sự làm chứng phải được bắt đầu ở Giêrusalem (quê hương của bạn), sau đó là đến những vùng lân cận (xứ Giuđê) và rồi đến những điểm xa hơn để rồi đến tận cùng trái đất.

2. Sự Bắt Bớ Tạo Nên Sự Truyền Giáo

Khi Hội Thánh Giêrusalem không làm theo lời ủy thác này, Chúa đã cho phép sự bắt bớ xảy ra để họ bị tan lạc. Chỉ đến lúc đó tin lành mới được đem đến những nơi khác.

Công-vụ đoạn 8 đã kể lại câu chuyện này. Trong số những người bị sự bắt bớ làm tản lạc là Philíp. Ông đã đi xuống Samari và rao giảng về Đấng Christ cho dân ở đây. Một cuộc phục hưng lạ lùng đã xảy ra.

Trong đoạn 9 chúng ta thấy có các tín đồ ở Đamách và trong câu 31, chúng ta thấy có "các Hội Thánh trong cả xứ Giuđê, xứ Galilê và xứ Samari ".

Đến 11:19, chúng ta thấy "Những người bị tản lạc bởi sự bắt bớ xảy đến về dịp Êtiên, bèn đi đến xứ Phênixi, đảo Chíprơ và thành Antiốt, chỉ giảng đạo cho người Giuđa thôi ".

3. Hội Thánh Ở Antiốt

Tất cả các trung tâm Cơ đốc mới mẻ này đều là sản phẩm của hoạt động truyền giáo của Hội Thánh Giêrusalem. Tuy nhiên trong Công-vụ đoạn 13, một trong những Hội Thánh mới này đã phát triển thành "một căn cứ hoạt động" khác. Đó là Hội Thánh ở Antiốt.

Trong suốt thời gian kiêng ăn cầu nguyện ở Antiốt, Thánh Linh đã xác quyết sự kêu gọi cho Phaolô và Banaba để thực hiện cuộc hành trình truyền giáo đến những nơi xa. Tại Antiốt, họ đã đặt tay trên hai sứ đồ này rồi sai đi.

Đoạn 13, 14 mô tả về cuộc hành trình của Phaolô và Banaba. Sau khi họ đã đi được khoảng hai năm, Kinh Thánh chép:

"Từ nơi đó, hai người chạy buồm về Antiốt, là chỗ mình đã ra đi, được giao phó cho ân điển của Đức Chúa Trời, để làm công việc mình vừa mới làm xong. Hai người vừa đến nơi, nhóm họp Hội Thánh rồi, bèn thuật lại mọi việc Đức Chúa Trời đã cậy mình làm, và Ngài mở cửa đức tin cho người ngoại là thể nào. Hai người ở tại đó lâu ngày với các sứ đồ " (14:26-28).

Hội Thánh tại Giêrusalem luôn được xem là trung tâm ban đầu mà từ đó tin lành được rao ra. Nhưng ở đây Hội Thánh tại Antiốt đã bảo trợ cho công việc truyền giáo và trở thành một căn cứ cho các hoạt động truyền giáo.

Đúng ra là Phaolô, Banaba và các anh em khác có đến Giêrusalem, để dự hội nghị các sứ đồ và trưởng lão (Công-vụ 15). Hội nghị này được hình thành để đưa ra những giáo lý căn bản. Tuy nhiên bức tranh trong sách Công-vụ là một trong những thành phố và Hội Thánh tư gia địa phương tự trị quan tâm đến việc truyền giáo.

Ở Antiốt, năm chức vụ được vận hành dưới quyền làm đầu của Chúa Jesus Christ. Họ hoạt động trong quyền năng của Thánh Linh và bảo trợ cho công cuộc truyền giáo của họ.

4. Sự Nhận Thức Về Chức Vụ Ân Tứ

Mỗi Hội Thánh tư gia hoạt động dưới sự giám sát của các trưởng lão tại đó, nhưng tất cả mọi người đều nhận thức đầy đủ về các chức vụ ân tứ mà Đức Chúa Trời đã ban cho để lãnh đạo, hướng dẫn và thúc giục họ.

Trong sách Công-vụ, các chức vụ sứ đồ đã hoạt động trong nhiều năm từ một trung tâm. Chúng ta thấy Phaolô đã ở Antiốt "cả năm" trước khi các cuộc hành trình truyền giáo của ông được mô tả trong Công-vụ đoạn 13 và 14.

Từ cuộc hành trình truyền giáo trở về, ông đã ở lại Antiốt "lâu ngày với các môn đồ ".

Phaolô ở lại Côrintô 18 tháng (Công 18:11). Ông đã ở liên tục ba năm tại Êphêsô (20:17, 31).

Do đó chúng ta thấy chức vụ sứ đồ của Phaolô đã được sử dụng trong các Hội Thánh, tại những thành phố then chốt như là những trung tâm để thi hành chức vụ trong thời gian lâu dài như thế nào.

Tuy nhiên các Hội Thánh tại các thành phố và các Hội Thánh tư gia này là những căn cứ truyền giáo tự trị để truyền bá tin lành.

5. Khuôn Mẫu Cho Ngày Nay

Chắc chắn đây là khuôn mẫu mà Chúa đã dự định cho chúng ta noi theo. Chúng ta sẽ tiếp tục theo khuôn mẫu này trải qua các thế kỷ trong thời đại Hội Thánh, qua cả lịch sử của Hội Thánh trên đất.

Nguyện Đức Chúa Trời dấy lên nhiều Hội Thánh tư gia hơn nữa để tiếp tục chương trình truyền giáo và chinh phục linh hồn. Ý chỉ của Đức Chúa Trời là các Hội Thánh tư gia này sẽ sinh ra các Hội Thánh tư gia khác.

Bằng cách này, theo luật gia tăng cấp số, không những tin lành được loan ra mà các Hội Thánh tư gia cũng được hình thành như những gia đình thuộc linh cho những người đến với Đấng Christ.

B. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP GỢI Ý VỀ SỰ TRUYỀN GIÁO CHO THỜI ĐẠI CỦA CHÚNG TA

Ở đầu phần này, chúng tôi đã khái quát một chương trình gồm năm điểm để có sự phục hưng như sau:

* Một sự khao khát sâu xa

* Một chương trình xác định

* Đội Hiệp Một

* Những ý tưởng có kỷ luật

* Chức vụ giải cứu

Tất cả những điều này đều đã được xem xét ngoại trừ điểm thứ hai.

Chương trình được xác định, hoặc các phương pháp ra đi truyền giáo của mỗi Hội Thánh hoặc một nhóm các Hội Thánh, đều phải được tiến hành theo những điều kiện và hoàn cảnh của địa phương. Tuy nhiên đây là một vài phương tiện truyền giáo đề nghị. Ở nhiều nơi, các phương pháp này được xem là có hiệu quả và có lẽ là phù hợp với sự hướng dẫn của Thánh Linh.

1. Rao Giảng Tin Lành

Không gì có thể thay thế cho sự rao giảng được xức dầu về Lời Đức Chúa Trời. Đây là phương pháp do Đức Chúa Trời dùng để cứu rỗi con người. Theo tiêu đề này, chúng tôi muốn nói đến: Sự rao giảng trong nhà, trong các Hội Thánh, các hội trường, trong các trại truyền giáo cũng như ở ngoài trời (xem ICôr 1:21).

2. Các Chiến Dịch Bằng Sự Viếng Thăm Của Những Nhà Truyền Giáo.

Chức vụ được xức dầu của một nhà truyền giáo có thể gây một ảnh hưởng lớn. Truyền giáo là một phương pháp có trong Kinh Thánh để cứu người. Có những nhà truyền giáo được Đức Chúa Trời kêu gọi mà phẩm chất của họ được chứng minh và những người này đã được dùng để đem lại ích lợi lớn trong việc ra đi truyền giáo trong các Hội Thánh thành phố hoặc các Hội Thánh tư gia.

3. Các Phim Ảnh Cơ Đốc

Sự thành công của phim ảnh tùy thuộc rất nhiều vào các điều kiện khác nhau ở mỗi địa phương. Chúa có thể dùng một phim thích hợp cho một thời điểm thích hợp tại một nơi thích hợp. Phương pháp này nếu được sử dụng cách khôn ngoan, có thể đem những người mới đến các Hội Thánh tư gia và chinh phục họ bằng Tin lành.

4. Truyền Đạo Đơn

Việc in Lời của Đức Chúa Trời là một hình thức truyền giáo rất quan trọng. Nhiều tổ chức đã chứng tỏ được sức mạnh rất lớn của truyền đạo đơn.

Chúng ta phải cố trao truyền đạo đơn cho càng nhiều người càng tốt. Sử dụng phương pháp truyền giáo này là một cơ hội lớn cho các Hội Thánh địa phương.

5. Cá Nhân Chứng Đạo

Dường như có rất nhiều người được cứu qua phương pháp chứng đạo cá nhân. Một trong những cách làm chứng hữu hiệu nhất của Hội Thánh tư gia là chứng đạo cá nhân của những người đã kinh nghiệm được ân điển và quyền năng của Đức Chúa Trời trong đời sống của họ. Các tín đồ đều có thể thi hành chức vụ này trong công việc, trong những mối giao tiếp xã hội, ngay cả việc đi từ nhà này sang nhà khác để làm chứng.

6. Các Sinh Hoạt Thanh Niên

Theo báo cáo cho biết một điều khiếm khuyết trong tất cả các tội phạm tuổi thành niên là chúng không kinh nghiệm đời sống Cơ đốc sống động. Đây là môi trường lớn, là cơ hội để chinh phục những người trẻ, từ em bé nhỏ tuổi nhất đến những thiếu niên lớn nhất. Trong phương pháp truyền giáo này, các Hội Thánh tư gia có một cơ hội rất tốt.

7. Sự Quảng Bá

Đúng là phép lạ có thể làm bất cứ điều gì để quảng bá về tin lành. Vì vậy chúng ta có thể dùng các phương tiện truyền thông đại chúng cách có kết quả.

Sự quảng bá bằng báo chí thường được chứng tỏ là rất hiệu quả. Các tờ bướm và truyền đạo đơn có thể được sử dụng đem lại lợi ích lớn. Radio và TV là hai phương tiện có thể đem hàng ngàn người đến với tin lành.

Trong thế giới hiện đại này, Hội Thánh tại thành phố nên kiếm cách sử dụng tất cả các phương tiện hiện đại để đến với thế hệ hiện đại này. Tin lành luôn thỏa mãn tấm lòng của tất cả mọi người.

Chúng ta hãy tìm cách làm theo khuôn mẫu của Tân Ước. Chúng ta hãy chấp nhận sự thách thức của thời đại chúng ta. Chúng ta hãy dự định một "hoạt động truyền giáo". Chúng ta hãy chinh phục những người hư mất bằng bất cứ giá nào trước khi Đấng Christ trở lại. Chúng ta sẽ được khen thưởng bằng niềm vui mừng về sự hầu việc Chúa và nhận lấy mão triều thiên từ tay Ngài khi Ngài trở lại.

(GHI CHÚ: Để biết thêm về CÁCH CHINH PHỤC linh hồn xin xem phần E4).

E7.12 - Sự Kêu Gọi Của Mùa Gặt

"Song môn đồ nài nỉ một bên Ngài mà rằng: Thưa Thầy, xin hãy ăn.

Ngài đáp rằng: Ta có một thứ lương thực để nuôi mình mà các ngươi không biết.

Vậy môn đồ nói với nhau rằng: Có ai đã đem chi cho thầy ăn chăng?

Đức Chúa Jesus phán rằng: Đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài. Các ngươi há chẳng nói rằng còn bốn tháng nữa thì tới mùa gặt sao?

Song ta nói với các ngươi: Hãy nhướng mắt lên xem đồng ruộng đã vàng sẵn cho mùa gặt. Con gặt đã lãnh tiền công mình và thâu chứa hoa lợi cho sự sống đời đời, hầu cho người gieo giống và con gặt được cùng nhau vui vẻ " (Giăng 4:31-36).

A. THEO GƯƠNG MẪU CỦA CHỦ MÙA GẶT

Chúa Jesus luôn ý thức về mùa gặt và luôn sẵn sàng nắm lấy cơ hội. Trong suốt chức vụ của Ngài trên đất, Ngài luôn nói đến mùa gặt đã chín và nhu cầu cần phải có con gặt để làm việc trên cánh đồng. Ngài là Chúa của mùa gặt và Ngài kêu gọi những con gặt khác hãy cùng làm việc với Ngài trên cánh đồng.

Chúng ta hãy xem xét gương mẫu của Chủ mùa gặt để làm theo gương của Ngài. Bằng cách này, chúng ta có thể cùng Ngài chia xẻ sự vui mừng khi chúng ta trở về vui mừng, mang theo những bó lúa (Thi 126:6).

1. Thức Ăn Của Ông Chủ Phải Là Thức Ăn Của Chúng Ta.

Giăng đoạn 4 cho chúng ta bối cảnh của phân đoạn này. Trong câu 4, chúng ta thấy "Ngài phải đi ngang qua xứ Samari ".

Không những Chúa cần phải đi qua con đường này nhưng chúng ta tin rằng ông Chủ còn biết có một người cần được cứu. Kết quả của người này là cả một mùa gặt lớn phải được gặt hái.

Câu 6 cho chúng ta biết Ngài mỏi mệt và ngồi bên cái giếng. Sau đó có một người đàn bà Samari đến múc nước, và Chúa Jesus xin bà cho Ngài uống nước. Đây là điểm để Ngài tiếp xúc với bà và bắt đầu mở ra cuộc đối thoại dẫn đến một mùa gặt linh hồn người ở Samari.

Bạn hãy xem ông Chủ của mình, cứ làm việc dù chỉ có một mình.

Sau đó các môn đồ đã trở về với số thực phẩm đã mua ở thành phố. Họ dâng bánh cho Ngài, Họ biết Ngài rất mệt và đói. Trước sự ngạc nhiên của họ, Ngài đáp "Ta có một thứ lương thực để nuôi mình mà các ngươi không biết ".

Sự mệt mỏi của cơ thể và sự dày vò của cơn đói đã bị quên lãng khi cái đói sâu xa hơn của Ngài đã được thỏa mãn trong việc cứu một người khỏi nỗi bất hạnh, đau đớn và khỏi sự đoán phạt đời đời.

a. Làm Theo Ý Cha.

Không có gì ngạc nhiên khi Ngài nói "Đồ ăn của ta là làm theo ý muốn của Đấng đã sai ta và làm trọn công việc Ngài ". Đây là loại thức ăn có dinh dưỡng hơn, ngon lành hơn bất cứ thứ cao lương mỹ vị nào môn đồ đã mua cho Ngài.

Với sự nhiệt tình nóng cháy, Ngài đã làm chứng cho một người. Ngài đã tốn biết bao thì giờ trong việc chứng đạo cá nhân này. Đó là thức ăn của Ngài - tức là làm theo ý muốn của Cha.

Thưa các bạn, Ngài đã dạy chúng ta rằng thức ăn của sự truyền giáo, chinh phục linh hồn tội nhân được Ngài ao ước hơn thức ăn tự nhiên, sự nghỉ ngơi và an nhàn của cuộc sống. Ngài hoàn toàn dâng mình để làm theo ý muốn của Cha. Ngài được sai đến để tìm và cứu những người bị hư mất.

Không có "ăn từ từ" trong bữa ăn này. Có lẽ một số người trong chúng ta thích "ăn từ từ" ý chỉ của Đức Chúa Trời thôi, trong khi sự ngon miệng của Chúa Jesus là làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời: "Thức ăn của ta là làm theo ý muốn của Đấng đã sai ta và LÀM TRỌN CÔNG VIỆC NGÀI ". Nguyện chúng ta cũng biết tận hiến cuộc đời mình cho sự kêu gọi của Đức Chúa Trời để chúng ta chẳng bao giờ bị lệch lạc cho đến khi công việc đã được hoàn tất và ý chỉ của Đức Chúa Trời được làm xong.

Vâng, thưa các bạn, thức ăn của Chúa phải là thức ăn của chúng ta.

2. Thời Điểm Của Chủ Mùa Gặt Là Thời Điểm Của Chúng Ta

Đức Chúa Jesus luôn ý thức về sự thúc bách của thì giờ "Các ngươi há chẳng nói rằng còn bốn tháng nữa thì tới mùa gặt sao? Song ta nói với các ngươi: Hãy nhướng mắt lên và xem đồng ruộng đã vàng sẵn cho mùa gặt ".

Từ khi gieo hạt cho đến ngày thu hoạch là bốn tháng, nhưng mùa gặt linh hồn tội nhân thì không phải như vậy. Dường như việc gieo và gặt là đồng thời với nhau.

Hạt giống vừa mới được gieo trong lòng của người đàn bà Samari, thì mùa gặt đã sẵn sàng. Hãy nhướng mắt nhìn lên và xem đám đông người Samari đang đổ ra phố: "Có nhiều người Samari ở thành đó tin Ngài vì cớ lời người đàn bà đã làm chứng về Ngài " (câu 39).

Một tội nhân được cứu, một con người được cứu đang làm chứng - và nhiều người đã đến tìm kiếm Chúa. Đây là kiểu mẫu xảy ra khi hoàn toàn vâng theo ý chỉ của Đức Chúa Trời.

Trong Công-vụ đoạn 8, nhà truyền giáo Philíp đã tiếp tục gặt vụ mùa ở Samari. Ngay cả sau khi Chúa về trời, những ảnh hưởng về lời làm chứng của người đàn bà đó vẫn còn hiệu quả.

Nơi mà Chủ mùa gặt đã gieo hạt giống và gặt thì bây giờ Philíp còn gặt hái nhiều hơn:

"Đoàn dân nghe người giảng và thấy các phép lạ người làm, thì đồng lòng lắng tai nghe người nói, vì có những tà mà kêu lớn lên mà ra khỏi nhiều kẻ bị ám, cùng kẻ bại và què được chữa lành cũng nhiều. Tại cớ đó trong thành được vui mừng khôn xiết " Công 8:6-8).

a. Thời Gian Có Hạn.

Mùa gặt là một thời gian nhất định. Đó là cơ hội có hạn là thời điểm cần phải nhận thức, và là giai đoạn không được bỏ qua.

Trải suốt thời đại này có nhiều vụ mùa, có nhiều thời kỳ được gặt hái bằng lưỡi liềm tin lành.

Tuy nhiên Chúa phán với chúng ta rằng có một mùa gặt lớn vào ngày tận thế: "... Mùa gặt là ngày tận thế " (Mat 13:39).

Chúng ta đang sống trong thời đại "Mùa gặt của tất cả các mùa gặt". Chúng ta đang sống ở thời đại cuối cùng. Đó là một thời kỳ được định - bị giới hạn và là cơ hội của tất cả mọi cơ hội.

"Tôi nhìn xem, thấy một đám mây trắng, có kẻ giống như một Con người ngồi trên mây, đầu đội mão triều thiên vàng, tay cầm lưỡi liềm bén.

Có một thiên sứ khác ở đền thờ đi ra, cất tiếng lớn kêu Đấng ngồi trên mây rằng: Hãy quăng lưỡi liềm xuống và gặt đi, vì giờ gặt hái đã đến rồi, mùa màng dưới đất đã chín rồi. Đấng ngồi trên ngôi bèn quăng lưỡi liềm mình xuống đất, và dưới đất đều bị gặt " (Khải 14:14-16).

Đấng Christ là Chủ mùa gặt. Thời gian của Chủ là thời gian của chúng ta!

3. Phương Pháp Của Chủ Là Phương Pháp Của Chúng Ta

Trong Mat 9:36-38, Chúa Jesus nói đến mùa gặt trong thời đại của Ngài. Ngài khuyến khích chúng ta: "Hãy cầu xin Chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa mình ".

Nhưng trong câu 35 chỉ cho chúng ta biết phương pháp mà Chủ mùa gặt đã dùng trong thời đại của Ngài: "Đức Chúa Jesus đi khắp các làng, các thành, dạy dỗ trong các nhà hội, giảng tin lành về Vương quốc của Đức Chúa Trời và chữa lành các thứ tật bệnh ".

Dường như những lời này đã nói tóm gọn về chức vụ của Chúa Jesus. Ngài rao giảng hoặc công bố tin lành cho mọi người. Ngài dùng Lời của Đức Chúa Trời để dạy dỗ dân chúng. Và Ngài đem sự chữa lành đến cho người bệnh, sự giải cứu cho kẻ bị xiềng xích khắp mọi nơi.

Đây cũng chính là phương pháp trong thời kỳ gặt hái của thời đại chúng ta: Rao giảng tin lành, dạy dỗ Lời Đức Chúa Trời, đem sự chữa lành và giải cứu đến với dân chúng.

a. Các Dấu Kỳ Và Phép Lạ Làm Cho Vững Đạo.

Chỉ dạy về sự chữa lành không thôi thì chưa đủ, chỉ có đức tin bằng giáo lý thôi cũng chưa đủ. Phải có sự chữa lành và giải cứu thật sự bằng quyền năng của Đức Chúa Trời để tạo điều kiện cho chúng ta có thể gặt hái vụ mùa trong thời đại của mình.

Tin lành phải được khẳng định bằng các dấu kỳ và phép lạ. Dân chúng không chỉ cần nghe tin lành, họ còn cần quyền năng của Đức Chúa Trời để giải cứu họ.

Đây là những phương pháp mà Chủ mùa gặt đã dùng và đây cũng là những phương pháp của chúng ta. Đức Chúa Trời không hề thay đổi. Đấng Christ không thay đổi, bản chất con người không thay đổi và quyền năng của Đức Chúa Trời vẫn có sẵn để giải phóng con người.

Những phương pháp này được mọi thế hệ, mọi nền văn minh và mọi người chấp nhận. Khi chúng ta đi ra để gặt hái mùa gặt của thời đại chúng ta, chúng ta hãy lấy phương pháp của Chủ làm phương pháp của chúng ta.

4. Động Cơ Của Chủ Là Động Cơ Của Chúng Ta

Có nhiều động cơ khác nhau khi đưa người ta bước vào sự hầu việc Chúa, nhưng chúng ta không nên xét đoán điều này. Tuy nhiên động cơ của chúng ta phải giống như động cơ của Chủ mùa gặt.

Điều gì đã thúc đẩy Ngài phải tìm và cứu kẻ bị mất để đem sự chữa lành đến cho người bệnh? Chúng ta tìm thấy câu trả lời trong 9:36

"Khi Ngài thấy những đám dân đông thì động lòng thương xót, vì họ cùng khốn và tan lạc như chiên không có người chăn ".

Sự thương xót là động cơ trong chức vụ của Chúa Jesus. Khi Ngài nhướng mắt lên và thấy đoàn dân đông, Ngài như thấy một cánh đồng lúa đã chín. Một sự khuấy động nổi lên sâu thẳm trong lòng và Ngài đã động lòng thương xót họ.

a. Sự Thương Xót Đẩy Chúng Ta Đến Chỗ Hành Động.

Sự thương xót không phải là sự thông cảm. Chúng ta có thể thông cảm với ai đó nhưng không làm gì để giúp họ cả.

Sự thương xót không phải là sự đa cảm. Nhiều người có cảm động vì những nhu cầu của người khác nhưng cũng không làm gì để đáp ứng những nhu cầu đó cả.

Sự thương xót luôn dẫn đến hành động.

Khi Chúa Jesus động lòng thương xót đoàn dân, lập tức Ngài đã sai con gặt vào mùa gặt và giúp đỡ cho những nhu cầu của đoàn dân đông.

Chúng ta hãy xem những trường hợp sau để thấy Chúa đã động lòng thương xót đoàn dân và lập tức hành động để đáp ứng những nhu cầu của họ:

"Ngài. .. thấy đoàn dân đông đúc, động lòng thương xót, mà chữa cho kẻ bịnh được lành " (14:14).

"Đức Chúa Jesus động lòng thương xót, giơ tay rờ người mà phán rằng: Ta khứng, hãy sạch đi " (Mác 1:41).

"Bấy giờ Đức Chúa Jesus. .. thấy đoàn dân đông lắm thì động lòng thương xót đến, vì họ như chiên không có người chăn, Ngài bèn khởi sự dạy dỗ họ nhiều điều " (6:34).

"Chúa thấy, động lòng thương xót người, mà phán rằng: Đừng khóc " (Lu 7:13-15).

Những câu này và nhiều câu Kinh Thánh khác cho thấy sự thương xót thì cao hơn sự thông cảm nhiều. Sự thương xót đẩy chúng ta đến hành động. Sự thương xót đưa chúng ta đến sự cầu nguyện và làm chứng. Sự thương xót đem chúng ta đến sự nghiên cứu và tự chuẩn bị mình để phục vụ năng động hơn.

Khi sự thương xót hành động trong chức vụ của chúng ta, đừng chỉ bằng lòng với điều đó cho đến khi có nhiều người được đưa đến với Đấng Christ, những người bệnh được chữa lành, dân chúng được phước hạnh bằng sự trọn vẹn của tin lành. Nếu chúng ta làm theo gương của Chủ Mùa gặt thì động cơ của Chủ là động cơ của chúng ta.

5. Phần Thưởng Của Chủ Là Phần Thưởng Của Chúng Ta

Phần thưởng là vật trả công, Chúa Jesus phán rằng: "Con gặt đã lãnh tiền công mình và thâu chứa hoa lợi cho sự sống đời đời " (Giăng 4:36).

Có một phần thưởng dành cho những người hầu việc trung tín, đó là mão miện dành cho người lao nhọc xứng đáng.

Sứ đồ Phaolô đã viết: "Vì sự trông cậy, vui mừng và mão triều thiên vinh hiển của chúng ta là gì, há chẳng phải là anh em cũng được đứng trước mặt Đức Chúa Jesus chúng ta trong khi Ngài đến sao? Phải anh em thật là sự vinh hiển và vui mừng của chúng tôi vậy " (ITê 2:19, 20).

Sự vui mừng trong sự hiện diện của Chúa đến khi các bó lúa được thâu góp lại khi mùa gặt đã hoàn thành là bao!

a. "Hoa Lợi Cho Sự Sống Đời Đời".

Không những chúng ta chỉ có phần thưởng trong tương lai mà còn có phần thưởng trong hiện tại. Những ai gặt hái mùa gặt đều đã thâu "hoa lợi cho sự sống đời đời ".

Khi một người được cứu, điều đó có ý nghĩa hơn "một quyết định khác" hoặc "một sự tiếp xúc khác" hoặc "một thành viên mới". Khi một người được cứu nghĩa là đã có một người được sinh ra trong sự sống đời đời.

Khi chúng ta bước vào đồng lúa đã chín vàng để rao giảng tin lành của Đấng Christ, chúng ta đang thâu "hoa lợi cho sự sống đời đời ".

Sau đó khi Chủ Mùa gặt hiện ra, kẻ gieo, người gặt đều sẽ được lãnh tiền công của mình.

Sứ điệp tin lành cuối cùng sẽ được rao giảng, lời chứng cá nhân cuối cùng sẽ được đảm nhiệm, sự tiếp xúc cuối cùng sẽ được thực hiện, những bó lúa cuối cùng sẽ được thâu góp.

Chúng ta hãy chia xẻ khải tượng cùng với Chủ Mùa gặt. Chúng ta hãy theo bước chân của Ngài. Chúng ta hãy tham gia vào "sự ra đi năng động" này để gặt hái mùa gặt trước khi Đấng Christ trở lại và thời đại này kết thúc. AMEN!