Back to Top
Cover of 33 - NỀN TẢNG CỦA HỘI THÁNH - PHẦN E1
Category: Cây Gậy Của Người Chăn Bầy
Library: Định dạng văn bản

Review

Written by Nguyễn Thiên Ý

MỤC LỤC

  1. PHẦN E1 - BA PHẨN CỦA HỘI THÁNH
      1. (MỖI TÍN HỮU MỘT CHỨC VỤ)
  2. PHẦN I: NỀN TẢNG CỦA HỘI THÁNH
  3. E1.1 Chương 1: KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC MẶC KHẢI: SỰ SÁNG TẠO
  4. Phần Dẫn Nhập
    1. A. ĐỨC CHÚA TRỜI MUỐN CÓ MỘT GIA ĐÌNH
      1. 1. Con Cái Của Ngài.
      2. 2. Hội Hiệp Lại Với Nhau.
      3. 3. Một Thân Thể.
      4. 4. Một Dân Tộc.
    2. B. ĐỨC CHÚA TRỜI MẶC KHẢI MỤC ĐÍCH CỦA NGÀI.
      1. 1. Sự Mặc Khải: Không Nằm Trong Phạm Trù Của Khoa Học Và Triết Học.
      2. 2. Sự Mặc Khải: Từ Đức Thánh Linh.
    3. C. CHÚNG TA DỰ PHẦN TRONG GIA ĐÌNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.
      1. 1. Nhiều Con Trai Và Con Gái.
      2. 2. Gia Đình Đầu Tiên
  5. E1.2 Chương 2: KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI BỊ PHÁ HỎNG: SỰ PHẢN LOẠN
    1. A. CON NGƯỜI: ĐƯỢC DỰNG NÊN THEO HÌNH ẢNH ĐỨC CHÚA TRỜI
      1. 1. Được Tự Do Lựa Chọn.
      2. 2. Được Tạo Nên Để Thờ Phượng.
    2. B. SATAN: CÓ SỰ GIAN ÁC TRONG LÒNG.
      1. 1. Thực Hiện Qua Con Người.
      2. 2. Được Tạo Dựng Với Ý Chí Tự Do.
      3. 3. Bị Mù Quáng Bởi Sự Kiêu Ngạo.
      4. 4. Nghi Ngờ Và Bất Tuân.
      5. 5. Đức Chúa Trời Biết Mọi Sự.
      6. 6. Bị Đuổi Khỏi Thiên Đàng.
      7. 7. Lừa Dối Êva.
        1. a. Dây Xích Gian Ác Được Rèn Nên.
    3. C. CON NGƯỜI: BẤT TUÂN VÀ ĐÁNH MẤT HẾT MỌI SỰ.
  6.  
  7. E1.3 Chương 3: KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC KHÔI PHỤC: SỰ CỨU CHUỘC
    1. A. TẤT CẢ CHÚNG TA CẦN ĐƯỢC CỨU
      1. 1. Tội Nhân Theo Bản Chất.
      2. 2. Tội Nhân Bởi Việc Làm.
      3. 3. Sự Chết: Án Phạt Của Tội Lỗi.
      4. 4. Ân Điển: Món Quà Của Đức Chúa Trời.
      5. 5. Sự Cứu Chuộc: Ân Điển Đức Chúa Trời Được Tỏ Ra.
      6. 6. Sự Khôi Phục: Kết Quả Của Sự Cứu Chuộc.
      7. 7. Tiếp Nhận Món Quà Của Đức Chúa Trời.
    2. B. HAI PHƯƠNG DIỆN CỦA SỰ CỨU CHUỘC.
      1. 1. Phần Của Đức Chúa Trời Trong Sự Cứu Chuộc Chúng Ta.
      2. 2. Phần Của Chúng Ta Trong Sự Cứu Chuộc.
    3. C. KẾT QUẢ CỦA SỰ CỨU CHUỘC.
      1. 1. Một Tâm Linh Mới.
      2. 2. Một Đời Sống Mới.
      3. 3. Một Tên Mới.
      4. 4. Một Bản Tánh Mới.
      5. 5. Một Tấm lòng Mới.
      6. 6. Một Tâm Trí Mới.
      7. 7. Một Uy Quyền Mới.
      8. 8. Một Gia Đình Mới.
      9. 9. Một Số phận Mới.
    4. D. MỘT MÔ HÌNH BA ĐIỂM.
      1. 1. Đức Chúa Trời hành động.
      2. 2. Satan phản ứng và sau đó
      3. 3. Đức Chúa Trời chống trả mạnh mẽ.
    5. E. ĐỊNH NGHĨA VỀ CÁC THUẬT NGỮ.
      1. 1. Sự Cứu Chuộc.
      2. 2. Sự Khôi Phục.
      3. 3. Sự Tái Sinh.
      4. 4. Sự Tái Tạo
      5. 5. Phục Hồi.
      6. 6. Sự Phục Hòa.
    6. F. NHỮNG KHÁI NIỆM QUAN TRỌNG VỀ SỰ CỨU CHUỘC.
      1. 1. Sự Cứu Chuộc.
        1. a. Được cứu "khỏi "
        2. b. Được cứu "vì "
      2. 2. Sự Tái Sinh.
      3. 3. Sự Chuộc Tội.
      4. 4. Sự Công Bình.
      5. 5. Sự Xưng Nghĩa.
  8. E1.4 Chương 4: SỰ CỨU RỖI VĨ ĐẠI CỦA CHÚNG TA
    1. Dẫn Nhập
    2. A. TÌNH TRẠNG CỦA TỘI LỖI.
      1. 1. Bởi Một Người Mà Tội Lỗi Đã Vào Thế Gian.
      2. 2. Trong Ađam Tất Cả Mọi Người Đều Đã Phạm Tội Và Phải Chết.
        1. a. Một Ví Dụ Về Bản Chất.
        2. b. Trong Thân Thể Ađam.
      3. 3. Tội Nhân Trong Bản Chất.
    3. B. HÌNH PHẠT DÀNH CHO TỘI LỖI.
      1. 1. Đứng Ở Chỗ Chết.
    4. C. SỰ DỰ PHÒNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI DÀNH CHO TỘI NHÂN.
      1. 1. Sự Sống Đời Đời: Món Quà Về Tình Yêu Của Đức Chúa Trời.
        1. a. Định Nghĩa Về món Quà.
        2. b. Đức Chúa Trời Biếu.
        3. c. Sự Cứu Rỗi: Món Quà Được Ban Cho Nhưng Không.
        4. d. Món Quà Phải Được Nhận.
    5. D. TẤM LÒNG NHƯ NGƯỜI CHA CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
      1. 1. Ápraham và Ysác: Bức Tranh Tiên Tri Về Tình Yêu Cứu Chuộc.
        1. a. Ysác, Đứa Con Của Sự Vâng Lời.
        2. b. Cả Hai Cha Con.
      2. 2. Hai Ngàn Năm Sau: Một Câu Chuyện Tương Tự.
        1. a. Chúa Jesus, Người Con Yêu Dấu.
        2. b. Họ "Đồng Đi".
        3. c. "Ta Sẽ Chết Thay Cho Họ".
    6. E. HÔM NAY LÀ NGÀY CỨU RỖI.
      1. 1. Lời Cầu Nguyện Cho Sự Cứu Rỗi
    7. F. KẾT LUẬN.
  9. PHẦN II: NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO HỘI THÁNH
  10. E1.5 Chương 5: TÂM TÁNH CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO: BÔNG TRÁI THÁNH LINH
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. BẢN TÁNH CỦA ĐẤNG CHRIST: BÔNG TRÁI CỦA THÁNH LINH
      1. 1. Những phước hạnh hướng nội
      2. 2. Những phước hạnh hướng ngoại
      3. 3. Những phước hạnh hướng thượng
    3. B. NHỮNG BÍ QUYẾT DẪN ĐẾN ĐỜI SỐNG CÓ KẾT QUẢ.
      1. 1. Bản Thể Trái Ngược Với Cảm Xúc.
      2. 2. Sự Khó Khăn Đem Đến Những Trái Tốt Nhất.
        1. a. Cái "Giằm Xóc" Của Phaolô.
  11.  
  12. E1.6 Chương 6: QUYỀN NĂNG CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO (PHẦN I): BÁP TÊM TRONG THÁNH LINH
    1. A. CHÚA JESUS: ĐẤNG LÀM BÁP TÊM TRONG ĐỨC THÁNH LINH
    2. B. MÔ HÌNH BA ĐIỂM CHO ĐỜI SỐNG THUỘC LINH VÀ QUYỀN NĂNG THÁNH LINH.
      1. 1. ĂN NĂN (Bài Giảng Tóm Lược Về Sự Ăn Năn)
        1. a. Hãy Xây Bỏ Tội Lỗi Và Đầu Phục Đức Chúa Trời.
        2. b. Tin Chúa Jesus là Chúa.
        3. c. Linh Sự Sống Của Ngài Sẽ Ngự Vào.
        4. d. Bạn Được Sanh Lại Vào Trong Nhà Của Đức Chúa Trời.
        5. e. Được Báptêm Trong Thân Thể Của Đấng Christ.
        6. f. Thánh Linh Của Ngài Sẽ Kết Quả Trong Chúng Ta.
      2. 2. ĐƯỢC BÁPTEM (Bài Giảng Tóm Lược Về Báptêm Bằng Nước)
        1. a. Báptêm Bằng Nước.
        2. b. Làm Báptem Trong Đức Tin Và Trong Sự Vâng Lời.
        3. c. Làm Báptem Như Lời Làm Chứng Về Đức Tin Của Anh Em.
        4. d. Khi Được Báptêm, Bạn Nhận Lãnh Sự Thanh Tẩy Tội Lỗi.
        5. e. Tiếp Nhận Phép Báptêm Như Sự Phục Sinh Cho Đời Sống Mới.
        6. f. Báptem Bằng Nước Trước Báptem Bằng Thánh Linh.
      3. 3. TIẾP NHẬN (Bài Giảng Tóm Lược Về Việc Tiếp Nhận Thánh Linh)
        1. a. Tiếp Nhận Lời Hứa Của Cha.
        2. b. Hãy Đầy Dẫy Thánh Linh.
        3. c. Được Chúa Giêxu Làm Báptêm Trong Thánh Linh
        4. d. Nhận Lấy Quyền Phép Của Thánh Linh Đức Chúa Trời.
        5. e. Làm Chứng Cho Thế Gian.
        6. f. Được Dư Dật Trong Các Ân Tứ Thuộc Linh.
    3. C. PHÉP BÁPTEM TAM DIỆN
      1. 1. Ba Điều Chung
        1. a. Đối Tượng.
        2. b. Người Làm Báptêm.
        3. c. Môi Trường.
      2. 2. Báptêm Tam Diện Và Sự Cứu Rỗi
        1. a. SỰ ĂN NĂN (Báptêm Vào Trong Thân Thể Của Đấng Christ).
        2. b. ĐƯỢC BÁPTÊM (Báptêm Bằng Nước).
        3. c. NHẬN (Báptêm Bằng Thánh Linh).
      3. 3. Mô Hình Ba Điểm Trong Sách Công Vụ.
        1. a. Philíp ở Samari.
        2. b. Phaolô ở Êphêsô.
      4. 4. Mục Đích Thiên Thượng Của Đức Chúa Trời
    4. D. CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN QUYỀN NĂNG VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI.
      1. 1. Món Quà Đức Chúa Cha Hứa Ban.
        1. a. Lời Hứa Có Tính Cá Nhân.
        2. b. Những Lời Kinh Thánh.
        3. c. Một Câu Hỏi Riêng.
      2. 2. Cầu Xin Trong Sự Hạ Mình.
        1. a. Lời Hứa Có Tính Cá Nhân.
        2. b. Những Lời Kinh Thánh.
        3. c. Lời Cầu Nguyện Cá Nhân.
      3. 3. Nhận Lãnh Trong Đức Tin.
        1. a. Lời Hứa Có Tính Cách Cá Nhân.
        2. b. Lời Kinh Thánh.
        3. c. Lời cầu nguyện.
      4. 4. Bày Tỏ Sự Ngợi Khen.
        1. a. Lời hứa có tính cách cá nhân.
        2. b. Lời Kinh Thánh.
        3. c. Lời Cầu Nguyện.
        4. d. Sự Đáp Ứng Cá Nhân.
  13. E1.7 Chương 7: QUYỀN NĂNG CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO (PHẦN II): CÁC ÂN TỨ THÁNH LINH
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. NHỮNG ÂN TỨ THÁNH LINH: MỤC ĐÍCH / QUYỀN NĂNG CỦA CÁC ÂN TỨ ĐÓ.
      1. 1. Đức Chúa Trời Ban Cho Ân Tứ.
      2. 2. Sự Nguy Hiểm: Quyền Năng Không Có Phẩm Hạnh.
      3. 3. Nhiều Ân Tứ.
    3. B. KHÁI QUÁT VỀ CÁC ÂN TỨ THUỘC LINH.
      1. 1. Các Ân Tứ Mặc Khải (Tư Tưởng).
        1. a. Lời Tri Thức.
        2. b. Lời Khôn Ngoan.
        3. c. Phân Biệt Các Linh.
      2. 2. Những Ân Tứ Về Ngôn Ngữ (Lời Nói).
        1. a. Ơn Tiên Tri.
        2. b. Nói Tiếng Lạ.
        3. c. Thông Giải Tiếng Lạ.
      3. 3. Những Ân Tứ Về Quyền Năng (Hành Động).
        1. a. Đức Tin.
        2. b. Ân Tứ Chữa Bệnh.
        3. c. Phép Lạ.
    4. C. KẾT LUẬN.
  14. E1.8 Chương 8: SỰ KÊU GỌI CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO: CHỨC VỤ ÂN TỨ
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. NGƯỜI HẦU VIỆC CHÚA: QUYỀN NĂNG VÀ UY QUYỀN THUỘC LINH CỦA NGƯỜI ĐÓ
      1. 1. Chúa Jesus: Là Đầu Của Hội Thánh.
      2. 2. Mặc Lấy Quyền Phép Từ Trên Cao.
      3. 3. Dưới Uy Quyền
    3. B. LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÁM KHÁ VÀ PHÁT TRIỂN CHỨC VỤ.
      1. 1. Được Đức Chúa Trời Kêu Gọi.
      2. 2. Hội Thánh Địa Phương.
      3. 3. Những Công Việc Ưu Tiên Hàng Đầu Của Người Lãnh Đạo.
    4. C. NĂM CHỨC VỤ ÂN TỨ CƠ BẢN.
      1. 1. Sứ Đồ
      2. 2. Tiên Tri
      3. 3. Nhà Truyền Giảng Phúc Âm
      4. 4. Mục Sư
      5. 5. Giáo Sư
    5. D. ÂN TỨ LÃNH ĐẠO ĐƯỢC BAN CHO ĐỂ HUẤN LUYỆN VÀ TRANG BỊ CHO TÍN ĐỒ.
      1. 1. Các Tín Hữu Phải Học Tập...
      2. 2. Dạy Họ Làm Thế Nào
      3. 3. Mỗi Chi Thể là Một Người Hầu Việc Chúa.
    6. E. PHAOLÔ LIỆT KÊ NHỮNG CHỨC VỤ KHÁC.
      1. 1. Phục Vụ Và Giúp Đỡ
      2. 2. Khuyên Bảo
      3. 3. Dâng Hiến
      4. 4. Quản Trị
      5. 5. Thương Xót
      6. 6. Các Phép Lạ Và Sự Chữa lành
    7. F. NHIỀU CHỨC VỤ KHÁC TRONG THÂN THỂ CỦA ĐẤNG CHRIST.
      1. 1. Cầu Thay
      2. 2. Tiếp Đãi Khách
      3. 3. Thăm Viếng
      4. 4. Những Quan Tâm Về Xã Hội
      5. 5. Văn Chương
      6. 6. Phương Tiện Truyền Thông Đại Chúng Hiện Đại
      7. 7. Nghệ Thuật Âm nhạc
      8. 8. Sự Giảng Hòa
    8. G. NHỮNG Ý KIẾN CUỐI CÙNG VỀ CHỨC VỤ CÁC NHÂN.
  15. PHẦN III: NHỮNG CHỨC VỤ CỦA CÁC TÍN HỮU TRONG HỘI THÁNH
  16. E1.9 Chương 9: CHỨC VỤ ĐỐI VỚI CHÚA: THỜ PHƯỢNG
    1. A. MỖI TÍN ĐỒ LÀ MỘT THẦY TẾ LỄ.
    2. B. CHỨC VỤ CỦA CHÚNG TA TRONG SỰ THỜ PHƯỢNG.
    3. C. NHỮNG NGƯỜI THỜ PHƯỢNG SAU ĐÓ LÀ NHỮNG NGƯỜI HẦU VIỆC.
      1. 1. Hội Thánh ở Antiốt
      2. 2. Không Có Sự Thờ Phượng, Không Có Mưa!
    4. D. SỰ THỜ PHƯỢNG TRONG TÂM THẦN VÀ LẼ THẬT.
      1. 1. Hai Phần Thiết Yếu
      2. 2. Phần Của Đức Chúa Trời Trong Sự Thờ Phượng.
        1. a. Bài Hát ngợi Khen Của Chúa Jesus.
        2. b. Được Đầy Dẫy Thánh Linh.
      3. 3. Phần Của Con Người Trong Sự Thờ Phượng.
        1. a. Các Luật Lệ Của Đền Tạm.
        2. b. Sự Chuẩn Bị Của Chúng Ta Ở Trong Chúa Jesus Christ. Chúng ta cũng phải:
        3. c. Kinh Thánh Tuyên Bố.
        4. d. Chúa Jesus Christ: Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm Của Chúng Ta.
    5. E. TÓM TẮT
      1. 1. Phần Của Đức Chúa Trời
      2. 2. Phần Của Chúng Ta
  17. E1.10 Chương 10: CHỨC VỤ ĐỐI VỚI NHAU: PHỤC VỤ
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. CÁCH THỨC GIÚP ĐỠ VỀ TÌNH CẢM.
      1. 1. Koinonia
      2. 2. Koinonia Đáp Ứng Những Nhu Cầu Về Tình Cảm.
      3. 3. Vai Trò Căn Bản Của Những Hội Thánh Tư Gia.
        1. a. Giúp Đỡ Thực Tế.
        2. b. Quan Hệ Cá Nhân.
    3. B. CÁCH THỨC GIÚP ĐỠ VỀ TÀI CHÁNH
      1. 1. Trong Hội Thánh Đầu Tiên
        1. a. Những Nguyên Tắc Được Khám Phá.
        2. b. Chính Sách Về Tài Chánh.
        3. c. Mối Quan Hệ: Bí Quyết Để Sự Giúp Đỡ Được Thành Công.
    4. C. CÁCH THỨC GIÚP ĐỠ THUỘC LINH.
      1. 1. Hội Thánh Tư Gia: Nơi Tốt Nhất Để Tăng Trưởng.
      2. 2. Hội Thánh Tư Gia: Nơi Tốt Nhất Để Học Tập
        1. a. Học Sử Dụng Các Ân Tứ Thuộc Linh.
      3. 3. Huấn Luyện Trong Những Buổi Nhóm Lớn
        1. a. Hình Thành Những Vòng Tròn Cầu Nguyện.
        2. b. Những Nguyên Tắc Của Vòng Tròn Cầu Nguyện.
        3. c. Hội Thánh Đầu Tiên.
    5. D. THỰC TẬP CÁC NGUYÊN TẮC
      1. 1. Phải Thực Hiện Cẩn Thận Và Từ Từ.
        1. a. Tài Liệu Huấn Luyện Tín Đồ Mới.
        2. b. Chiến Sĩ Cầu Nguyện.
        3. c. Báptêm Và Các Ân Tứ Thánh Linh.
      2. 2. Phải Thực Hiện Từ Một Tấm Lòng Sẵn Sàng.
      3. 3. Mọi Người Phải Cùng Làm Chung Với Nhau.
    6. E. KẾT LUẬN.
      1. 1. Mỗi Tín Hữu Là Một Thầy Tế Lễ.
      2. 2. Mỗi Tín Hữu Có Một Chức Vụ.
      3. 3. Những Buổi Nhóm Nhỏ Rất Quan Trọng
      4. 4. Những Người Lãnh Đạo Phải Cung Cấp
  18. E1.11 Chương 11: CHỨC VỤ ĐỐI VỚI THẾ GIAN: LÀM CHỨNG
    1. Phần Dẫn Nhập
    2. A. SỰ GIẢNG HÒA: KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI / SỰ TRUYỀN GIÁO CỦA CHÚNG TA.
      1. 1. Con Người Với Sứ Mạng.
        1. a. Êtiên - Người Tử Vì Đạo.
        2. b. Saulơ - Một Người Bắt Bớ.
      2. 2. Sứ Mạng Với Thế Giới.
        1. a. Tất Cả Mọi Người Phải Được Nghe.
        2. b. Mục Tiêu Truyền Giáo.
        3. c. Đầu Tư Vào Truyền Giáo.
        4. d. Hãy Đi Đến Mọi Nước Trên Thế Giới.
        5. e. Chúng Ta Nên Làm Gì.


PHẦN E1 - BA PHẨN CỦA HỘI THÁNH

(MỖI TÍN HỮU MỘT CHỨC VỤ)

CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY DÀNH CHO MỤC SƯ

(Tác giả: Tiến sĩ Robert Frost và Ralph Mahoney)

PHẦN I: NỀN TẢNG CỦA HỘI THÁNH

E1.1 Chương 1: KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC MẶC KHẢI:
SỰ SÁNG TẠO

Phần Dẫn Nhập

Cách đây vài năm, một nhóm các nhà lãnh đạo Hội Thánh biệt riêng nhiều ngày để cầu nguyện và thảo luận. Họ gặp nhau để giải đáp câu hỏi này: "Một nhân sự cần có sự hiểu biết tối thiểu bắt buộc như thế nào về Kinh Thánh để có thể thành công trong việc chinh phục linh hồn (truyền giáo), gieo trồng Hội Thánh và chức vụ Mục sư?".

Bảng mục lục ở trên là câu trả lời cho câu hỏi đó. Có chín điều cần thiết. Đây là những quan điểm Kinh Thánh tối thiểu cần phải có để thi hành chức vụ. Chúng tôi nêu những vấn đề đó để bạn xem xét và cầu nguyện.

A. ĐỨC CHÚA TRỜI MUỐN CÓ MỘT GIA ĐÌNH

Đức Chúa Cha muốn có một gia đình có những đứa con trai, con gái giống như Ngài để quản trị công cuộc sáng tạo của Ngài.

Đường lối mà Đức Chúa Trời dự định tạo nên gia đình này là một sự mầu nhiệm thiên thượng (một bí mật) mà chính Ngài đã mặc khải cho sứ đồ Phaolô.

Phaolô đã nói về sự mặc khải kỳ diệu này trong bức thư ông gởi cho Hội Thánh tại Êphêsô. Đây là những gì mà Đức Chúa Trời dự định cho chúng ta.

1. Con Cái Của Ngài.

"Trước khi sáng thế, Đức Chúa Trời đã chọn chúng ta làm con của Ngài trong Đức Chúa Jêsus Christ. .."

2. Hội Hiệp Lại Với Nhau.

"Ngài có ý định hội hiệp mọi vật trên trời, dưới đất dưới quyền năng của Ngài"

3. Một Thân Thể.

Đức Chúa Trời dự định làm điều này bằng cách làm cho Đấng Christ "... trở nên đầu của Hội Thánh, là thân thể của Ngài (Đấng Christ)".

4. Một Dân Tộc.

"Trong thân thể đó, cả người Do Thái lẫn người ngoại bang đều trở thành một dân tộc. .. Vì qua Đấng Christ, mọi người đều được tự do đến với Đức Chúa Cha. .." (Êph 1:5,10,22,23;2:14-16,18 smf). (Chú ý: smf nghĩa là tác giả muốn diễn ý Kinh Thánh trong khi viết tài liệu này để giúp cho người nghiên cứu dễ hiểu).

Từ "Hội Thánh" trong Kinh Thánh Tân Ước Hylạp là ecclesia. Từ này nói đến tất cả những ai "được gọi" ra khỏi thế gian để trở thành những thành viên trong gia đình (Hội Thánh) của Đức Chúa Cha chúng ta ở trên trời.

Chính Thánh Linh đã "báptêm" hoặc đặt chúng ta vào trong thân thể của Đấng Christ, cũng là Đấng đã "sinh" hoặc đem chúng ta vào trong gia đình của Đức Chúa Trời, làm cho chúng ta trở nên những thành viên của Hội Thánh Đức Chúa Trời và là những công dân của nước Đức Chúa Trời.

B. ĐỨC CHÚA TRỜI MẶC KHẢI MỤC ĐÍCH CỦA NGÀI.

1. Sự Mặc Khải: Không Nằm Trong Phạm Trù Của Khoa Học Và Triết Học.

Làm thế nào chúng ta có thể hiểu được mục đích của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta trong kế hoạch của Ngài? Mục đích thiên thượng là siêu nhiên, đời đời và thuộc linh. Là con người tội lỗi không có Thánh Linh của Đức Chúa Trời, chúng ta không thể nào biết được ý định của Đức Chúa Trời.

Phương pháp "phán đoán" của khoa học và "lý luận" của triết học đều không thể đem chúng ta đến với Đức Chúa Trời.

"... Sự khôn ngoan của thế gian không thể nhận biết được Đức Chúa Trời. Vì sự rồ dại của Đức Chúa Trời là khôn ngoan hơn người ta. .. Vì sự khôn ngoan của thế gian này đối với Đức Chúa Trời là sự rồ dại ..." (ICôr 1:21,25;3:19).

2. Sự Mặc Khải: Từ Đức Thánh Linh.

Bằng sự khôn ngoan hữu hạn của mình, con người không thể nào biết được Đức Chúa Trời. Chỉ có Thánh Linh mới làm cho chúng ta hiểu Đức Chúa Trời và mục đích của Ngài.

Chúa Jesus đã nói về điều này rằng "Hỡi Cha! là Chúa của trời và đất, tôi khen ngợi Cha, vì Cha đã giấu những điều này với kẻ khôn ngoan, người sáng dạ mà tỏ ra cho những người giống như con trẻ " (Mat 1:25,26 smf).

Những câu này đã làm cho vấn đề được sáng tỏ. Chúng ta không thể nào tìm được Đức Chúa Trời bằng nỗ lực của chính mình, hoặc không thể nào biết Ngài bằng lý luận của riêng mình. Đức Chúa Trời đã tự bày tỏ Ngài ra cho loài người bằng Thánh Linh của Ngài và qua Con Ngài.

Sự mặc khải của Đức Chúa Trời sẽ đến khi chúng ta sẵn sàng dâng tâm linh chúng ta cho Thánh Linh bằng đức tin đơn sơ như con trẻ.

Phaolô nói về điều này theo kinh nghiệm của bản thân ông mà theo thế giới tôn giáo ông là người khôn ngoan.

"Ví bằng kẻ khác tưởng rằng có thể cậy mình trong xác thịt thì tôi lại có thể bội phần hơn nữa; tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, về dòng Ysơraên, chi phái Bêngiamin, người Hêbơrơ, con của người Hêbơrơ, về luật pháp thì thuộc dòng Pharisi " (Phil 3:4,5).

Ông là người khao khát được trở nên một thành viên trong chốn công hội (một tổ chức lãnh đạo của người Do Thái). Tuy nhiên, trước khi ông có thể học biết được những đường lối của Đức Chúa Trời, ông phải hạ lòng và trí xuống trước mặt Ngài như một con trẻ.

Cuối cùng, Phaolô đã được nâng lên vượt xa những giới hạn của tâm trí bị thời gian ràng buộc và của thân thể bị đất ràng buộc.

"Cách đây mười bốn năm, tôi đã được đem lên trời để đi thăm viếng. Xin đừng hỏi tôi là lúc ấy tôi ở trong thân thể hay trong tâm trí vì tôi không biết, chỉ có Đức Chúa Trời mới trả lời được điều đó. Nhưng dù sao, tôi cũng đã ở parađi. Và tôi cũng đã nghe được nhiều điều kỳ diệu đến nỗi vượt xa khả năng của con người để có thể diễn đạt thành lời. .." (IICôr 12:2-4 diễn ý).

Sự mặc khải mà ông nhận được đã giấu kín trong lòng Đức Chúa Cha trước khi sáng thế. Đức Chúa Trời đã mặc khải cho Phaolô mục đích của Ngài cho các thời đại.

Từ đó trở đi Phaolô đã nhìn mọi sự theo một quan điểm khác. Ông là một người được thay đổi như chúng ta đã thấy kết quả trong cuộc đời ông.

Theo kinh nghiệm của cá nhân mình, Phaolô đã dạy chúng ta rằng chúng ta cần sự mặc khải của Đức Thánh Linh ban cho. Đó là cách duy nhất để chúng ta có thể biết và hiểu được cơ nghiệp kỳ diệu của chúng ta trong Đấng Christ.

"Vì Kinh Thánh có chép rằng: Đức Chúa Trời đã chuẩn bị những điều kỳ diệu cho những người yêu mến Ngài. Đó là những điều mà con người không thể nào thấy, nghe hoặc tưởng tượng được.

Hơn nữa, bởi Đức Thánh Linh, Ngài đã bày tỏ sự mầu nhiệm của Ngài cho chúng ta. Vì Đức Thánh Linh đã dò xét và bày tỏ cho chúng ta những điều kín giấu trong lòng của Đức Chúa Trời.

Vì lý do này, Đức Chúa Trời đã ban Thánh Linh của Ngài cho chúng ta để chúng ta có thể biết tất cả những gì mà Đức Chúa Trời đã hoạch định cho chúng ta trong ân điển " (ICôr 2:9-12 smf).

Vậy chúng ta hãy cầu nguyện rằng "Nguyện Đức Chúa Trời của Đức Chúa Jesus Christ chúng ta, là Cha vinh hiển, ban thần trí của sự khôn ngoan và của sự tỏ ra cho anh em, để nhận biết Ngài "(Êph 1:17).

C. CHÚNG TA DỰ PHẦN TRONG GIA ĐÌNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.

Bức tranh về tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho Con Ngài là một sự kỳ diệu mà chúng ta cần biết. Từ mối quan hệ yêu thương thiên thượng này, Phaolô đã nhìn thấy kế hoạch của Đức Chúa Trời cho mọi thời đại được lộ ra. Và điều kỳ diệu trong mọi sự kỳ diệu là chúng ta được dự phần trong kế hoạch đó!

1. Nhiều Con Trai Và Con Gái.

Ước muốn lớn lao của Đức Chúa Cha là bày tỏ hơn về hình ảnh và sự cai trị của Ngài qua một gia đình có nhiều con trai và con gái. Mỗi thành viên trong gia đình đó phải trở nên giống như Chúa Jesus về cả đời sống và tâm tánh.

Hãy lắng nghe cẩn thận khi Phaolô tìm cách diễn đạt sự mầu nhiệm này thành lời:

"Cách đây rất lâu, ngay cả trước khi dựng nên thế gian, Cha thiên thượng yêu dấu của chúng ta đã lựa chọn chúng ta cho riêng Ngài. Ngài đã có kế hoạch làm điều này qua những gì Đấng Christ làm cho chúng ta.

Thế nên Đức Chúa Cha đã quyết định làm cho chúng ta được nên thánh không chỗ trách được theo ý Ngài. Chúng ta sẽ được đứng trước mặt Ngài, được bao phủ bằng tình yêu của Ngài. Vâng, kế hoạch không thay đổi của Đức Chúa Cha là làm cho chúng ta trở nên con cái của Ngài. Đây là ước muốn và sự hài lòng của Ngài " (Êph 1:4-5 smf).

"Từ lúc ban đầu, Đức Chúa Cha đã biết những người yêu Ngài. Vậy nên Ngài đã quyết định rằng họ phải trở nên giống như Con Ngài. Ước muốn của Đức Chúa Trời là Con Ngài là con cả trong một gia đình có nhiều con " (Rô 8:29 smf).

2. Gia Đình Đầu Tiên

Sự mặc khải của Phaolô làm cho câu chuyện sáng tạo có nhiều ý nghĩa. Trong Sáng Thế Ký chúng ta có thể thấy ngay từ ban đầu, Đức Chúa Trời đã muốn có một gia đình (là những người giống như Chúa Jesus):

"Chúng ta hãy dựng nên loài người theo hình ta và tượng ta để họ cai trị mọi tạo vật trên trời, dưới đất và trong biển. Vì vậy Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người theo hình Ngài. Ngài dựng nên người nam và người nữ.

Sau đó Đức Chúa Trời chúc phước cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sản và thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất và làm cho đất phục tùng. Các ngươi phải cai trị mọi loài sống ở trên trời, dưới đất và trong biển " (Sáng 1:26-28 smf).

Gia đình đầu tiên trong công cuộc sáng tạo của Đức Chúa Trời là một người nam cùng với vợ, đó là những người mà Đức Chúa Trời đã thiết lập mối thông công ngọt ngào (Sa 3:8).

Họ cũng là một cặp vợ chồng hoàng tộc vì Ngài đã ban cho họ quyền làm vua. Họ có quyền cai trị khắp trái đất. Qua họ ý chỉ của Đức Chúa Trời được thực hiện trên đất.

Lẽ ra lòng của Đấng Sáng tạo rất hài lòng và vui mừng về điều hy vọng này. Nhưng buồn thay một bóng đen gian ác đã xuất hiện.

Khung cảnh đáng yêu mà chúng ta vừa mới vẽ ra đã không kéo dài được lâu. Con rắn ranh mãnh và đẹp đẽ đã nằm trong bóng đen gian ác ấy. Và trong con rắn, chính Satan đang hành động.

 

E1.2 Chương 2: KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI BỊ PHÁ HỎNG:
SỰ PHẢN LOẠN

A. CON NGƯỜI: ĐƯỢC DỰNG NÊN THEO HÌNH ẢNH ĐỨC CHÚA TRỜI

Phải Đức Chúa Trời đã dựng nên con người theo ảnh Ngài để quản trị.

1. Được Tự Do Lựa Chọn.

Ước muốn của Đức Chúa Trời là Ađam, Êva sẽ yêu mến tôn kính và vâng lời Ngài trong mọi sự.

Đức Chúa Cha muốn con người tin cậy nơi tình yêu, sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài. Ngài mong muốn con người tiếp nhận và đáp trả lại tình yêu của Ngài như tình yêu của Cha và Con vậy.

Tuy nhiên bản chất của tình yêu là ban cho nhưng không và không có sự ép buộc. Bạn không thể làm hoặc buộc người khác phải yêu bạn.

Sự tôn kính, ngợi khen và thờ phượng cũng vậy. Sự thờ phượng có quan hệ đến "giá trị". Chúng ta yêu mến, ca ngợi và tôn kính những gì mà chúng ta cảm thấy "có giá trị".

Tình yêu là một sự lựa chọn. Sự thờ phượng là một sự lựa chọn. Chúng ta chọn yêu thương và thờ phượng những gì mà cá nhân chúng ta cảm thấy rất có "giá trị".

Đức Chúa Trời là Đấng Chủ Tể. Điều này có nghĩa là Ngài có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Ngài đã chọn tạo dựng con người theo ảnh Ngài để con người có thể cai trị các loài thọ tạo. Điều này có nghĩa là Ngài ban cho con người ý chí tự do. Điều này có nghĩa là con người được ban cho quyền lựa chọn. Theo ý chí tự do của mình, con người được quyền lựa chọn yêu mến, thờ phượng và ca ngợi Đức Chúa Trời hoặc có thể lựa chọn sự phạm tội và không tôn kính Ngài.

Tuy nhiên khi Đức Chúa Trời ban cho con người sự tự do lựa chọn này thì điều đó cũng đem đến một hiểm họa. Có nghĩa là con người có thể chọn điều thiện hoặc điều ác, điều đúng hoặc điều sai. Con người có thể chọn đối tượng để họ thờ phượng và vâng lời.

2. Được Tạo Nên Để Thờ Phượng.

Mọi người đều thờ phượng! Chúng ta yêu mến, ca ngợi, tôn kính bất cứ điều gì mà chúng ta cảm thấy "có giá trị" nhất trong đời sống chúng ta. Vấn đề không phải là chúng ta có thờ phượng hay không nhưng là chúng ta thờ phượng "cái gì".

Đức Chúa Trời tạo dựng nên con người để thờ phượng Ngài. Con người sẽ yêu mến, phục vụ và vâng theo những gì mà họ thờ phượng. Điều đó quyết định tâm tánh và hành vi của họ, thái độ và hành động của họ.

Không ngạc nhiên gì khi Đức Chúa Jesus phán rằng "trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời trong đời sống các ngươi ". Vì khi chúng ta làm như vậy, mọi điều khác sẽ ổn thỏa (Mat 6:33).

Đức Chúa Trời cho phép con người lựa chọn sự thờ phượng bằng cách đặt hai cây đặc biệt ở trong vườn Êđen. Một cây được gọi là "cây sự sống". Điều mầu nhiệm được ẩn giấu trong cây này là Tác giả của sự sống đó chính là Chúa Jesus Christ.

Cây còn lại là "cây sự chết", còn được gọi là cây biết điều thiện và điều ác. Con người được cảnh báo là không được ăn trái cây đó. Con người không được đưa ra những tiêu chuẩn về điều thiện và điều ác, điều đúng và điều sai, vì sự sống của họ khác xa với sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời.

"Có một con đường coi dường như chính đáng cho loài người nhưng đến cuối cùng nó thành ra nẻo sự chết " (Châm 14:12 smf). Điều mầu nhiệm được giấu kín trong cây này là tác giả của sự chết chính là Satan!

B. SATAN: CÓ SỰ GIAN ÁC TRONG LÒNG.

Bây giờ Satan trong hình thể của một con rắn duyên dáng đã xuất hiện. Nó khôn ngoan theo đường lối gian ác và trong lòng nó có một mục đích gian ác. Nó từ đâu đến? Tại sao nó có ở đó? Nó đang kiếm cách làm gì? Chúng ta hãy trở lại với Kinh Thánh để tìm câu giải đáp.

Kinh Thánh đã dùng khung cảnh và con người trên đất để dạy chúng ta những điều về trời và thuộc linh.

1. Thực Hiện Qua Con Người.

Tiên tri Êxêchiên đã cho chúng ta biết về một vị vua của Tyrơ nào đó rất gian ác. Sự cai trị của Satan trên vị vua đó hoàn hảo tới mức mà câu chuyện đó bày tỏ một bức tranh kỳ lạ về chính Satan.

"Ngươi rất hoàn hảo trong sự khôn ngoan và vẻ đẹp mình. Ngươi đã ở trong Êđen là vườn của Đức Chúa Trời. Áo quần ngươi đầy những đồ trang sức quí giá. .. tất cả đều bằng vàng nguyên chất và đẹp đẽ. Những điều đó đã được ban cho ngươi từ ngày ngươi được tạo ra.

Ta đã chọn ngươi làm một chêrubin bảo vệ được xức dầu. Ngươi được quyền lên núi thánh của Đức Chúa Trời. Ngươi bước đi giữa những viên ngọc lửa.

Ngươi đã trọn vẹn hoàn toàn từ khi ngươi được tạo dựng nên. Vâng, ngươi đã được trọn vẹn cho đến ngày tìm thấy sự gian ác trong ngươi. Sự giàu có lớn lao của ngươi làm cho ngươi có đầy quyền lực gian ác và ngươi đã phạm tội. ..

Lòng ngươi đầy sự kiêu ngạo về sự đẹp đẽ của mình. Ngươi đã dùng sự khôn ngoan mình theo đường lối sai lầm vì mục đích kiêu ngạo của ngươi. Do đó, ta đã đuổi ngươi ra và ném ngươi xuống đất " (Êxê 28:12-19 smf).

Tiên tri Êsai cũng vẽ lên một bức tranh tương tự. Bằng những lời mạnh mẽ, ông đã lột trần bản chất gian ác của vua Babylôn ác độc. Và ông cũng bày tỏ cho chúng ta một bức tranh gian ác về Satan đang hành động qua con người.

"Hỡi Luciphe, con trai của sáng sớm kia, ngươi đã từ trời sa xuống như thế nào. Ngươi đã bị chặt xuống đất, mặc dù ngươi có quyền năng chống lại các dân tộc trên thế giới.

Vì ngươi tự cho rằng "Ta sẽ lên trời và cai trị các thiên sứ. Ta sẽ chiếm lấy ngôi cao nhất. Ta sẽ cai trị từ nơi núi Thánh của Đức Chúa Trời. Ta sẽ leo lên đến các từng trời cao nhất và ta sẽ giống như Đấng rất cao ". Nhưng thay vì vậy, ngươi sẽ bị đem xuống nơi thấp nhất của địa ngục " (Ês 14:12-15 smf).

Có năm lần Satan đã gạch bỏ "ý chỉ của Đức Chúa Trời" để thay vào "ý chỉ của nó". (Điều đáng chú ý là trên thập tự, thân thể Chúa Jsus đã mang năm vết thương, theo đó ý chỉ của Satan đã bị hủy diệt hoàn toàn).

2. Được Tạo Dựng Với Ý Chí Tự Do.

Satan cùng với tất cả các thiên sứ khác được tạo dựng nên với một ý chí tự do để yêu mến, ca ngợi, thờ phượng và phục vụ Đức Chúa Trời. Như chúng ta đã nói, việc tạo dựng những tạo vật có sự tự do lựa chọn sẽ đưa đến những hiểm họa, có nguy cơ phản loạn. Những tạo vật như vậy có thể chọn lựa điều sai lầm.

Kết quả của sự lựa chọn điều sai lầm có thể là một thảm kịch. Từ chối tình yêu, lẽ thật và sự tốt lành của Đức Chúa Trời sẽ phải gặt lấy những hậu quả của lòng căm thù, tội lỗi và sự gian ác. Từ bỏ một điều là lựa chọn một điều khác. Giống như khi bạn quăng một đồng xu lên, mặt này hoặc mặt kia sẽ lật ngữa. Thật đáng buồn vì Satan đã lựa chọn điều sai lầm.

Trong Êxêchiên và Êsai, Kinh Thánh cho chúng ta thấy rằng Satan được Đức Chúa Trời tạo dựng nên với một mục đích cao cả. Nó rất trọn vẹn trong sự đẹp đẽ và khôn ngoan của nó. Nó được ban cho quyền năng và uy quyền rất lớn.

Đoạn Kinh Thánh trong Êxêchiên ám chỉ rằng Satan là người chỉ huy dàn hợp xướng ở thiên đàng. Nó có ân tứ âm nhạc lạ lùng để hướng dẫn sự thờ phượng Đức Chúa Trời.

Satan cai quản những đạo binh của thiên đàng. Hình như Satan là "người chỉ huy" cả thiên binh trên trời.

3. Bị Mù Quáng Bởi Sự Kiêu Ngạo.

Bởi sự đẹp đẽ và địa vị của mình, sự kiêu ngạo đã vào trong lòng Satan. Phaolô đã dùng Satan làm ví dụ để minh họa cho điều gì sẽ xảy đến khi có sự kiêu ngạo trong lòng:

"Người giám mục phải không chỗ trách được trong mọi khía cạnh của đời sống. .. Người mới tin không được làm giám mục kẻo người tự kiêu mà sa vào sự đoán phạt như ma quỉ chăng " (ITi 3:2, 6 smf).

Sự kiêu ngạo và ham muốn quyền lực đã trở thành cái hố sa ngã của Satan. Nó thấy hài lòng về sự đẹp đẽ của mình hơn là vui thỏa trong sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Trong con mắt của mình Satan thấy mình được nâng cao lên và tìm kiếm sự tôn trọng và quyền năng chỉ thuộc về Đức Chúa Trời mà thôi.

Satan thèm muốn uy quyền của ngôi Đức Chúa Trời, và nó sẵn sàng phản loạn chống lại Đức Chúa Trời Chí Cao để đoạt lấy điều đó. Điều đáng buồn là một số lớn đạo quân thiên sứ đã liên hiệp với Satan trong sự phản loạn này (IIPhi 2:4; Giu 1:6).

Người ta tự hỏi tại sao Satan và đạo binh của nó lại nghĩ rằng chúng sẽ thành công trong sự phản loạn chống lại Đức Chúa Trời. Ngay cả Kinh Thánh cũng nói rằng nó "đầy sự khôn ngoan".

Tuy nhiên như chúng ta đã thấy trong sự kiêu ngạo có sự "mù quáng". Sự lừa dối là tin rằng một điều gì đó là đúng trong khi điều đó là sai và tin một điều là tốt trong khi nó lại xấu xa.

Sự kiêu ngạo đi trước sự lừa dối theo sau. Thật vậy Satan đã bị lừa dối. Nó là kẻ quá khôn ngoan đến nỗi không nghĩ rằng cần phải làm thử một công việc nào đó, và cũng không tin rằng mình sẽ thất bại. Thật vậy nó cho rằng nó sẽ thắng!

4. Nghi Ngờ Và Bất Tuân.

Trước đây chưa từng có ai bất tuân lời Đức Chúa Trời. Chưa ai dám thử nghiệm quyền năng và uy quyền của Ngài. Cũng chẳng ai thấy hậu quả của sự phản loạn. Chưa ai biết đến sự chết cả. Hơn nữa đây là lần đầu tiên những quyền lực của điều thiện và điều ác xung đột lẫn nhau. Chiến trận của mọi thời đại sắp bắt đầu!

Không giống như Đức Chúa Trời. Satan không thể "thông suốt mọi sự", tức là biết tất cả. Là một tạo vật, điều nó phải làm theo chính là Lời của Đức Chúa Trời.

Sự kiêu ngạo đi trước sự lừa dối theo sau và kế tiếp là sự nghi ngờ. Satan bắt đầu nghi ngờ Lời của Đức Chúa Trời và kết quả là nó quyết định không làm theo Lời Đức Chúa Trời.

Cho đến lúc này mắc xích của dây xích gian ác đã quá rõ ràng: KIÊU NGẠO - LỪA DỐI - NGHI NGỜ - BẤT TUÂN và mắc xích cuối cùng là "SỰ CHẾT": "... tội lỗi đã trọn sinh ra sự chết " (Gia 1:15).

5. Đức Chúa Trời Biết Mọi Sự.

Kinh Thánh bày tỏ rằng Đức Chúa Trời chọn cách đạt được mục đích của Ngài trong sự sáng tạo qua những tạo vật có ý chí tự do. Các thiên sứ (và sau đó là con người) đã được dựng nên với sự tự do để lựa chọn.

Như đã nói ở trên, điều này sẽ gây nên một hiểm họa. Thảm họa của sự lựa chọn sai lầm sẽ là kết quả của những điều ác. Đức Chúa Trời đã nhìn thấy trước những khả năng đó nhưng Ngài vẫn yên nghỉ trên sự hiểu biết của mình vì cuối cùng:

a. ĐIỀU THIỆN sẽ thắng ĐIỀU ÁC.

b. TÌNH YÊU sẽ thắng HẬN THÙ.

c. SỰ SÁNG sẽ thắng SỰ TỐI TĂM.

d. CHÂN LÝ sẽ thắng SỰ SAI LẦM.

e. ĐIỀU ĐÚNG sẽ thắng ĐIỀU SAI

Hơn nữa, những phẩm chất cao quí của bản tánh Đức Chúa Trời sẽ được bày tỏ qua những người lựa chọn yêu mến, tôn kính và vâng lời Ngài.

Điều đó sẽ đạt được qua các thiên sứ chọn trung thành với Đấng Tạo Hóa của họ trên thiên đàng.

Trên đất, điều đó sẽ đạt được qua một gia đình có nhiều con trai và con gái của Đức Chúa Trời. Con "cả" trong gia đình này chính là Đức Chúa Jesus Christ.

6. Bị Đuổi Khỏi Thiên Đàng.

Có lẽ Satan đã ghen tỵ vì cả thiên binh trên thiên đàng đã dâng tình yêu, lòng tôn kính và sự thờ phượng của họ lên cho Đức Chúa Trời. Sự phản loạn của Satan là cố chiếm lấy địa vị của Đức Chúa Trời và nhận sự thờ phượng đã thuộc về Ngài.

Bạn còn nhớ ma quỉ đã đề nghị dâng cho Chúa Jesus các nước trên thế gian này để cố cám dỗ Chúa Jesus thờ phượng nó trong đồng vắng không? (xem Lu 4:5-8). Sự việc này cho chúng ta thấy rằng ma quỉ thèm muốn sự thờ phượng mà chỉ dành riêng cho Đức Chúa Trời.

Để chống lại Đức Chúa Trời, ma quỉ đã kéo dài cuộc chiến lâu dài giữa điều thiện và điều ác.

Satan không thể chiến thắng ở thiên đàng nên nó và đạo quân thiên sứ sa ngã của nó bị đuổi ra khỏi thiên đàng. Tuy nhiên, điều mà chúng đã đánh mất ở thiên đàng là điều chúng cố giành giựt sau này ở trên đất trong vườn Êđen.

7. Lừa Dối Êva.

Đức Chúa Trời đã dựng nên người nam người nữ đầu tiên và bảo họ phải chinh phục đất và làm cho đất đầy dẫy một dòng dõi con cháu biết trung thành với Ngài.

Do đó Satan đã tìm đến đất này và dòng dõi này. Cuộc chiến đã bắt đầu ở thiên đàng bây giờ đã đến với công cuộc sáng tạo mới của Đức Chúa Trời. Satan tìm cách cướp đi sản nghiệp của gia đình đầu tiên trên đất này bằng cách cám dỗ họ phạm chính tội mà khiến cho nó phải bị đuổi khỏi thiên đàng. Đó là tội kiêu ngạo và phản loạn!

Satan đến với Êva trong hình dáng của một con rắn khôn ngoan và đẹp đẽ. Nó không thể nắm quyền trên bà vì bà được ban cho quyền quản trị mọi tạo vật trên đất.

Nó chỉ có một cách duy nhất để đến gần bà với mục đích gian ác của nó, đó là nói dối và lừa đảo!

Bạn có thể thấy tại sao Chúa Jesus đã nói với Satan rằng "từ ban đầu, ma quỉ là kẻ giết người, chẳng bền giữ được lẽ thật, vì không có lẽ thật trong nó đâu. .. vì nó vốn là kẻ nói dối. .." (Giăng 8:44).

Trong thư tín thứ hai gởi cho Hội Thánh Côrinhtô, Phaolô đã nói đến sự lừa dối này. Chúng ta hãy lắng nghe lời cảnh báo của ông:

"Nhưng tôi ngại rằng như xưa Eva bị cám dỗ bởi mưu chước của con rắn kia, thì ý tưởng của anh em cũng hư đi, mà dời đổi lòng thật thà tinh sạch đối với Đấng Chirst chăng (IICôr 11:3 smf).

Phải Satan đã dùng "cây tri thức" (ý tưởng ngạo mạn của con người) làm phương tiện để đến với đời sống của họ. Bạn nhớ lại rằng Đức Chúa Trời đã bảo họ không được ăn trái cây đó. Chúng ta hãy lắng nghe lời cảnh báo của Ngài:

"Các ngươi được tự do ăn mọi trái cây trong vườn nhưng các ngươi không được ăn cây biết điều thiện và điều ác. Ngày nào mà các ngươi ăn trái cây đó thì chắc sẽ chết " (Sáng 2:16-17 smf).

a. Dây Xích Gian Ác Được Rèn Nên.

Bây giờ Satan bắt đầu rèn sợi dây xích gian ác của nó- đó là sự kiêu ngạo - lừa dối - nghi ngờ - bất tuân - sự chết. Chúng ta hãy nghiên cứu từng mắc xích trong sợi dây đó theo những điều đã ghi chép về chúng trong Kinh Thánh.

"Vả trong các loài thú đồng mà Giêhôva Đức Chúa Trời dựng nên, có con rắn là giống khôn ngoan và quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói cùng người nữ rằng: "Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn các ngươi không được phép ăn mọi trái cây trong vườn sao? ".

Người nữ đáp rằng: "Chúng ta được ăn trái các cây trong vườn, song về phần trái của cây mọc giữa vườn, Đức Chúa Trời có phán rằng: Hai ngươi chẳng nên ăn đến và cũng chẳng nên đá động đến, e khi hai ngươi phải chết chăng.

Con rắn nói với người nữ rằng "Các ngươi sẽ không chết đâu. Đức Chúa Trời biết rằng khi các ngươi ăn trái cây đó, mắt các ngươi sẽ mở ra, các ngươi sẽ giống như Đức Chúa Trời, biết được sự khác nhau giữa điều thiện và điều ác ".

"Sau đó, người nữ thấy trái cây đó rất tốt để làm thức ăn và rất đẹp mắt. Đó là một điều gì đó rất hấp dẫn vì nó làm cho con người trở nên khôn ngoan. Vì vậy bà hái trái và ăn. Bà cũng đưa cho chồng và chồng cũng ăn nữa " (Sáng 3:1-6 smf).

Satan đã nói với họ rằng trái của cây biết điều thiện và điều ác không phải là một điều gì đó đáng phải sợ mà thực ra lại là điều rất hấp dẫn. Thay vì phải chết như Đức Chúa Trời đã phán thì họ sẽ thật sự bắt đầu sống.

Thật ra họ sẽ trở nên giống như Đức Chúa Trời và có thể phân biệt điều gì thiện, điều gì ác, điều gì đúng, điều gì sai, cho chính họ. Họ không cần Đức Chúa Trời hướng dẫn đời sống của họ nữa. Họ có thể biết chính họ, tự là họ và trở nên tốt nhất theo ý họ. Sau đó nước, quyền và vinh hiển là của họ, sẽ chỉ của một mình họ thôi. Nếu Đức Chúa Trời thực sự yêu họ, Ngài phải bày tỏ chính Ngài cho họ.

Thật dễ dàng thấy được cách Satan đã gieo hạt giống kiêu ngạo và ham muốn ích kỷ như thế nào. Sau đó nó lại lừa dối họ bằng cách làm cho họ nghi ngờ Đức Chúa Trời và lời của Ngài, tình yêu, quyền năng và uy quyền của Ngài. Sự nghi ngờ của họ đã dẫn đến sự bất tuân và sự bất tuân của họ đã dẫn đến sự chết.

C. CON NGƯỜI: BẤT TUÂN VÀ ĐÁNH MẤT HẾT MỌI SỰ.

Con người đã mất hết tất cả mọi sự khi tìm kiếm sự sống ở ngoài Đức Chúa Trời. Điều đáng buồn là sự nói dối đã hành động cách suông sẽ ở trên trái đất cũng như ở trên trời vậy. Tin theo lời nói dối của Satan, người nữ đã bất tuân và ở dưới sự đoán phạt. Mặc dù Ađam không bị lừa dối, ông cũng chọn con đường phạm tội, hình ảnh của Đức Chúa Trời ở trong ông đã bị phá hỏng.

Không có hình ảnh của Đức Chúa Trời (sự công bình - hành động đúng) thì sự quản trị cũng mất: "... Quyền bính của nước Chúa là quyền bính ngay thẳng " (Hêb 1:8).

Nhưng Satan đã nhanh tay cướp lấy quyền bính rơi từ tay của Ađam và Êva. Quyền bính được ban cho con người bây giờ đã bị Satan cướp lấy. Con người thấy chính mình phải ở dưới quyền tâm tối của và sự chết.

Dường như một bi kịch bất tận đã xảy ra. Nhiều điều đã bị đánh mất vì hậu quả của sự phạm tội và bất tuân của Ađam:

1. Ông đã đánh mất mối quan hệ như là đứa con yêu dấu.

2. Ông đã đánh mất sự che phủ thiên thượng và quyền bính mà Đức Chúa Trời ban cho.

3. Ông đã đánh mất hình ảnh đẹp đẽ của Đức Chúa Trời trong đời sống ông.

4. Ông đã đánh mất số phận của mình trong mục đích thiên thượng của Đức Chúa Trời.

5. Ông đã đánh mất chính đời sống mình - Linh, hồn và thân thể.

Dường như kế hoạch thiên thượng của Đức Chúa Trời đã tan tành ngay cả trước khi khởi sự. Hẳn là Satan đã rất đổi vui mừng vì mục đích thánh của Đức Chúa Trời đã thất bại! Satan tin rằng cuộc chiến đã thua ở thiên đàng thì bây giờ đã thắng lợi ở trên đất.

Bây giờ Satan là vua của thế gian này. Và hễ khi nào nó còn cai trị đất này thì sự vinh hiển và quyền năng của Con Đức Chúa Trời chẳng bao giờ cai trị được trong lòng của con người.

Tuy nhiên có một khía cạnh trong đặc tánh của Đức Chúa Trời mà Satan không hề biết đến. Đó là ân điển của Ngài! Satan không biết đến sức mạnh của tình yêu Đức Chúa Trời - Tình yêu đó đã tiến xa đến mức mà con người có thể được cứu và được khôi phục!

Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ về kế hoạch cứu chuộc vĩ đại của Đức Chúa Trời, vì đó là sự hy vọng được khôi phục của con người - giành lại những gì đã mất.

 

E1.3 Chương 3: KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC KHÔI PHỤC:
SỰ CỨU CHUỘC

A. TẤT CẢ CHÚNG TA CẦN ĐƯỢC CỨU

Trước khi nghiên cứu về kế hoạch cứu chuộc vĩ đại của Đức Chúa Trời, chúng ta phải hiểu một cách đầy đủ về nhu cầu "được cứu" của chúng ta. Tất cả chúng ta đều cần được cứu khỏi sự đoán phạt và quyền lực của tội lỗi bởi vì chúng ta là những tội nhân. Chúng ta là tội nhân theo "bản chất" và theo "việc làm". Kinh Thánh đã làm sáng tỏ hai đặc điểm căn bản này của tội lỗi:

1. Tội Nhân Theo Bản Chất.

"Bởi một người (Ađam) mà tội lỗi đã vào trong thế gian (nhân loại). Hậu quả của tội lỗi là sự chết. Do đó sự chết đã lan truyền cho tất cả con người vì (trong Ađam) mọi người đều đã phạm tội " (Rô 5:12 smf).

Là đầu của nhân loại, Ađam đã truyền nhiễm vào toàn thể nhân loại tội lỗi của ông, như một căn bệnh truyền nhiễm. Do đó theo bản chất chúng ta là tội nhân từ khi sinh ra. Chúng ta được sinh ra với một bản chất tội lỗi. Con cái không cần phải được dạy dỗ mới biết phạm tội. Chúng là tội nhân được sinh ra theo bản chất tự nhhiên (giống như cha mẹ nó).

2. Tội Nhân Bởi Việc Làm.

"Tất cả chúng ta giống như chiên đi lạc. Ai theo đường nấy. Thật vậy tất cả mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời" (Ês 53:6; Rô 3:23 smf).

Chúng ta không những là tội nhân theo bản chất nhưng cũng là tội nhân theo sự lựa chọn và việc làm. Tất cả chúng ta đều chọn ý riêng của chúng ta và xa cách Đức Chúa Trời.

3. Sự Chết: Án Phạt Của Tội Lỗi.

Đường lối của Đức Chúa Trời là đường lối duy nhất dẫn đến sự sống đời đời. Tất cả những con đường khác đều dẫn đến sự chết. Ngoài Đức Chúa Trời ra chúng ta không còn hy vọng nào cả. Chúng ta đã đánh mất mọi thứ mãi mãi.

Sứ đồ Phaolô đã đưa ra lẽ thật này rất rõ ràng, nhưng cũng cho chúng ta sự hy vọng mà chúng ta cần:

"Vì tiền công của tội lỗi là sự chết nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Chúa Jesus Christ là Chúa chúng ta " (6:23).

4. Ân Điển: Món Quà Của Đức Chúa Trời.

Ân điển là món quà mà chúng ta không phải tìm kiếm. Sự thương xót là lòng nhơn từ mà chúng ta không xứng đáng để nhận lấy. Bản tánh của Đức Chúa Trời là đầy dẫy ân điển và sự thương xót. Đây là những phẩm chất của tình yêu Ngài.

Đức Chúa Trời là tình yêu nhưng Ngài cũng thánh khiết và công bình. Vì Đức Chúa Trời thánh khiết, công bình nên Ngài không thể bỏ qua tội lỗi của con người.

Nếu tôi phạm tội (vi phạm luật pháp) và được đem đến trước một quan tòa công bình, ông ta sẽ thi hành luật pháp. Tôi không thể mua sự tự do bằng của hối lộ. Ông ta sẽ phạt tôi chiếu theo điều luật pháp đã qui định về tội phạm của tôi.

Khi một quan tòa trên đất này được nhậm chức, ông ta phải tuyên thệ rằng sẽ tuân theo luật pháp. Nhưng thật không may, có nhiều quan tòa đã vi phạm lời tuyên thệ của mình. Họ là những quan tòa bất nghĩa và không công bằng.

Đức Chúa Trời là quan tòa công bình. Nếu Ngài không ra lệnh thi hành sự đoán phạt tội lỗi thì Ngài là một Đức Chúa Trời không công bình. Thế thì hình phạt cho tội lỗi là gì? Và ai sẽ trả giá cho điều đó?

Như chúng ta đã thấy, hình phạt của tội lỗi là sự chết. "Linh hồn nào phạm tội chắc sẽ chết " (Êxê 18:4, 20 smf). Tội nhân là người đáng phải trả giá đó. Chỉ bằng cách này thì sự công bình của Đức Chúa Trời mới được thỏa mãn.

Một khi án phạt đã được trả, chúng ta mới được "công bình" hoặc được làm cho "đúng đắn" theo con mắt của luật pháp. Đây là con đường duy nhất để chúng ta có thể được "tha thứ" tội lỗi.

Chết vì tội lỗi có nghĩa là phân cách. Sự chết vật lý có nghĩa là phân cách thân thể. Chết về thuộc linh (là hậu quả của tội lỗi, tức là sự trừng phạt) có nghĩa là phân cách với Đức Chúa Trời.

Cha trên trời của chúng ta đã tạo dựng chúng ta để được tương giao với Ngài trong gia đình của Ngài. Tội lỗi của chúng ta đã làm hỏng mối quan hệ tốt đẹp đó, không chỉ đối với chúng ta mà còn đối với Ngài nữa.

Có cách nào để khôi phục lại mối quan hệ yêu thương và sự sống đó không? Chẳng lẽ cả Đức Chúa Trời và con người phải chịu khổ vì án phạt của tội lỗi này mãi mãi sao? Có phương cách nào để đem con người trở lại với kế hoạch của Đức Chúa Trời và mối quan hệ gia đình đối với Ngài không? Ngợi khen Đức Chúa Trời vì câu trả lời là có. Phương cách đó được gọi là "sự cứu chuộc".

5. Sự Cứu Chuộc: Ân Điển Đức Chúa Trời Được Tỏ Ra.

"Hãy tạ ơn Cha trên trời. Ngài đã chuẩn bị nhiều điều kỳ diệu cho dân của Ngài là những kẻ bước đi trong sự sáng. Và Ngài đã làm cho chúng có thể hưởng được tất cả những điều đó.

Cha đã làm điều này bằng cách giải cứu chúng ta khỏi quyền lực của sự tối tăm và đem chúng ta vào trong nước của Con yêu dấu Ngài. Phải, chúng ta đã được chuộc, được mua và được đem trở lại, bởi huyết của Ngài. Thật vậy, trong Chúa Jesus, chúng ta được tha thứ mọi tội lỗi " (Cô 1:12-14 smf).

"Được cứu chuộc" có nghĩa là mua và đem lại điều gì đó đã bị đánh mất. Trong sự thương xót và ân điển của Ngài, Đức Chúa Trời đã đến để giúp đỡ con người vì con người không thể tự cứu lấy mình.

Chính Đấng Christ đã chết thế cho con người và đã trả giá cho án phạt để những đòi hỏi về sự vi phạm luật pháp và sự công bình của Đức Chúa Trời được thỏa mãn.

Bây giờ con người có thể được "xưng nghĩa" trước luật pháp. Con người đã được khôi phục để được "đứng công bình" trước mặt Đức Chúa Trời và được tha thứ tội lỗi. Tội trạng của họ được xóa sạch. Giờ đây không còn một tội lỗi nào chống nghịch lại họ nếu họ cầu xin Chúa Jesus tha thứ. Sau đó con người có thể đứng trước luật pháp thánh của Đức Chúa Trời mà không sợ hãi gì.

Phải, án phạt cho tội lỗi của bạn đã được trả xong và khi bạn nhận ân điển của Ngài, tội lỗi của bạn không còn nữa. Đấng Christ đã chết trên thập tự giá thế chỗ cho bạn. Lẽ ra bạn và tôi đã phải chết vì tội lỗi mình nhưng "... Đấng Christ đã chết vì tội lỗi của chúng ta " (Rô 5:8).

Tuy nhiên giá phải trả cho "sự cứu chuộc" của chúng ta không phải rẽ. Để mua và đem chúng ta trở lại với gia đình của Ngài, chính Đức Chúa Trời đã phải trả án phạt cho tội lỗi của chúng ta. Điều đó đáng giá bằng chính sự sống của Con Ngài.

Đức Chúa Jesus Christ đã đến đất này dưới hình thể con người để chết cho tội lỗi của thế gian hầu cho chúng ta được cứu chuộc. Con Đức Chúa Trời trong sạch, thánh khiết, vô tội đã phải mang tội lỗi chúng ta trên chính mình Ngài và chịu chết trên thập tự.

Ngài đã làm điều này để chúng ta được trở nên công bình trước mặt Đức Chúa Trời, và một lần nữa chúng ta lại tìm thấy vị trí của chúng ta trong gia đình của Ngài. Ngài đã chết để chúng ta được sống. Thật vậy đây chính là ân điển của Đức Chúa Trời.

Tôi tin chắc rằng Satan đã không ngờ rằng Đức Chúa Trời đã đi quá xa khi sai Con Ngài chịu chết vì tội chúng ta.

"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian (tội nhân) đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời " (Giăng 3:16).

6. Sự Khôi Phục: Kết Quả Của Sự Cứu Chuộc.

Đức Chúa Trời không ngạc nhiên gì vì tội lỗi của con người. Món quà về Con Đức Chúa Trời đã được ban cho con người ngay cả trước khi con người được dựng nên.

"Đấng Christ đã được chọn để chết cho anh em trước khi thế gian này (hoặc con người) được tạo dựng nên. Nhưng Ngài đã được khải thị và tỏ ra trong thế gian này trong thời kỳ sau rốt.

Đức Chúa Trời đã trả giá để cứu anh em thoát khỏi cách ăn ở không ra chi của tổ phụ truyền lại. Nhưng anh em được cứu không phải bởi một điều gì đó chóng qua như bạc hay vàng. Anh em đã được mua và được đem trở lại bởi chính huyết quí báu của Đấng Christ, là Chiên con trong sạch, trọn vẹn " (IPhi 1:18-20 smf).

"Sự khôi phục" là điều gì đó được quay trở lại theo điều kiện và hình trạng nguyên thủy của nó, tức là chỗ và cách thức của nó lúc ban đầu.

Khi con người sa ngã, Đức Chúa Trời đã không đổi ý về kế hoạch của Ngài về một gia đình hoàng tộc đáng yêu. Mục đích của Ngài là làm cho đất được đầy dẫy những con trai, con gái có đời sống phản chiếu vẻ đẹp của Đức Chúa Trời.

Do đó ngay khi con người phạm tội và đánh mất địa vị hoàng tộc, kế hoạch cứu chuộc của Đức Chúa Trời đã bắt đầu hành động.

a. Kế Hoạch Cứu Chuộc Được Bày Tỏ.

Có một điều thú vị là sau sự sa ngã, kế hoạch cứu chuộc này trước hết đã được bày tỏ cho chính Satan. Theo Kinh Thánh dường như lúc đó cũng có Ađam và Êva ở đó. Nhưng lời của Đức Chúa Trời đã phán trực tiếp với con rắn.

"Và Giêhôva Đức Chúa Trời đã phán với con rắn rằng: Vì mày đã làm điều này nên mầy sẽ bị rủa sả trong các loài thú. .. Từ bây giờ mầy và người nữ sẽ là kẻ thù. Điều này cũng đúng cho tất cả dòng dõi của mầy và dòng dõi của người nữ (Chúa Jesus). Mầy sẽ cắn gót chân người, còn người sẽ giày đạp đầu mầy " (Sáng 3:14-15 smf).

Đức Chúa Trời đã ban hai lời hứa chính và cả hai đều ám chỉ trực tiếp đến Satan.

1) Mầy Sẽ Cắn Gót Chân Người: "Mầy (con rắn) sẽ cắn gót chân người (dòng dõi người nữ)".

Satan sẽ "cắn gót chân " của "dòng dõi người nữ ". Đây là một lời tiên tri chỉ về Chúa Jesus.

"... Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài, sanh bởi người nữ. .." (Ga 4:4). Chúa Jesus là "dòng dõi người nữ".

Ngài phán rằng con rắn sẽ cắn gót chân người (Chúa Jesus). Nhưng vết thương đó không phải là chí tử.

Điều này ám chỉ sự chết của Chúa Jesus trên thập tự và sự phục sinh sau đó. Satan, kẻ đã nắm quyền sự chết từ thời Ađam, đã không thể giữ được Chúa Jesus trong mồ mả.

Chúa Jesus đến thập tự giá để chết (và để trả án phạt) cho tội lỗi của tôi. Nhưng Ngài đã chết theo lời hứa của Cha Ngài "... Ngài sẽ chẳng để linh hồn tôi nơi âm phủ, cũng không cho người thánh của Chúa thấy sự hư nát " (Công 2:27). Chúa Jesus biết Ngài sẽ từ kẻ chết sống lại, đắc thắng Satan.

2) Người Sẽ Giày Đạp Đầu Mầy. Người (Chúa Jesus) sẽ giày đạp đầu của Satan (hoặc là giày đạp "quyền làm đầu" là quyền cai trị). Điều này ám chỉ đến ngón đòn cuối cùng, chí tử mà không thể hồi phục lại được nữa. Sự đánh bại và hủy diệt quyền cai trị của con rắn là toàn diện. Cụm từ "giày đạp đầu mầy" có một tầm quan trọng rất lớn. Từ "đầu" nói đến quyền cai trị với năng quyền và uy quyền.

Đến lúc này câu chuyện của chúng ta ở trong vườn Êđen đã trở nên đầy kịch tính. Chính Đức Chúa Trời đã phán với ma quỉ rằng một ngày nào đó dòng dõi của người nữ (Chúa Jesus) sẽ giật lấy quyền cai trị thế gian ra khỏi tay nó. Qua sự chết của Đấng Christ trên thập tự giá con người đã được cứu chuộc, Satan đã bị đánh bại và mất hết quyền lực.

Quyền quản trị sẽ được phục hồi lại cho gia đình của Đức Chúa Trời. Con Đức Chúa Trời được sinh ra như Con người, đã giành lại quyền cai trị mà họ đã đánh mất vì cớ tội lỗi.

Một ngày nào đó nước thiên đàng sẽ cai trị trên đất này qua gia đình các thầy tế lễ nhà vua của Đức Chúa Trời. Chúa Jesus, Đấng Cứu chuộc của chúng ta, sẽ là "con cả" trong gia đình vinh hiển ấy. Qua Ngài, chúng ta có được sự đắc thắng đời đời.

7. Tiếp Nhận Món Quà Của Đức Chúa Trời.

Quả thật "sự cứu chuộc" của chúng ta là điều kỳ diệu lớn lao của ân điển Đức Chúa Trời. Món quà về Con của Ngài bày tỏ tình yêu vĩ đại dành cho con người tội lỗi. Tuy nhiên, dù Đức Chúa Trời đã làm tất cả mọi sự cho chúng ta trong Đấng Christ, nhưng chúng ta cũng có thể không nhận được tất cả những điều đó.

Một món quà sẽ không có giá trị gì đối với người từ chối không nhận lấy. Nếu một ai đó cho ta một ly nước mát, nếu chúng ta không uống thì ly nước trở nên vô nghĩa. Chúng ta phải tiếp nhận món quà ân điển của Đức Chúa Trời bằng cách tiếp nhận Chúa Jesus Christ vào lòng để làm Chủ và Cứu Chúa của chúng ta. Chúng ta cũng phải xưng nhận rằng chúng ta là tội nhân và cần được cứu khỏi sự đoán phạt của tội lỗi. Bỏ qua tình yêu của Đức Chúa Trời là đánh mất sự sống đời đời mãi mãi.

"Đức Chúa Trời đã bày tỏ tình yêu vĩ đại của Ngài cho chúng ta bằng cách này: Đấng Christ đã chết cho chúng ta trong khi chúng ta còn là tội nhân. ..

"Và khi Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại như thế nào thì anh em cũng phải bước đi trong đời sống mới thể ấy. ..

"Vì Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta sự sống đời đời và sự sống này ở trong Con Ngài. Nhưng ai không có Con của Đức Chúa Trời thì không có sự sống! ...

"Do đó chỉ những ai nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa thì sẽ được ban cho quyền trở nên con cái của Đức Chúa Trời " (Rô 5:8; 6:4; IGiăng 5:11, 12 Giăng 1:12).

B. HAI PHƯƠNG DIỆN CỦA SỰ CỨU CHUỘC.

Chúng ta dễ dàng nhìn thấy từ phần ở trên rằng có hai phương diện cho sự cứu chuộc của chúng ta: Phương diện của Đức Chúa Trời và phương diện của chúng ta. Phần của Ngài, chúng ta không thể làm được, còn phần của chúng ta Ngài cũng sẽ không làm. Chúng ta có thể xem xét điều này như sau:

1. Phần Của Đức Chúa Trời Trong Sự Cứu Chuộc Chúng Ta.

Ngài sẽ đối đầu và kết án chúng ta vì cớ tội lỗi của chúng ta. Nói cách khác, Đức Chúa Trời sẽ đối đầu với chúng ta vì những lỗi lầm của chúng ta. Ngài sẽ chứng minh rằng chúng ta đã phạm tội và cho chúng ta thấy rằng sự đoán phạt giành cho tội lỗi là sự chết. Ngài sẽ làm điều này bởi Lời của Ngài và Thánh Linh của Ngài. Từ then chốt ở đây là TỘI LỖI!

Sau đó Ngài lại bày tỏ cho chúng ta biết chúng ta có thể "được cứu" khỏi sự đoán phạt của tội lỗi và tìm thấy địa vị của chúng ta trong gia đình của Ngài là như thế nào. Ngài sẽ làm điều này bằng cách đem chúng ta đến với Chúa Jesus, là Con Ngài và là Cứu Chúa của chúng ta. Sự chết của Chúa Giêxu trên thập tự giá chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời không chỉ là Đấng thánh khiết, công bình nhưng cũng là Đấng yêu thương và thương xót nữa. Từ then chốt ở đây là ÂN ĐIỂN!

2. Phần Của Chúng Ta Trong Sự Cứu Chuộc.

Chúng ta phải đáp lại tội lỗi của chúng ta và ân điển của Đức Chúa Trời bằng cách xưng nhận tội lỗi của chúng ta và tiếp nhận Con của Đức Chúa Trời. "Xưng nhận" nghĩa là đồng ý, tức là nói như Đức Chúa Trời nói. Chúng ta phải đồng ý với Đức Chúa Trời rằng chúng ta là tội nhân và cần có một Cứu Chúa. Từ then chốt ở đây là XƯNG NHẬN!

Sau đó chúng ta phải ăn năn và tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa. "Ăn năn" nghĩa là đổi ý. Do đó bây giờ chúng ta sẽ chọn ý muốn và đường lối của Đức Chúa Trời dành cho đời sống của chúng ta chứ không theo ý riêng của chúng ta nữa. Chúng ta làm điều này bằng cách xin Chúa Jesus bước vào lòng chúng ta làm Chủ và Cứu Chúa. Chúng ta đáp lại tình yêu của Đức Chúa Trời bằng đức tin nơi Con Ngài và vâng theo Lời Ngài. Những từ then chốt ở đây là ĂN NĂN và TIẾP NHẬN!

C. KẾT QUẢ CỦA SỰ CỨU CHUỘC.

Kết quả của sự cứu chuộc là sự biến đổi và khôi phục. "Biến đổi" nghĩa là đổi hướng và đi theo một hướng khác. Bởi ân điển của Đức Chúa Trời, chúng ta đã thay đổi con đường đi đến sự chết để đi theo con đường sự sống của Ngài. Từ then chốt ở đây là sự BIẾN ĐỔI.

Chúng ta đã từng "thờ ơ" hoặc xa cách Ngài vì cớ tội lỗi và sự bất tuân. Trong Đấng Christ chúng ta đã được "khôi phục" hoặc là được đem trở lại mối tương giao với gia đình hoàng tộc và đáng yêu của Đức Chúa Trời. Từ then chốt ở đây là sự KHÔI PHỤC (ý chính trong dàn bài ở trên sẽ được xem lại trong biểu đồ ở trang tiếp theo).

Phải chúng ta phải tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa trong lòng để tội lỗi chúng ta được tha và nhận được sự sống đời đời. Ngoài sự cứu rỗi chúng ta còn nhận nhiều điều khác nữa. Trong Đấng Christ chúng ta không những được tha tội mà còn nhận được nhiều quyền lợi và phước hạnh khác. Đó là:

1. Một Tâm Linh Mới.

"Ta đã đặt Linh ta trong các ngươi và khiến các ngươi bước đi trong đường lối ta và gìn giữ luật pháp ta " (Êxê 36:27 smf).

2. Một Đời Sống Mới.

"Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài " (IGiăng 5:11).

3. Một Tên Mới.

"Các ngươi sẽ được gọi theo một tên mới bởi miệng của Đức Giêhôva ban cho. .. Lần đầu tiên, ở Antiốt, các môn đồ được người ta gọi là "Cơ Đốc Nhân " (Ês 62:2; Công 11:26 smf).

4. Một Bản Tánh Mới.

"Nhưng nếu ai ở trong Đấng Christ, ấy là người được dựng nên mới (bản tánh mới). Những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới " (IICôr 5:17 smf).

5. Một Tấm lòng Mới.

"Ta sẽ ban cho các ngươi một tấm lòng mới và đặt một linh mới trong các ngươi " (Êxê 36:26 smf).

6. Một Tâm Trí Mới.

"Và phải làm nên mới trong tâm trí mình và mặc lấy người mới (bản tánh mới) tức là người được dựng nên giống như Đức Chúa Trời trong sự công bình và thánh sạch của lẽ thật. ....vì chúng ta có ý của Đấng Christ " (Êph 4:23-24; ICôr 2:16 smf).

7. Một Uy Quyền Mới.

"Ta (Chúa Jesus) sẽ ban cho các ngươi quyền bính trên tất cả quyền lực của kẻ thù. .. Hãy chống trả ma quỉ thì nó sẽ lánh xa anh em " (Lu 10:19; Gia 4:7 smf).

8. Một Gia Đình Mới.

"Tất cả những ai đã nhận Ngài thì Chúa Jsus ban cho họ quyền trở nên con cái của Đức Chúa Trời " (Giăng 1:12 smf).

9. Một Số phận Mới.

"Anh em là dòng dõi được chọn, là chức tế lễ nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời. Hầu cho anh em rao giảng nhơn đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài " (IPhi 2:9 smf).

Thật vậy, là những Cơ đốc nhân chúng ta được cứu chuộc và được phục hồi. Chúng ta đã được mua và được đem vào trong gia đình hoàng tộc đáng yêu của Đức Chúa Cha. Kế hoạch của Đức Chúa Trời cho các thời đại không thay đổi. Qua Con Ngài là Chúa Jesus, Ngài đã tha thứ tội lỗi của chúng ta và đem chúng ta trở lại địa vị có quyền năng và uy quyền.

Gia đình đầu tiên đã không hoàn thành được sự kêu gọi thiên thượng dành cho họ.

Bởi sự đắc thắng trên Satan của Chúa Jesus tại thập tự giá, "gia đình mới" của Đức Chúa Trời sẽ thành công. Đây là hy vọng vinh hiển của chúng ta. Đây là số phận thiên thượng của chúng ta, là những con trai và con gái của Đức Chúa Trời chí cao!

D. MỘT MÔ HÌNH BA ĐIỂM.

Khi chúng ta xem qua Nền Tảng Hội Thánh, chúng ta có thể nhìn thấy một mô hình ba điểm như sau:

1. Đức Chúa Trời hành động.

2. Satan phản ứng và sau đó

3. Đức Chúa Trời chống trả mạnh mẽ.

Thực hiện ý chỉ của Đức Chúa Trời bắt đầu bằng Lời của Ngài, sau đó là hành động. Lời của Ngài có hiệu quả! Khi Ngài phán thì điều đó được thực hiện! Quyền năng Thánh Linh cặp theo Lời của Ngài và mục đích thiên thượng của Ngài được bày tỏ. Chúng ta thấy điều này trong câu chuyện sáng tạo. "Đức Chúa Trời phán: Phải có sự sáng thì có sự sáng " (Sáng 1:3). Ngài phán lập tức điều đó liền có!

Sau đó Satan đã "phản ứng" lại với Lời của Đức Chúa Trời và công việc của Ngài. Nó tìm cách phá hỏng mục đích của Ngài bằng cách chối bỏ Lời Ngài và đối kháng với công việc Ngài. Nó chống lại "hành động" của Đức Chúa Trời bằng "sự phản ứng" của chính nó.

Nếu câu chuyện kết thúc ở đây thì Satan đã thắng trong cuộc chiến về Lời và Công việc. Mục đích gian ác của nó đã được thành công và ý chỉ của Đức Chúa Trời không được thực hiện. Nhưng câu chuyện chưa kết thúc vì lúc này, Đức Chúa Trời đã "chống trả".

Đức Chúa Trời luôn có lời tối hậu và hành động tối hậu. Cuối cùng ý chỉ và mục đích tốt đẹp của Ngài đã thắng sự gian ác. Nhưng điều đó cần phải có thời gian và quá trình. Đức Chúa Trời đã lựa chọn cách nói và thực hiện ý chỉ của Ngài qua Con Ngài và gia đình của Ngài.

Như đã thấy, chúng ta sẽ tìm thấy vị trí của mình trong nhà của Đức Chúa Trời qua Con của Ngài. Khi làm như vậy, quyền năng của Thánh Linh Đấng Christ sẽ nói và hành động qua chúng ta. Một ngày nào đó, gia đình hoàng tộc của Đức Chúa Trời sẽ cai trị tất cả công cuộc sáng tạo. Đây là ý chỉ của Đức Chúa Trời từ lúc ban đầu và điều đó sẽ được thực hiện. Đây là hy vọng của chúng ta, số phận của chúng ta.

E. ĐỊNH NGHĨA VỀ CÁC THUẬT NGỮ.

Mô hình ba điểm mà chúng ta đã nói ở trên sẽ được phác họa dưới đây. Chúng ta sẽ định nghĩa từng thuật ngữ vì chúng ta cần phải hiểu những khái niệm để theo dõi bài giảng này.

1. Sự Cứu Chuộc.

"Cứu chuộc" là mua hoặc đem trả lại điều gì bị mất hoặc bị người khác cướp đi. Mục đích của Đức Chúa Trời dành cho con người vào lúc sáng tạo đã bị hư hỏng và phá hoại khi con người không vâng theo lời của Đức Chúa Trời.

Bởi tội lỗi của mình nên con người đã ở dưới sự kiểm soát của ma quỉ và trở thành nô lệ của nó. Giá cứu chuộc con người là sự sống của Con Đức Chúa Trời. Chúng ta "được chuộc" khỏi quyền lực của ma quỉ bởi huyết của Chúa Jesus.

2. Sự Khôi Phục.

"Khôi phục" là đem một điều gì đó trở lại với vị trí và tình trạng nguyên thủy (ban đầu) sau khi bị hủy phá hoặc xé nát.

Khi phạm tội con người đã mất địa vị quản trị và hình ảnh của Đức Chúa Trời. Khi Ađam và Êva phạm tội thì mục đích thánh của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại đã bị ma quỉ phá hủy.

Đức Chúa Trời đã cung cấp một đường để phục hồi lại vị trí tôn trọng và uy quyền đúng đắn của mình qua Chúa Giêxu.

3. Sự Tái Sinh.

"Tái sinh" là làm sống lại những gì đã chết. Khi con người phạm tội, họ đã mất sự sống với Đức Chúa Trời. Đấng Christ đã cứu chúng ta khỏi quyền lực của Satan, tội lỗi và sự chết trên thập tự giá. Khi chúng ta tiếp nhận Đấng Christ vào trong đời sống, chúng ta đã nhận được sự chết và sự phục sinh của Ngài. Ngài đã chết vì cớ chúng ta để chúng ta có thể được đem vào sự sống trong Ngài. Ngài là sự sống của chúng ta, bây giờ và mãi mãi.

4. Sự Tái Tạo

"Tái tạo" là đem một điều gì đó trở lại với hình thức và dáng vẻ ban đầu sau khi bị hư hỏng, hư hại và bị tàn phá. Con người đã được dựng nên theo ảnh tượng đẹp đẽ của Đức Chúa Trời. Tội lỗi đã làm hỏng vẻ đẹp của bức tranh đó. Điều đó chẳng bao giờ có thể được phát triển như dự định của Đức Chúa Trời.

Tuy nhiên bởi quyền năng Thánh Linh của Đấng Christ bên trong, một lần nữa chúng ta có thể lớn lên trong vinh hiển và ân điển của Ngài. Những lỗi lầm và vết nhơ của tội lỗi được xóa đi. Ảnh tượng đẹp đẽ của Chúa Jesus sẽ lại chiếu sáng với vẻ rực rỡ, sáng láng hơn.

5. Phục Hồi.

"Phục hồi" là giành lại một điều gì đó đã bị mất. Chúng ta đã được tạo dựng nên để ở dưới hoặc "được bao phủ" bởi ánh sáng, tình yêu và uy quyền của Đức Chúa Trời. Khi con người phạm tội, họ không còn ở dưới sự bao phủ đó nữa và bị rơi vào sự tối tăm. Bởi đó con người phải bị ở dưới cơn thạnh nộ và sự đoán phạt của Đức Chúa Trời.

Khi Chúa Jesus đổ huyết ra và chết thế cho chúng ta, thì án phạt tội lỗi của chúng ta đã được trả giá. Ngài đã chết để lấy huyết Ngài bao phủ chúng ta. Bởi đức tin, chúng ta tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa thì chúng ta nhận lại được sự bao phủ của sự sáng, tình yêu và uy quyền của Đức Chúa Trời.

6. Sự Phục Hòa.

"Phục hòa" là đem một người nào đó trở lại mối quan hệ thân thiết. Đức Chúa Trời đã tạo dựng con người để tương giao với Ngài. Giống như Ápraham, chúng ta là những "người bạn" của Đức Chúa Trời (Gia 2:23). Tội lỗi đã phá vỡ tình bằng hữu đó và chúng ta trở nên kẻ thù của Ngài. Mối quan hệ yêu thương trước đây bị đánh mất. Đức Chúa Trời vẫn yêu chúng ta, nhưng chúng ta đã lựa chọn con đường không yêu thương và không vâng lời Ngài. Chúng ta đã đuổi Ngài ra khỏi cuộc đời của chúng ta.

"Làm hòa" có nghĩa là làm bạn với nhau. Khi dựng nên con người, Đức Chúa Trời đã làm cho họ trở thành bạn của Ngài. "Xa cách" có nghĩa là không làm bạn với nhau. Sự phân cách đã phá hủy tình bằng hữu đó.

Tội lỗi của con người đã phân cách con người khỏi sự tương giao với Đức Chúa Trời. Bởi ân điển của Ngài, qua sự chết của Con Ngài, Đức Chúa Trời đã phục hòa chúng ta lại với Ngài. Sự tương giao đã được khôi phục!

Phải, Nước Đức Chúa Trời sẽ đến. Ý chỉ của Ngài sẽ được nên ở đất cũng như trời. Và điều đó sẽ đến và được thực hiện bởi chính dân sự của Ngài. Họ là một dân tộc đặc biệt, những người đã được chuộc, được khôi phục, được tái sinh, được tái tạo, được phục hồi và được phục hòa. Đây là lời của Ngài. Và Ngài luôn có lời sau cùng và chung kết!

F. NHỮNG KHÁI NIỆM QUAN TRỌNG VỀ SỰ CỨU CHUỘC.

"Nền Tảng Của Hội Thánh" đặt trên Cứu Chúa vĩ đại của chúng ta là Chúa Jesus! Có nhiều thuật ngữ khác liên quan đến sự cứu chuộc và được dùng trong bài viết này. Vì tầm quan trọng của sự cứu rỗi nên tốt nhất chúng ta sẽ liệt kê và định nghĩa những thuật ngữ đó.

1. Sự Cứu Chuộc.

Điều này nói đến công việc của ân điển Đức Chúa Trời trong Đấng Christ mà bởi đó, chúng ta được:

a. Được cứu "khỏi "

sự đoán phạt, quyền lực và sự hiện diện của tội lỗi trong tương lai.

b. Được cứu "vì "

mục đích của Đức Chúa Trời và được đưa vào trong gia đình của Ngài mà trong đó chúng ta bày tỏ ảnh tượng của Con Ngài.

Khi Đấng Christ chết trên thập tự vì cớ tội lỗi của chúng ta, Ngài đã trở thành Cứu Chúa của chúng ta. Ngài đã chết thay cho chúng ta và đã trả giá (sự đoán phạt) cho tội lỗi của chúng ta. Bởi đức tin, chúng ta tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa, chúng ta cũng nhận được quyền năng của sự sống phục sinh. Khi sự sống mới này chảy vào lòng chúng ta, sẽ đem đến sự chữa lành cho tâm linh, tâm hồn và thân thể chúng ta.

Được "cứu" có nghĩa là được tha thứ, được chữa lành, được giải thoát, được làm cho trọn vẹn và được khôi phục. Chúng ta đã được an toàn, lành mạnh và tự do. Chúng ta đã được tự do để trở nên mọi sự mà Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta.

2. Sự Tái Sinh.

Từ "sinh ra" có nghĩa là tạo ra hay sản sinh ra sự sống. Sự tái sinh, như chúng ta đã học ở trên, nói đến sự sống lại hay phục hồi sự sống sau khi đã chết.

Chúng ta "đã chết" trong tội lỗi mình. Do đó chúng ta phải có một nguồn sự sống thuộc linh mới (được tái sinh) để được đem trở lại gia đình của Đức Chúa Trời.

Chỉ có một cách duy nhất để chúng ta được sinh ra trong một gia đình trên đất này. Đó là bởi sự góp phần và sự sản sinh của sự sống tự nhiên. Điều này xảy ra theo một tiến trình sinh học. Những phôi hoặc tế bào giới tính đã kết hợp với nhau để đem lại một sự sống cần thiết để tạo nên một bé trai hoặc một bé gái.

Khi chúng ta được "sinh" vào trong gia đình của Đức Chúa Trời cũng giống như vậy. Cần phải có một sự sống thuộc linh được đưa vào, tức là một hạt giống thiên thượng. "Hạt giống sự sống" đó là một thân vị và thân vị đó chính là Chúa Jesus. Khi chúng ta tiếp nhận Đấng Christ vào lòng, Ngài là sự sống để "sinh" chúng ta vào trong gia đình thánh của Đức Chúa Trời. Do đó mỗi Cơ đốc nhân đều có hai lần sinh: một lần sinh theo tự nhiên và một lần sinh thuộc linh. Đây là ý nghĩa của sự "tái sinh".

3. Sự Chuộc Tội.

Từ "chuộc tội" có nghĩa là "đồng ý" với người khác. Nói lên sự chấp thuận và bình an, là kết quả của việc làm cho những điều sai trở nên đúng.

Tội lỗi là một điều sai, nghịch lại với Đức Chúa Trời. Do đó tội lỗi làm cho chúng ta "xa cách" Đức Chúa Trời. Chúng ta cần được "phục hòa" hoặc đem trở lại sự tương giao với Ngài.

Cách duy nhất để vô hiệu hóa tác hại của tội lỗi là sự xưng nghĩa (tức là kể tội nhân là công bình). Sự xưng nghĩa không phải là một hành động bỏ qua tội lỗi hay cố tình phớt lờ sự quá phạm (như một số người đã tưởng). Đức Chúa Trời thánh khiết và công bình không thể nào bỏ qua tội lỗi.

Tội lỗi chỉ có thể được xóa bỏ, bao phủ hoặc gạt qua một bên khi sự đoán phạt tội lỗi đã được trả. Chỉ khi đó sự công nghĩa mới được thỏa mãn và tội lỗi mới được xóa đi. Khi nào sự đoán phạt tội lỗi đã được trả xong hoàn toàn thì sự tương giao mới được khôi phục.

Án phạt dành cho tội lỗi là sự chết. Trong ân điển và sự thương xót của Ngài, Chúa Jesus đã trả xong án phạt đó cho chúng ta khi Ngài chết trên thập tự vì tội lỗi chúng ta. Bằng cách này, chúng ta có thể nói rằng Huyết của Ngài đã bao phủ hoặc xóa bôi tội lỗi của chúng ta. ("Xóa bôi" có nghĩa là làm vô hiệu). Do đó sự chuộc tội là hành động của Đức Chúa Trời - qua sự chết của Đức Chúa Jesus Christ - đã khôi phục lại sự tương giao của chúng ta. Chúng ta đã được làm cho "hòa thuận" với Đức Chúa Trời.

4. Sự Công Bình.

Điều này ám chỉ đến bản tánh thánh khiết của Đức Chúa Trời. Ngài "công bình" trong tư tưởng, lời nói và việc làm, trong thái độ và hành động. Ngài công bình, tốt lành và đúng đắn trong mọi cách và mọi sự.

Đây là tiêu chuẩn "công bình" của luật pháp. Bất cứ điều gì không công bình đều là gian ác và sai lầm, nói tóm gọn là tội lỗi. Vì lý do này, con người tội lỗi không bao giờ có thể đứng trước mặt Đức Chúa Trời thánh khiết. Sự công bình và không công bình đối nghịch nhau đến đời đời. Không có nền tảng nào để hai điều đó quan hệ được với nhau.

Vì lý do này, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến để "chuộc tội" cho chúng ta. Khi chúng ta tiếp nhận Đấng Christ vào lòng làm Cứu Chúa, tội lỗi chúng ta được bỏ qua và bôi xóa. Đức Chúa Trời không còn nhìn thấy chúng ta trong tội lỗi chúng ta nữa, nhưng trong sự công bình của Con Ngài. Không những Ngài đang ở trong chúng ta mà chúng ta còn đang ở trong Ngài.

Điều này được gọi là sự công bình "được gán cho". Từ "gán cho, đặt để cho" là một từ có tính chất pháp lý. Từ này có nghĩa là một người khác đã đặt một điều gì đó vào trong tài sản của chúng ta. Phần của họ bây giờ đã thuộc về chúng ta. Địa vị và của cải của họ đã trở thành địa vị và của cải của chúng ta. Đó là tài sản chung.

Sự công bình của Chúa Jesus đã trở thành sự công bình của chúng ta. Địa vị ở bên hữu Đức Chúa Cha của Chúa Jesus đã trở thành địa vị của chúng ta (Êph 1:20-22; 2:4-6).

Ngoài sự công bình "được gán cho" là địa vị hợp pháp của chúng ta, còn có sự công bình "truyền cho" nữa. "Truyền đạt" nghĩa là đặt một điều gì đó vào. Khi chúng ta trở thành Cơ đốc nhân, một điều gì đó đã được "đặt vào trong" đời sống của chúng ta. Không những chúng ta được "ở trong Đấng Christ" theo ý nghĩa hợp pháp mà Đấng Christ còn "ở trong chúng ta" theo ý nghĩa cá nhân và thực tế nữa.

Khi tiếp nhận Đấng Christ, chúng ta cũng tiếp nhận luôn bản tánh thánh khiết, công bình của Ngài. Chúng ta có một bản tánh mới, tức là một nguồn năng lực mới bên trong, nhờ đó bây giờ chúng ta có thể bắt đầu sống một cuộc đời "công bình".

"Bản tánh cũ" của chúng ta đã chết với Chúa Jesus Christ trên thập tự giá và điều đó ban cho chúng ta quyền và sự tự do để bày tỏ "bản tánh mới" của chúng ta.

5. Sự Xưng Nghĩa.

"Xưng nghĩa" nghĩa là làm cho đúng đắn trước luật pháp và do đó thoát khỏi tội lỗi hoặc sự đoán phạt.

"Định tội" có nghĩa là xét xử một người phạm tội trước luật pháp. Tội lỗi là vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời. Do đó tất cả tội nhân đều phạm tội trước Đức Chúa Trời. Án phạt dành cho tội lỗi của chúng ta là sự chết. Đòi hỏi của luật pháp không thể được thỏa mãn khi không có sự trừng phạt tội lỗi. "Sự công nghĩa" không thể bỏ qua tội lỗi như thể nó chưa hề xảy ra.

Trong kế hoạch cứu chuộc của Đức Chúa Trời, sự thương xót và sự xưng nghĩa kết hợp với nhau trong một cách duy nhất. Điều đó là như thế này: Quan tòa (Đức Chúa Trời) không chỉ thông qua bản án mà chính Ngài cũng là người đã trả giá cho sự đoán phạt của bản án đó (sự chết của Đấng Christ). Bây giờ kẻ có tội đã "được xưng nghĩa" trước pháp luật.

Bây giờ tội nhân có thể tự do ra đi vì vị quan tòa của anh ta không chỉ là người công nghĩa (buộc Ngài phải thi hành sự đoán phạt của pháp luật) nhưng cũng là người đầy sự thương xót (vì Ngài đã trả giá cho sự đoán phạt mà sự công nghĩa của Ngài đòi hỏi nơi tội nhân).

Đây là những gì Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta trong sự chết của Đấng Christ trên thập tự giá. Tội lỗi đã bị xét xử. Án phạt đã được trả. Chúng ta đã được tha thứ và được tự do! Chúng ta đã được XƯNG NGHĨA.

 

E1.4 Chương 4: SỰ CỨU RỖI VĨ ĐẠI CỦA CHÚNG TA

Dẫn Nhập

"Nếu chúng ta còn trễ nãi sự cứu rỗi lớn dường ấy thì làm sao tránh cho khỏi được " (Hêb 2:3 smf).

Nếu bạn không quan tâm đến sự cứu rỗi lớn của bạn thì các tiên tri và các thiên sứ sẽ quan tâm.

Các tiên tri thời Cựu Ước rất quan tâm đến kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời. Họ muốn được biết chi tiết và kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho con người. Họ muốn biết cụ thể là sự cứu rỗi vĩ đại của chúng ta được trả giá như thế nào qua sự chết và sự chôn của Đấng Christ, và sự cứu rỗi đó được bảo đảm như thế nào qua sự phục sinh của Ngài. Họ không biết Ngài đã đắc thắng tội lỗi, Satan và mồ mả như thế nào.

Nhưng không phải chỉ có các tiên tri mới mong muốn được biết những điều đã được khải thị cho chúng ta ngày hôm nay mà chính các THIÊN SỨ cũng muốn biết kế hoạch vĩ đại chỉ dành riêng cho bạn!

Nhưng kế hoạch đó không dành cho các tiên tri trong Cựu Ước (Đức Chúa Trời không kể các THIÊN SỨ vào trong kế hoạch này). Ngài dành kế hoạch này cho BẠN!

Phierơ đã diễn đạt ý tưởng này trong những câu Kinh Thánh sau:

"Về sự cứu rỗi đó, các đấng tiên tri đã tìm tòi suy xét và đã nói tiên tri về ân điển định sẵn cho anh em: nghĩa là tìm cho biết thời kỳ nào và thời kỳ cách nào mà Thánh Linh Đấng Christ ở trong lòng mình đã chỉ cho, là khi làm chứng trước về sự đau đớn của Đấng Christ và về sự vinh hiển sẽ theo sau.

Các đấng ấy đã được tỏ cho rằng chẳng phải vì mình, bèn là vì anh em mà truyền ra những điều đó, là những điều hiện nay đã rao cho anh em bởi những người nhờ Đức Thánh Linh từ trên trời sai xuống mà giảng tin lành cho anh em; các thiên sứ cũng ước ao xem thấu những sự đó " (IPhi 1:10-12 smf).

Các tiên tri thời Cựu Ước đã tìm mọi cách để biết những điều mà Kinh Thánh đã nói cho chúng ta biết về kế hoạch kỳ diệu, vĩ đại mà Đức Chúa Trời đang dành cho bạn!

Nhưng nếu chúng ta không biết đến sự giàu có vĩ đại mà chúng ta có được trong sự cứu rỗi của mình thì sự thiếu hiểu biết đó sẽ giữ chúng ta ở trong địa vị bị trói buộc và nghèo nàn thuộc linh.

Để điều này không xảy ra, Cha đã sai Thánh Linh của Ngài đến để dạy cho chúng ta biết chúng ta là ai, là điều Cha đã ban cho và hoạch định cho chúng ta trong Chúa Jesus. Sứ đồ Phaolô nói rằng "... chúng ta đã nhận lấy Thánh Linh của Đức Chúa Trời để biết và hiểu những gì đã được ban cho chúng ta cách nhưng không " (ICôr 2:12 smf).

Nhiều Cơ đốc nhân đã hết lòng cầu xin những điều mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ rồi. Chính tôi cũng đã làm như vậy trong nhiều năm. Khi bạn cầu xin những điều mà đã ban cho bạn rồi thì bạn đã lãng phí thì giờ của bạn và của Đức Chúa Trời.

Thánh Linh được ban cho bạn để bạn biết được những điều mà Đức Chúa Trời đã ban cho bạn rồi trong Jesus Christ là Chúa và Cứu Chúa của chúng ta.

Do đó chúng ta phải cẩn thận nghiên cứu để xem sự cứu rỗi giữ vai trò quan trọng như thế nào trong kế hoạch vĩ đại của Đức Chúa Trời cho mọi thời đại.

A. TÌNH TRẠNG CỦA TỘI LỖI.

Vấn đề đầu tiên mà "sự cứu rỗi vĩ đại" của chúng ta phải giải quyết là vấn đề tội lỗi. Chính tội lỗi của chúng ta đã làm cho chúng ta xa cách với ý chỉ và mục đích thánh của Đức Chúa Trời dành cho đời sống chúng ta.

Chúng ta phải hiểu tại sao chúng ta là tội nhân và tại sao chúng ta phạm tội nếu chúng ta muốn hiểu sự vĩ đại trong sự cứu rỗi chúng ta.

Ở đây nói lên hai vấn đề quan trọng:

  • Có phải chúng ta là tội nhân vì chúng ta phạm tội không?

  • Hay là chúng ta đã phạm tội bởi vì chúng ta là tội nhân?

Các nhà thần học và các học giả Kinh Thánh đã bàn cãi hai câu hỏi này trải qua nhiều thế kỷ? Hầu hết mọi người đều dè dặt khi trả lời hai câu hỏi này vì bản thân họ cũng không biết chắc. Tuy nhiên câu hỏi có tầm quan trọng như thế này phải được giải đáp rõ ràng qua Kinh Thánh.

1. Bởi Một Người Mà Tội Lỗi Đã Vào Thế Gian.

Chìa khóa để hiểu được mối quan hệ giữa tội lỗi và tội nhân được tìm thấy trong Rô-ma đoạn 5. Phaolô đang nói về nguồn gốc của tội lỗi và nó đã ảnh hưởng đến mỗi một chúng ta như thế nào. Chúng ta hãy nghe ông nói:

"Bởi một người (Ađam) mà tội lỗi đã vào trong thế gian (nhân loại). Hậu quả của tội lỗi là sự chết. Do đó sự chết đã lan tỏa đến tất cả mọi người vì (trong Ađam) mọi người đều đã phạm tội " (Rô 5:12 smf).

Từ "thế gian " ở đây cũng tương tự như từ "thế gian" trong Giăng 3:16 "Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian. .."

Theo tiếng Hylạp từ "Kosmos" ám chỉ nhân loại. Phaolô muốn nói rằng là đầu của nhân loại, Ađam đã tiêm nhiễm tội lỗi của chính ông vào trong toàn thể nhân loại. Hậu quả của việc tiêm nhiễm tội lỗi khủng khiếp này là sự chết thuộc linh và thuộc thể.

Phaolô đã giải thích lẽ thật này như sau:

Giữa Ađam và Môise không có ai bị xét xử là phạm tội về tội lỗi của họ vì luật pháp chưa được ban bố. Tuy nhiên họ vẫn phải chết. Do đó sự chết của họ không là hậu quả trực tiếp của tội lỗi vì chưa có luật pháp "... vì nơi nào không có luật pháp thì nơi đó không có sự quá phạm " (Rô 4:15).

Vì vậy Phaolô giải thích rằng sự chết của họ là bởi tội của Ađam. Chúng ta đã "ở trong Ađam" khi Ađam không vâng lời Đức Chúa Trời. Do đó chúng ta phải chịu sự đoán phạt của tội lỗi đó vì chúng ta là thành viên của dòng dõi Ađam.

Đây là câu chuyện theo lời của Phaolô:

"Tội lỗi đã ở trong thế gian trước khi luật pháp của Môise được ban bố. Tuy nhiên vì chưa có luật pháp nên không có ai bị định tội cả. Dầu vậy trong suốt thời đại đó, con người đã phải chết mặc dù họ không phạm tội giống như Ađam đã phạm. .. Tội lỗi của một người (Ađam) đã cho phép sự chết cai trị cả nhân loại. .. Bởi một người không vâng lời Đức Chúa Trời mà nhiều người đã trở nên tội nhân " (5:13, 14, 17, 19 smf).

a. Căn Bệnh Giết Người.

Một ví dụ sẽ giúp chúng ta hiểu được điều này. Có một căn bệnh nan y khủng khiếp đang lan truyền nhanh chóng khắp Châu Phi và các nước Phương Tây, gọi là bệnh AIDS (Các bác sĩ gọi là Acquired Immune Deficiency Syndrome - Bệnh liệt kháng).

Như bạn biết, nếu trên da bạn có những vết cắt hoặc bầm chảy máu để virút bệnh ấy vào trong máu và thịt của bạn thì sẽ làm cho bạn bị nhiễm căn bệnh tai ác ấy.

Thông thường cơ thể của bạn có khả năng chống lại những vi trùng gây bệnh và sự truyền nhiễm vào trong cơ thể. Đó là vì bạn có một hệ thống miễn nhiễm.

Tuy nhiên nếu bạn mắc bệnh AIDS thì hệ thống miễn nhiễm trong cơ thể của bạn sẽ ngưng hoạt động. Thời gian trôi qua, những ung nhọt nguy hiểm, những vết thương và những căn bệnh truyền nhiễm sẽ xâm nhập vào mọi bộ phận trong cơ thể bạn và một vài năm sau, bạn sẽ chết.

Nhưng điều tệ hại nhất của bệnh AIDS là gì? Nếu cha mẹ bạn mắc bệnh đó, bạn sẽ bị mắc bệnh từ trong bào thai. Bạn sẽ bị sinh ra với căn bệnh đó, và chỉ trong một thời gian ngắn BẠN CŨNG SẼ CHẾT vì căn bệnh đó.

Tội lỗi cũng giống như vậy! Con người đầu tiên là Ađam tổ phụ của chúng ta đã phạm tội. Tội lỗi của ông không chỉ tiêm nhiễm cho ông mà còn cho cả hậu tự của ông nữa. Bạn và tôi sinh ra đã bị tiêm nhiễm tội lỗi và chúng ta sẽ chết về thuộc linh lẫn thuộc thể nếu không có ai cứu chúng ta.

2. Trong Ađam Tất Cả Mọi Người Đều Đã Phạm Tội Và Phải Chết.

Chân lý rất rõ ràng: Tất cả chúng ta sinh ra đã là tội nhân vì tội lỗi của Ađam. Ngoài những hành động tội lỗi về phần chúng ta thì chúng ta cũng là những kẻ thừa kế tội lỗi của Ađam. Đó là bản chất tội lỗi của ông.

Cho dù chúng ta chưa hề phạm tội một lần nào thì chúng ta vẫn là tội nhân và chịu sự đoán phạt là sự chết.

"Bởi sự quá phạm của một người mà sự đoán phạt đến với tất cả mọi người " (Rô 5:18) "Sự chết đã đến bởi một người. .. vì trong Ađam, mọi người đều chết. .." (ICôr 15:21, 22 smf).

Trong Ađam, tất cả chúng ta đã phạm tội. Trong Ađam tất cả chúng ta phải chết. Khái niệm và ý tưởng của việc "ở trong Ađam" là một lẽ thật quan trọng cần được hiểu.

Như chúng ta sẽ thấy, cũng một ý tưởng đó nói đến mối quan hệ "trong Đấng Christ" của chúng ta và cũng là một trong những lẽ thật mà chúng ta cần phải biết để hiểu về sự cữu rỗi vĩ đại của chúng ta.

a. Một Ví Dụ Về Bản Chất.

Ý tưởng về việc "ở trong một người khác" này cũng có thể nhận thấy được trong một ví dụ về bản chất.

Trong việc cố gắng tạo ra những hạt lúa tốt hơn, các nhà khoa học về nông nghiệp đã rọi những tia có năng lượng cao vào trong hạt lúa giống. Sự phóng xạ như vậy có khả năng thay đổi cấu trúc của hạt giống.

Bằng tia phóng xạ năng lượng cao này, "bản chất" của hạt lúa giống sẽ thay đổi. Cách lớn lên và tồn tại của hạt giống đó cũng đã bị thay đổi.

Hầu hết những sự thay đổi được tạo ra do phóng xạ gene (yếu tố di truyền) là có hại nhưng đôi khi những sự biến đổi này lại hóa ra tốt hơn. Những sự biến đổi do phóng xạ gây ra chỉ có thể được biết bằng cách trồng hạt giống đó, và xem thử mùa thu hoạch sẽ như thế nào.

Một hạt giống sẽ tạo ra một cây lúa có nhiều hạt. Mỗi hạt đó lại sẽ mang những biến đổi về di truyền gene, hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn. Và thế hệ hạt sau đó sẽ mang cùng một cấu trúc như vậy.

Khi những hạt giống này được trồng thì trong vài năm sẽ có một vụ mùa lớn. Mỗi cây lúa sẽ có cùng một tính chất và chất lượng giống như hạt giống đầu tiên đã được tia phóng xạ "xử lý".

Nếu những biến đổi về di truyền là tốt hơn thì họ sẽ thu được vụ mùa có chất lượng cao. Nhưng vụ mùa có chất lượng cao đó do đâu mà ra? Do hạt giống đầu tiên mà ra! Sản lượng của giống lúa tốt này đều "ở trong một hạt giống".

Nếu sự biến đổi là tệ hơn thì tình trạng cũng tương tự. Trong hạt giống xấu đó chứa đựng tiềm năng của một sản lượng hạt giống chất lượng kém. Hậu quả của việc phóng xạ sẽ duy trì cho tất cả những thế hệ theo sau.

Những thế hệ tiếp theo sau của hạt giống xấu này không cần phải phóng xạ để xử lý những hậu quả có hại do hạt giống đầu tiên gây ra nữa. Khi nó đã bị biến đổi để trở nên xấu hơn thì bản chất của hạt lúa thuộc những thế hệ tương lai của hạt giống đó đã bị thay đổi rồi.

b. Trong Thân Thể Ađam.

Bây giờ chúng ta có thể hiểu rõ hơn điều mà Phaolô muốn nói khi ông nói rằng "trong Ađam" tất cả chúng ta đều là tội nhân. Khi Ađam phạm tội, tất cả chúng ta đều ở trong thân thể của Ađam.

Hạt giống mà từ đó tôi và bạn được sinh ra là "trong Ađam" từ lúc ban đầu. Thế thì điều gì đã xảy đến cho tôi và bạn (là những người ở trong Ađam) khi Ađam phạm tội? Chúng ta trở nên giống như ông ấy là tội nhân. "Bởi vì sự quá phạm của một người mà sự đoán phạt đến trên tất cả mọi người " (Rô 5:18).

Đavít nhận thức rất rõ về lẽ thật này. Một trong những Thi Thiên của ông có chép rằng: "Thật vậy, tôi sanh ra trong sự gian ác, mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi " (Thi 51:5 bản NIV).

Đavít thừa nhận rằng từ khi sinh ra ông đã là tội nhân. Trong Ađam, ông đã trở thành tội nhân giống như tất cả những người khác.

Ông biết rằng ông cần có một tấm lòng trong sạch và một tâm linh mới không những vì tội lỗi của ông mà còn vì bản chất tội lỗi từ khi ông sinh ra nữa.

Phải, giống như Đavít, tất cả chúng ta đã được sinh ra là tội nhân bởi vì tất cả chúng ta đều ở trong Ađam. Chúng ta phạm tội bởi vì chúng ta có bản chất tội lỗi. Bản chất đó đã tự thể hiện ngay từ lúc đầu đời.

Những ai trong chúng ta là cha mẹ thì thấy điều này trong con cái mình. Chúng ta không dạy cho chúng nó phạm tội. Chúng chỉ thể hiện bản chất tự nhiên có từ cha mẹ. Chúng học rất nhanh về những cách thức hướng ý muốn của chúng trong đường lối không công bình.

Hễ khi nào ý muốn của chúng bị cản trở thì bản chất tội lỗi bé nhỏ của chúng càng lớn hơn và mạnh mẽ hơn. Tính nết tội lỗi đó dường như phát triển nhanh hơn chúng.

Tại sao như vậy? Bởi vì tất cả chúng ta đều làm theo tổ phụ Ađam của chúng ta.

"Khi Ađam phạm tội, tất cả dòng dõi của ông đã trở thành tội nhân " (Rô 5:19). Tất cả chúng ta đều ở trong Ađam từ ban đầu.

3. Tội Nhân Trong Bản Chất.

Bây giờ nói rằng bạn là tội nhân vì bạn đã phạm tội thì cũng đúng.

Phải, tất cả chúng ta sinh ra đều là những tội nhân. Nhưng chính chúng ta cũng chứng minh cho điều này bằng nhiều hành động phạm tội của chúng ta. Phaolô nói cho chúng ta biết rõ rằng "Không có một người công bình dẫu một người cũng không. .. Vì mọi người đều đã phạm tội thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời " (3:10, 23).

Do đó nếu có ai hỏi chúng ta rằng "Có phải chúng ta phạm tội vì chúng ta là tội nhân không?". Chúng ta sẽ đáp rằng "Phải".

Nếu họ cũng hỏi chúng ta rằng "Có phải chúng ta là tội nhân bởi vì chúng ta phạm tội không?". Chúng ta lại cũng đáp rằng "Phải".

Cả hai đều đúng cả. Không thể nói chỉ có điều này hoặc chỉ có điều kia.

Chúng ta sinh ra là những tội nhân, và ai cũng chứng minh cho sự thật đó bằng chính những tội phạm của mình. Do đó, chúng ta bị xét xử là tội nhân trên cả hai phương diện, bởi tội lỗi của tổ phụ chúng ta (là Ađam) và bởi chính hành động phạm tội của chúng ta. Đó là hai mặt của cùng một vấn đề.

Vâng, tất cả chúng ta đều là tội nhân trong bản chất. Tuy nhiên nhiều người sùng đạo vẫn không thấy họ cần có sự cứu rỗi. Họ không cho rằng họ là tội nhân.

Họ đã sống một cuộc đời tốt đẹp và lương thiện. Họ thường xuyên đi nhà thờ, đến các chùa chiền và dâng hiến tiền bạc. Họ đã thanh toán đủ các hóa đơn, không say sưa hoặc chửi rủa. Họ cố giữ đúng mười điều răn và tin rằng làm như thế sẽ được lên thiên đàng, bằng sự công bình riêng của họ.

Đây là một lỗi lầm bi thảm. Họ đã sai lầm, một sai lầm nghiêm trọng! Tất cả chúng ta đều là tội nhân trên cả hai phương diện, theo bản chất và theo việc làm. Đó là sự thật lịch sử và sự thật trong đời sống.

Chúng ta không thể làm được bất cứ điều gì cho chính mình. Không có một công đức nào của chúng ta lại có thể thay đổi được bản chất tội lỗi của chúng ta hoặc xóa bỏ hình phạt dành cho tội lỗi của chúng ta được.

Kinh Thánh chép rằng: "Sự công bình của chúng ta chỉ là áo nhớp " (Ês 64:6). Chúng ta không thể nào hy vọng là tội lỗi của chúng ta được xóa bỏ bởi "những công đức" của chúng ta.

Trong ánh sáng của sự thánh khiết Đức Chúa Trời, chúng ta chỉ được xem là những tội nhân. Hy vọng của chúng ta không thể nào đặt trong sự tốt lành của chúng ta, nhưng chỉ ở trong ân điển của Đức Chúa Trời mà thôi! Chúng ta phải biết rằng, trước khi chúng ta nhận được sự chữa lành của Ngài, chúng ta là những bịnh nhân hấp hối vì tội lỗi của Ađam và của chính chúng ta.

B. HÌNH PHẠT DÀNH CHO TỘI LỖI.

Chúng ta đã thấy tình trạng tội lỗi là tình trạng "chung". Chúng tôi muốn nói rằng mọi người ở mọi nơi đều là tội nhân cả. Hơn nữa hình phạt dành cho tội lỗi cũng là một hình phạt chung. Mọi người đều phải chịu chết vì tội của mình. "Mọi người đều đã phạm tội. .. và tiền công (hình phạt) của tội lỗi là sự chết " (Rô 3:23; 6:23 smf).

1. Đứng Ở Chỗ Chết.

Kinh Thánh mô tả rằng mọi người đều đang "đứng ở chỗ chết", tức là chịu tử hình. Nếu không có ân điển của Đức Chúa Trời, không có ai được ngoại trừ. Tất cả chúng ta đều phải đối diện với cùng một số phận đen tối: Sự chết!

Ngay từ ban đầu hình phạt dành cho tội lỗi không hề thay đổi. Đức Chúa Trời đã cảnh báo Ađam và Êva thật rõ ràng và dứt khoát rằng không vâng lời có nghĩa là chết.

"Các ngươi không được ăn trái cây đó. .. vì khi ngươi ăn, chắc sẽ chết " (Sáng 2:17).

Tiên tri Êxêchiên xác nhận rõ ràng hơn về án tử hình dành cho tội lỗi bằng những lời lẽ giản dị nhưng mạnh mẽ "Linh hồn nào phạm tội thì phải chết " (Êxê 18:4, 20 smf).

Không còn gì chắc chắn hơn. Tiền công hoặc hậu quả của tội lỗi là sự chết. Chúng ta là tội nhân theo bản chất và theo việc làm. Chúng ta đã lựa chọn con đường của chúng ta hơn là đi con đường của Đức Chúa Trời. "Tất cả chúng ta đều như chiên đi lạc. Ai theo đường nấy " (Ês 53:6).

Kết quả của việc làm theo ý riêng và theo đường lối riêng là gì? "Có một con đường coi dường chánh đáng cho loài người nhưng đến cuối cùng nó thành ra nẻo của sự chết " (Châm 14:12 bản NIV).

Đường lối của con người là con đường kết thúc bằng sự chết. Thật vậy điều đó không thể nào khác hơn được. Chúa Jesus phán "Ta là đường đi, chân lý và sự sống. Không ai đến với Cha mà không bởi ta " (Giăng 14:6 smf).

Ý muốn và đường lối của Đức Chúa Cha để dẫn đến sự sống đều ở trong Con Ngài. Bất kỳ một con đường nào khác đều dẫn đến sự chết. Khi chúng ta chọn sự bất tuân Đức Chúa Trời và đi con đường riêng thì điều đó chỉ đưa đến sự suy sụp và hủy diệt.

Tội lỗi có thể được định nghĩa như là dùng ý riêng và đường lối riêng để chống nghịch với ý muốn và đường lối của Đức Chúa Trời. Tất nhiên sự bất tuân chỉ dẫn đến sự chết mà thôi. Đây là lý do tại sao mà tất cả tội nhân đều phải chịu chết. Tất cả chúng ta đều cố ý lựa chọn con đường sai.

Điều đó đã bắt đầu "trong Ađam" khi ông chọn sự bất tuân Đức Chúa Trời. Chúng ta không chỉ là nạn nhân của sự lựa chọn đó mà chúng ta còn ủng hộ cho sự lựa chọn đó bằng chính hành động bất tuân của mình. Không có Đức Chúa Trời và ân điển của Ngài, chúng ta đang ở trong thế giới không có hy vọng gì cả. Sự chết là số phận của chúng ta!

C. SỰ DỰ PHÒNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI DÀNH CHO TỘI NHÂN.

Mọi tội nhân đều không có Đức Chúa Trời và không có hy vọng trong thế giới này. Thật vậy đó là một đêm tối tuyệt vọng. Nhưng từ trong đêm tối này, ánh sáng rực rỡ của tình yêu Đức Chúa Trời đã chiếu rọi vào.

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng "Nơi nào tội lỗi gia tăng thì nơi đó ân điển của Đức Chúa Trời càng dư dật " (Rô 5:20 smf).

Chúng ta hết sức vui mừng vì trong câu "tiền công của tội lỗi là sự chết. ..." còn có phần thứ hai. Phần thứ hai đi theo sau, đem đến một sứ điệp về hy vọng và tình yêu "...nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jesus Christ là Chúa chúng ta " (6:23).

1. Sự Sống Đời Đời: Món Quà Về Tình Yêu Của Đức Chúa Trời.

Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết về món quà vĩ đại của tình yêu Đức Chúa Trời trong một câu Kinh Thánh tương tự trong tin lành Giăng: "Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời " (Giăng 3:16).

a. Định Nghĩa Về món Quà.

Định nghĩa hợp lý về món quà có quan hệ đến ba điều cần thiết. Đó là:

1) Biếu.

2) Nhận.

3) Không phải trả tiền.

Quà là một món đồ được biếu không và nhận mà không cần nghĩ đến việc trả tiền.

b. Đức Chúa Trời Biếu.

Đức Chúa Trời đã biếu khi ban Con của Ngài xuống. Tuy nhiên việc biếu của Ngài sẽ không hợp lệ nếu món quà ấy không được nhận.

Bạn nên nhớ rằng "Chúa Jesus đã đến trong xứ mình song dân mình chẳng hề nhận lấy " (1:11).

Vì người Do Thái trong thời đại của Chúa Jesus đã không chấp nhận Ngài. Họ đã không tiếp nhận quyền lợi và ơn phước từ sự ban cho của Đức Chúa Trời.

"Nhưng hễ ai đã nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền trở nên con cái Đức Chúa Trời " (Giăng 1:12).

c. Sự Cứu Rỗi: Món Quà Được Ban Cho Nhưng Không.

Quà là một món đồ được cho vô điều kiện. Không cần phải trả tiền hoặc phải "mua" món quà đó.

Món quà cứu chuộc của Đức Chúa Trời được ban cho nhưng không. Ngài không đưa ra một điều kiện gì để chúng ta phải mua. Ngài cho chúng ta một món quà.

"Mọi người đều đã phạm tội và thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Và họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Giêxu Christ " (Rôma 3:23;,24 smf).

Một số người đã không hiểu rõ rằng món quà cứu rỗi được Đức Chúa Trời ban cho cách nhưng không. Do đó họ đã cố làm cho món quà đó trở thành món hàng phải mua bằng cách làm cho đường lối của họ đẹp lòng Đức Chúa Trời.

Ở Đông Nam Á có một nhóm người đã nỗ lực đến mức cực đoan bi thảm. Họ được gọi là "những người tự hành xác".

Vào ngày "thứ sáu tốt lành" trước lễ phục sinh, họ đã lấy roi da quất vào lưng họ. Một số người còn đi xa hơn là lấy đinh đóng vào tay trên thập tự giá.

Tại sao những người này lại làm những điều kinh khủng như thế trong danh Cơ Đốc Giáo? Đó là vì họ không hiểu rằng sự cứu rỗi của là một món quà. Sự sống đời đời là sự ban cho của Đức Chúa Trời.

Chúng ta không thể làm gì để kiếm được ân huệ của Đức Chúa Trời hoặc làm cho Đức Chúa Trời hài lòng về đường lối của chúng ta. Chúng ta được cứu bởi ân điển chứ không phải bởi "việc làm" (Êph 2:8, 9). Nếu sự cứu rỗi là bởi việc làm thì chúng ta có thể tự hào về những gì chúng ta đã làm để tự cứu lấy mình. "Vậy thì sự khoe mình ở đâu? Đã bị trừ bỏ rồi. Bởi luật pháp nào? Luật pháp của việc làm chăng? Không phải, nhưng bởi luật pháp của đức tin nơi Đấng Christ " (Rô 3:27).

Sự cứu rỗi của chúng ta đã được "trả đủ" ở đồi Gôgôtha. Khi Đức Chúa Jesus chết trên cây thập tự, Ngài đã phán rằng "Mọi sự đã được trọn " (tiếng Hylạp là teleo - nghĩa là được trả đủ) (Giăng 19:30). Như vậy đức tin của chúng ta đặt hoàn toàn nơi công tác mà Đấng Christ đã làm xong (hoàn tất) trên thập tự giá. Ngài đã trả giá đầy đủ và chịu sự đoán phạt (sự chết) vì cớ tội lỗi của chúng ta bằng cách chết thay cho chúng ta. Chúng ta không còn thêm hay bớt điều gì nữa cả. Những gì Ngài làm cho chúng ta đã hoàn tất, đã được trả đủ.

Những con người ở Đông Nam Á này rất chân thành. Tôi đã nói chuyện với một số người trong họ. Nhưng họ tản lờ đi. Họ không biết hoặc không hiểu sự vĩ đại của sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.

Họ đang tìm cách để được cứu nhưng họ lại làm theo cách riêng của họ. Thật vậy, họ là những người nhiệt thành nhưng sự sốt sắng và sự nhiệt thành này sẽ không cứu họ được. Cùng một lúc chúng ta có thể rất chân thành nhưng cũng rất sai lầm, đó là sự sai lầm rất nguy hiểm.

Phaolô có nói đến sự nhiệt thành trong tôn giáo như thế này trong thư Rôma: "Vì tôi làm chứng cho họ rằng họ có lòng sốt sắng về Đức Chúa Trời, nhưng lòng sốt sắng đó là không phải theo trí khôn. Bởi họ không nhận biết sự công bình của Đức Chúa Trời và tìm cách lập sự công bình riêng của mình, nên không chịu phục sự công bình của Đức Chúa Trời. Vì Đấng Christ là sự cuối cùng của luật pháp, đặng xưng mọi kẻ tin là công bình " (10:2-4 smf).

Chúng ta có thể kết luận gì? Những người như thế có chân thành không? Có. Có nhiệt thành không? Có. Có sai lầm không? Có. Có mất mát gì không? Có, bởi sự dại dột của họ!

Chúng ta không có cách nào để đạt được địa vị công bình với Đức Chúa Trời theo nỗ lực hoặc việc làm riêng của chúng ta. Cố cứu lấy mình không phải là đường lối của Đức Chúa Trời để nhận được sự sống đời đời đâu.

Sự cứu rỗi là món quà ban cho chúng ta chứ không phải là điều chúng ta phải mua. Chúng ta không thể mua món quà đó bằng bất cứ việc làm gì của chúng ta. Công tác cứu rỗi đã được Đấng Christ làm xong trên thập tự rồi. Phần của chúng ta là tiếp nhận món quà được ban cho cách nhưng không đó. Không có cách nào khác.

Nhiều người đã tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa và đã nhận được sự sống đời đời. Nhưng cũng có một số người cảm thấy rằng họ phải làm thêm một điều gì đó vào công tác đã hoàn tất của Đấng Christ trên thập tự giá. Có lẽ họ đã không tự đánh vào thân thể vật lý của họ nhưng họ đã tự đánh mình bằng cách khác.

Họ đã nhọc công để được Đức Chúa Trời ủng hộ nhưng họ chẳng bao giờ cảm thấy được chấp nhận trọn vẹn. Họ đang nỗ lực để đạt được những mục đích lớn hơn nhưng họ mãi thất bại.

Họ đã tự hành hạ mình trong sự dằn vặt bởi những cảm giác tội lỗi và bị định tội. Họ có chân thành không? Có. Có sốt sắng không? Có. Có sai lầm không? Có. Có mất mát gì không? Có. Họ không mất sự cứu rỗi nhưng đã mất niềm vui của sự cứu rỗi bởi vì sự dại dột của họ.

d. Món Quà Phải Được Nhận.

Billy Graham (nhà truyền giáo trứ danh trong thế kỷ 20) đã từng làm sửng sốt nhiều người khi ông nói rằng: "Một trong những điều mầu nhiệm nhất của sự cứu chuộc ấy là: Trong khi những người xấu sẽ vào thiên đàng thì nhiều người tốt sẽ đi xuống địa ngục".

Tại sao những người xấu lại lên thiên đàng? Bởi vì giống như tên trộm đã chết trên thập tự bên cạnh Chúa Jesus, đã tiếp nhận món quà sự sống đời đời của Đức Chúa Trời.

1) Tên Trộm Trên Thập Tự Giá. Bạn còn nhớ đến tên trộm trên thập tự giá bên cạnh Chúa Jesus không? Trong giây phút sắp chết của mình, hắn đã nói "Khi Ngài vào nước của Ngài xin hãy nhớ đến tôi " (Lu 23:42).

Lời cầu nguyện đơn sơ ấy chứa đựng đầy đức tin và tất cả yếu tố của một đức tin được cứu. Đó là những điều gì?

a) Ông ta tin Đức Chúa Jesus là Vua (Chúa).

b) Ông ta tin rằng Vua đó sẽ có một Nước.

c) Ông cầu xin được ở trong Nước đó.

Chúa Jesus đáp: "Ngày hôm nay, ngươi sẽ ở với ta trong Parađi " (Lu 23:43). Chúa Jesus chấp nhận têm trộm bởi vì tên trộm đó đã tiếp nhận Ngài là Chúa và là Vua.

Tại sao những người tốt lại xuống địa ngục? Bởi vì họ đã từ chối món quà của Đức Chúa Trời và tin cậy nơi "công đức" của mình.

Chúa Jesus nói lẽ thật này với người Pharisi là những kẻ rất sùng đạo nhưng lại bị hư mất: "Quả thật Ta nói cùng các ngươi, những kẻ thâu thuế và phường đĩ điếm sẽ vào nước Đức Chúa Trời trước các ngươi " (Mat 21:31 smf).

Tại sao những tội nhân như thế lại vào được Nước Đức Chúa Trời còn người Pharisi lại bị loại ra ngoài? Người Pharisi là những người rất sùng đạo, đã đến đền thờ cầu nguyện và dâng 1/10, đã giữ ngày kiêng ăn, ngày lễ và ngày Sabát (Lu 18:9-14).

Tại sao những người Pharisi xuống địa ngục còn phường đĩ điếm lại lên thiên đàng? Bởi vì phường đĩ điếm đã tiếp nhận món quà của Đức Chúa Trời còn người Pharisi thì không.

Thay vì vậy họ lại tìm cách nhận được sự cứu rỗi bằng những việc công bình riêng của họ. Con đường thiên thượng dẫn đến sự sống đời đời ở ngay trước mặt họ nhưng họ lại chọn con đường riêng của mình.

Phaolô nói rằng những người Do Thái theo công bình riêng đã không chịu "phục sự công bình của Đức Chúa Trời " (Rô 10:3). "Phục" nghĩa là tiếp nhận món quà cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jesus Christ.

Đối với nhiều người trong chúng ta thật khó để "phục" bất cứ điều gì. Một điều gì đó ở bên trong đã phản nghịch lại bất kỳ loại quyền bính nào, thậm chí quyền bính của Đức Chúa Trời khôn ngoan và yêu thương.

Ralph Mahoney (sáng lập viên của tổ chức MAP trên thế giới, người đã viết tác phẩm "Cây gậy của người chăn bầy ") có lần đã thuật lại cách Chúa xử lý đời sống ông khi ông còn là một thiếu niên kiêu ngạo:

"Tôi rất ngạc nhiên khi tôi thấy mình là người đầy dẫy sự kiêu ngạo về công bình riêng. Điều khó khăn nhất đối với tôi là chấp nhận món quà công bình của Đức Chúa Trời. Tôi cho rằng tôi sẽ tự cứu lấy mình và tôi sẽ khoe với Đức Chúa Trời là tôi đã làm được điều đó như thế nào!

Điều gì ở trong lòng con người đã khiến chúng ta ngạo mạn và ngu ngốc đến như thế? Chúng ta thà chết cố làm theo cách riêng của chúng ta, hơn là tiếp nhận món quà công bình nhơn từ của Đức Chúa Trời. Đối với tôi, đi bộ bằng đầu gối xuyên nước Mỹ còn dễ hơn là phải đi vài cây số và quỳ gối cách khiêm nhường trên chiếc băng cầu nguyện trong sự ăn năn.

Tôi rất sung sướng vì Cha trên trời đã kiên nhẫn với tôi trong suốt những năm đầu đời đó. Cuối cùng tôi đã đi đến ngõ cụt của con đường tôi và tìm thấy được con đường của Ngài. Sau cùng tôi đã đầu phục đời sống tôi cho ý chỉ của Ngài và chấp nhận món quà sự sống đời đời của Ngài. Tôi chẳng bao giờ hối tiếc vì sự lựa chọn đó!".

D. TẤM LÒNG NHƯ NGƯỜI CHA CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Có một câu chuyện rất hay trong Cựu Ước minh họa rõ ràng tấm lòng yêu thương như người Cha của Đức Chúa Trời. Trong câu chuyện này, Đức Chúa Trời đã tự bày tỏ Ngài không những là người Cha Sáng Tạo mà còn là người Cha Cứu Chuộc.

Tiên tri Êsai đã thấy sự mặc khải kép này về đặc tánh của Đức Chúa Trời:

"Bây giờ, hỡi Giacốp! Đức Giêhôva là Đấng đã dựng nên ngươi. Hỡi Ysơraên! Ngài là Đấng đã tạo thành ngươi, phán như vầy: Đừng sợ vì ta đã chuộc ngươi. Ta đã lấy tên ngươi mà gọi ngươi, ngươi thuộc về ta " (Ês 43:1).

Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo cũng như cứu chuộc. Để mua và đem con người trở lại mục đích với Ngài bằng sự trả giá chính mạng sống của Con độc nhất của Ngài. Ngài phải bỏ mạng như chiên con làm tế lễ để mua chúng ta trở lại, để cứu chuộc chúng ta.

1. Ápraham và Ysác: Bức Tranh Tiên Tri Về Tình Yêu Cứu Chuộc.

"Khi mọi việc kia đã xong, thì Đức Chúa Trời thử Ápraham. Ngài phán rằng: "Hỡi Ápraham! người thưa: "Có tôi đây ". Đức Chúa Trời phán rằng: "Hãy bắt đứa con một ngươi yêu dấu là Ysác đi đến xứ Môria, nơi đó hãy dâng đứa con làm của lễ thiêu ở trên một hòn núi kia mà ta sẽ chỉ cho ".

Ápraham dậy sớm, thắng lừa, đem hai đầy tớ và con mình, là Ysác cùng đi. Người cũng chặt củi để dùng về của lễ thiêu, rồi đi đến nơi mà Đức Chúa Trời đã truyền dạy.

Qua đến ngày thứ ba, Ápraham nhướng mắt lên thấy nơi đó ở lối đằng xa, thì nói cùng hai kẻ đầy tớ rằng: "Hãy ở lại đây với con lừa, ta cùng đứa trẻ sẽ đi đến chốn kia đặng thờ phượng, rồi sẽ trở lại với hai ngươi. Ápraham lấy củi về của lễ thiêu, chất trên Ysác con mình rồi người cầm lửa và dao trong tay. Cả hai cha con đồng đi.

Ysác nói cùng Ápraham rằng: "Hỡi cha ". Người đáp: "Con ơi! Cha đây ". Ysác nói: "Củi đây, lửa đây, nhưng chiên con đâu có đặng làm của lễ thiêu? " (Sáng 22:1-7).

Ở điểm này trong câu chuyện, có lẽ chúng ta tự hỏi tại sao Đức Chúa Trời lại yêu cầu một người dâng đứa con duy nhất làm của lễ. Ysác, có nghĩa là "cười", là một đứa trẻ của phép lạ khi ông được sinh ra. Khi Đức Chúa Trời ban cho Ysác, cả Ápraham lẫn Sara đều đã quá tuổi và không thể sanh con được.

Tuy nhiên Đức Chúa Trời đã hứa ban cho Ápraham một đứa con trai và Ngài đã giữ lời. Ápraham chờ đợi lời hứa đó hai mươi lăm năm và khi Ysác sinh ra, ông rất đỗi vui mừng. Bây giờ sau khoảng 20 năm, Đức Chúa Trời lại bảo Ápraham dâng đứa con duy nhất của ông làm của tế lễ. Có phải Đức Chúa Trời thật sự muốn điều đó không và nếu có thì tại sao?

Có một mục đích thiên thượng trong câu chuyện này. Mục đích đó bày tỏ một lẽ thật quan trọng. Câu chuyện này là một bức tranh tiên tri nói về kế hoạch cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Ngài muốn chúng ta hiểu rõ vai trò mà người cha và người con phải thực hiện để đạt được sự cứu rỗi cho chúng ta.

a. Ysác, Đứa Con Của Sự Vâng Lời.

Chúng ta biết Ysác là đứa con biết vâng lời. Như vậy ông là hình bóng về Chúa Jesus.

Củi dùng cho của lễ thiêu đặt trên lưng Ysác khi họ leo lên núi. Sau đó 2000 năm, đứa Con duy nhất của Đức Chúa Trời cũng đã mang cây thập tự bằng gỗ trên lưng của Ngài. Khi Ngài bước lên một ngọn núi khác, đồi Gôgôtha.

Đôi khi chúng ta lại bỏ qua sự kiện là Ápraham là hình bóng về Đức Chúa Cha. Người ta chỉ nghĩ về nỗi đau mà người Cha đã mang trong lòng khi ông cầm con dao trong tay và châm lửa vào của lễ dâng.

Đức Chúa Trời hứa với Ápraham rằng qua Ysác ông sẽ có được một dòng dõi đông như sao trên trời. Nếu Ysác chết đi thì làm sao lời hứa đó được ứng nghiệm, trừ phi có hy vọng về một sự phục sinh. Nhưng thật ra Ápraham sẵn sàng dâng Ysác làm của lễ bởi vì ông tin rằng Đức Chúa Trời sẽ khiến Ysác từ kẻ chết sống lại (Hêb 11:17-19).

b. Cả Hai Cha Con.

Có một điều rất cảm động trong câu chuyện khi chúng ta đọc thấy: "Cả hai cha con đồng đi. ..". Họ đi bên cạnh nhau trong yên lặng. Một người cha yêu thương và con mình. Một người con đáng yêu với cha mình.

Người cha Ápraham đã bước những bước đi vững vàng trong đức tin và sự vâng lời nhưng trong lòng ông nhói lên một nỗi đau. Nỗi đau đó chỉ vơi đi bởi hy vọng mà ông đã nhận được trong lời hứa của Đức Chúa Trời.

Cuối cùng sự yên lặng đã bị phá vỡ bởi câu hỏi của Ysác:

"Chiên Con đâu? ".

Điều ẩn giấu trong câu trả lời của Ápraham là một bức tranh tiên tri tuyệt vời về tình yêu cứu chuộc vĩ đại của Đức Chúa Trời.

"Ápraham đáp: Con ơi! Chính Đức Chúa Trời sẽ sắm sẵn chiên con đặng dùng làm của lễ thiêu; rồi cả hai cha con cứ đồng đi " (Sáng 22:8).

Từ "cả hai" lại xuất hiện lần thứ hai trong câu chuyện và chứa đựng nhiều ý nghĩa. Từ đó nói lên tình yêu mà họ dành cho nhau và cũng nói lên đức tin và sự vâng phục của họ đối với Đức Chúa Trời.

Có lẽ Ápraham đã nói cho Ysác biết về ý muốn của Đức Chúa Trời về sự chết và lời hứa của Đức Chúa Trời về sự sống lại của Ysác. Cả hai cha con đều sẵn sàng vâng theo lời Chúa. Ysác là một thanh niên khoẻ mạnh, ông có thể dễ dàng ngăn chặn người cha già yếu của mình lắm chứ.

Thật là sự mặc khải tiên tri về tình yêu của Đức Chúa Trời: Người cha sẵn sàng dâng đứa con yêu dấu của mình và người con sẵn sàng vâng phục để trở thành của tế lễ đó. Chúng ta có thể xem điều đó trong yên lặng với đầy ngạc nhiên.

Dĩ nhiên chúng ta biết kết thúc của câu chuyện này. Cuối cùng, Đức Chúa Trời đã sắm sẵn một sinh tế là một con chiên đực mắc trong một bụi gai gần đó. Sự sống của Ysác đã không bị đụng đến và Đức Chúa Trời làm mới lại lời hứa của Ngài với Ápraham. Qua Ysác sẽ có một dân tộc làm nguồn phước cho mọi dân trên đất.

2. Hai Ngàn Năm Sau: Một Câu Chuyện Tương Tự.

Hai ngàn năm sau, chúng ta lại thấy được một câu chuyện tương tự. Chỉ có điều là lần này không có sự giải cứu ở phút chót cho Đấng đã dâng mạng sống mình làm của tế lễ.

a. Chúa Jesus, Người Con Yêu Dấu.

Chúng ta đang nói về Con của Đức Chúa Trời. Đấng đã tự phó mình làm "Chiên Con của Đức Chúa Trời". Ápraham và Ysác là hình bóng tuyệt đẹp cho mối quan hệ Cha, Con trong Đức Chúa Trời.

Lần đầu tiên trong Kinh Thánh đã xuất hiện một từ hoặc một khái niệm rất quan trọng và đã nêu lên một khuôn mẫu ứng dụng rộng rãi hơn. Do đó từ ngữ được tìm thấy trong bối cảnh này mang một ý nghĩa rất đặc biệt.

Lưy ý trong tâm trí rằng từ "yêu" đầu tiên xuất hiện trong Kinh Thánh là đề cập đến tình yêu của cha đối với con. Nói cụ thể hơn, đó là tình yêu của Ápraham đối với Ysác.

"... Hãy bắt đứa con một ngươi yêu dấu, là Ysác " (22:2).

Từ "yêu" xuất hiện lần đầu tiên trong Tân Ước nằm trong ba sách Phúc âm tương đồng, trong câu nổi tiếng này: "Này là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đường " (Mat 3:17; Mác 1:11; Lu 3:22). Nếu Ápraham đã yêu đứa con một của ông thể ấy thì Đức Chúa Trời còn yêu Con Độc Nhất của Ngài là dường nào!

Phúc âm Giăng là phúc âm nói về tình yêu của Đức Chúa Trời. Liên hệ đầu tiên đến tình yêu vĩ đại của Đức Chúa Trời trong sách phúc âm đặc biệt này là gì? Khi thấy được điều đó, chúng ta đã vô cùng ngạc nhiên: "Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con một của Ngài hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời " (Giăng 3:16 smf).

b. Họ "Đồng Đi".

Phải, Cha đã từng yêu thương Con mình từ trong quá khứ đời đời, Ngài đã yêu thương Con (17:24). Thật vậy, Cha và Con đã yêu nhau biết bao! Nhưng chúng ta cũng được bao hàm trong tình yêu đó. Chúa Jesus phán với chúng ta rằng Cha đã yêu chúng ta như yêu chính Con của Ngài (17:23).

Chiên Con của Đức Chúa Trời đã bị giết đi từ trước khi sáng thế (Khải 13:8).

Điều này vượt quá sự hiểu biết của chúng ta, nhưng trước khi thế gian được tạo dựng nên, Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con đã lên kế hoạch cứu chuộc chúng ta trong tình yêu thương. Cả Cha và Con "đồng bước đi" trong tình yêu đó vì bạn và tôi!

Hơn nữa, cả Cha và Con "đồng thực hiện điều đó" trên thập tự giá.

Nhiều người trong chúng ta đã có suy nghĩ sai lầm rằng Cha đã lìa xa Con Ngài vào giờ phút kinh khủng mà Ngài "bị bỏ". Đúng vậy, một Đức Chúa Trời thánh khiết không thể chấp nhận tội lỗi. Và lúc đó Đấng Christ đã mang lấy tội lỗi của chúng ta trên chính thân thể của Ngài.

"Cha đã làm cho Con Ngài, Đấng không hề biết về tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho trong Ngài chúng ta có thể trở nên công bình trước mặt Đức Chúa Trời " (IICôr 5:21 smf).

Nhưng điều đó không có nghĩa là Cha không cảm thấy đau đớn về sự đau đớn của con Ngài trên thập tự.

Khi Con tinh sạch, thánh khiết và vô tội của Đức Chúa Trời mang tội lỗi của chúng ta trên thân thể Ngài thì một điều thật kinh khủng đã xảy ra. Lần đầu tiên trong suốt cả quá khứ đời đời, sự tương giao của Ngài với Cha bị cắt đứt.

Tội lỗi đã làm cho phân cách. "... vì sự gian ác của các ngươi đã làm xa cách mình với Đức Chúa Trời " (Ês 59:2).

Sự chết thuộc linh là sự xa cách với Đức Chúa Trời. Là con người, Ngài đã trả đủ cho án phạt về tội lỗi của chúng ta, chỉ một mình Ngài chịu trên thập tự giá.

Nhưng Đức Chúa Cha cũng hết sức đau đớn về hình phạt đó. Khi sự tương giao bị phá vỡ, cả hai đều phải chịu một nỗi đau khủng khiếp. Cha và Con đều đi con đường đau thương đó cho đến cuối cùng.

Phaolô đề cập đến ý nghĩa của lẽ thật đau thương nhưng rất kỳ diệu ấy trong những lời ông viết cho Hội Thánh Côrinhtô:

"Vì Đức Chúa Cha đang ở trong Đấng Christ để làm cho thế gian được phục hòa với Ngài, không kể tội lỗi của loài người nữa " (IICôr 5:19 smf).

Đây là một phần trong sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Chúa Jesus phán: "Ta ở trong Cha và Cha ở trong ta " (Giăng 14:10-11).

Khi Chúa Jesus được trinh nữ sinh ra, Kinh Thánh đã chép trong Mat 1:23 rằng: "Họ sẽ gọi Ngài là "Emmanuên", nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta". Khi nhìn thấy Đức Chúa Jesus, Giăng báptít đã tuyên bố: "Này là Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng cất tội lỗi của thế gian đi " (Giăng 1:29).

c. "Ta Sẽ Chết Thay Cho Họ".

Chúng ta nhớ lại lời của Ápraham nói với Ysác rằng: "Con ơi! Chính Đức Chúa Trời sẽ sắm sẵn (Ngài như) chiên con để dùng làm của lễ thiêu. .." (Sáng 22:8). Đức Chúa Trời đến từ thiên đàng trong Đấng Christ, mặc lấy hình ảnh con người và tự dâng mình "làm Chiên Con của Đức Chúa Trời để cất tội lỗi của thế gian ".

Những lời tiên tri này vẽ lên một bức tranh đẹp đẽ về tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta. Đức Chúa Trời đã sắm sẵn "chính Ngài" như là con chiên sinh tế thay cho tội lỗi chúng ta. Chính Ngài chịu trách nhiệm về sự cứu rỗi của chúng ta.

Đức Chúa Trời thánh khiết và công bình đã tuyên bố "Linh hồn nào phạm tội đều sẽ chết " (Êxê 18:4). Và như thế, vị quan tòa của cả trái đất này buộc toàn thể nhân loại phải chịu chết. Đó là cách duy nhất mà sự công bình có thể làm được.

Nhưng Đấng Tạo hóa toàn năng của cả vũ trụ này và vị quan tòa của toàn thể nhân loại này lại là Cha Cứu Chuộc. Ngài đã đoái xem thế giới tội lỗi trong tình yêu thương và sự thương xót và đưa ra một quyết định rất đổi kỳ diệu nhưng cũng rất kinh khủng.

"Ta sẽ chết thay cho họ. Ta sẽ chịu sự trừng phạt mà sự công bình đã đòi hỏi để cho họ được sống. Ta yêu họ vô cùng".

Và đó là điều Đức Chúa Trời đã làm. Ngài đã ở trong Chúa Jesus Christ để làm cho thế gian hòa lại với Ngài (IICôr 5:19). Ngài đã nhóm hợp toàn thể nhân loại trong con Ngài, và chết trên cây thập tự. Bây giờ đoạn Kinh Thánh trong thư tín của Phaolô gởi cho người Rôma trở nên sống động với nhiều ý nghĩa.

"Bởi tội lỗi của một người (Ađam), sự chết đã đến trên toàn thể loài người. Cũng vậy, bởi hành động công bình của một người (Đấng Christ) mà món quà sự sống được ban cho con người cách nhưng không. Trong Ngài, họ được công bình trước mặt Đức Chúa Trời.

Bởi sự bất tuân của một người (Ađam) mà mọi người trở nên tội nhân thể nào thì bởi sự vâng phục của một người (Đấng Christ) mà mọi người đều trở nên công bình thể ấy.

Đã có một lần tội lỗi cai trị xuyên qua sự chết nhưng bây giờ ân điển cai trị bằng cách làm cho chúng ta trở nên công bình trong Đức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta. Do đó chúng ta sẽ được sống mãi mãi. " (Rô 5:18, 19, 21 smf).

Nguyện sự ngợi khen thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta vì tình yêu, ân điển và sự thương xót của Ngài trong Chúa Jesus Christ!

E. HÔM NAY LÀ NGÀY CỨU RỖI.

Điều này không có nghĩa là cả nhân loại đều được cứu mà không cần phải đến với Đấng Christ cách cá nhân để nhận lấy món quà cứu rỗi của Ngài. Chúng ta nên nhớ rằng món quà sẽ không phải là quà nếu người ta không nhận lấy.

Trong Rô 5:17, Kinh Thánh cho chúng ta thấy rằng chúng ta phải "nhận" món quà sự sống nhơn từ của Đức Chúa Trời trong Chúa Jesus Christ một cách cá nhân. Nếu chúng ta không nhận món quà đó, thì món quà đó chẳng ích gì cho chúng ta cả. Sự ban cho đã thực hiện rồi chỉ còn lại sự tiếp nhận thôi. Chỉ có ai tiếp nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa thì mới hưởng được sự sống đời đời.

"Xin hãy lắng nghe! BÂY GIỜ là thì giờ thuận tiện. Hôm nay là ngày cứu rỗi " (IICôr 6:2 smf). Đức Chúa Trời kêu gọi bạn ngày hôm nay chỉ để làm một điều: tiếp nhận Con Ngài làm Cứu Chúa của bạn. Không có điều gì là đáng kể hết.

Charles Wesley đã viết một bài thánh ca rất hay là: "Trong tay tôi không còn nắm lấy điều gì cả, chỉ còn mang thập tự của Ngài mà thôi". Và ông luôn nói như vậy.

Còn Andrew Murray thì nói như thế này: "Mọi người hãy dẹp hết tất cả tội lỗi và công đức của mình sang một bên và hãy mau chạy đến với Chúa Giêxu!"

"Phải, tiền công của tội lỗi là sự chết nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta. .." (Rô 6:23).

"Ngài đã đến trong xứ mình song dân mình chẳng hề nhận lấy. Nhưng hễ ai đã nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền trở nên con cái của Đức Chúa Trời " (Giăng 1:11-12). Halêlugia, trong Ngài chúng ta có một Cứu Chúa và một sự CỨU RỖI VĨ ĐẠI!

1. Lời Cầu Nguyện Cho Sự Cứu Rỗi

"Lạy Chúa Jesus yêu dấu. Con đã nhận Ngài làm Chúa và Cứu Chúa của con. Con đã mở cửa lòng con cho Ngài, xin Ngài hãy bước vào và sống trong con. Trong lòng con tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại. Con xin lỗi Ngài về tội lỗi của con và xin ăn năn thật sự. Bởi sự giúp đỡ của Ngài và bởi Thánh Linh Ngài, con sẽ sống một cuộc đời làm cho Ngài hài lòng. A-men ".

"Nếu bạn tin trong lòng rằng Đức Chúa Trời đã khiến Chúa Jesus sống lại từ kẻ chết và nếu môi miệng bạn nói ra rằng Jesus là Chúa thì bạn sẽ được cứu " (Rô 10:9 smf).

Bây giờ bạn hãy đi nói với người khác rằng: "Tôi vừa tiếp nhận Chúa Giêxu làm Chúa và Cứu Chúa của tôi!".

F. KẾT LUẬN.

Trong chương 1,2,3,4, chúng ta đã nghiên cứu tóm tắt về nền tảng Hội Thánh trong Kinh Thánh. Chúng ta đã thấy kế hoạch của Đức Chúa Trời đã được mặc khải, bị phá hỏng và được khôi phục cách vinh hiển như thế nào rồi. Trong chương 5, chúng ta sẽ xem xét vai trò và chức năng của những người lãnh đạo trong Hội Thánh.

PHẦN II: NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO HỘI THÁNH

E1.5 Chương 5: TÂM TÁNH CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO:
BÔNG TRÁI THÁNH LINH

Phần Dẫn Nhập

Bản tánh của Đấng Christ như thế nào? Bản chất của sự sống Ngài là gì? Chúng tôi sẽ trả lời những câu hỏi này trong chương này. Bây giờ "thân vị" của Đấng Christ đang ở bên hữu của Đức Chúa Cha trên thiên đàng. Nhưng bởi Thánh Linh, "sự hiện diện" của Ngài đang ở trong bạn và tôi, và trong mọi tín đồ trên khắp thế giới.

"Anh em không còn bị xác thịt (bản chất tội lỗi cũ) kiểm soát nữa. Thánh Linh đang ở (sống) trong anh em " (8:9 smf).

Đứa trẻ sẽ thừa hưởng ở cha mẹ chúng bản chất và đặc tính của gia đình. Bản chất đó sẽ phát triển khi đứa trẻ lớn dần lên.

Nhiều đường nét cơ thể sẽ xuất hiện như màu mắt, màu da và màu tóc. Cỡ xương và chiều cao thì cần có thời gian lâu mới phát triển được nhưng "hình ảnh " của gia đình thì đã được nhìn thấy rồi. Đôi khi chúng ta nói rằng "đứa trẻ giống bố mẹ nó như "tạc".

Trong gia đình của Đức Chúa Trời cũng vậy. Khi chúng ta được sinh vào trong gia đình của Đức Chúa Trời, chúng ta đã nhận được sự sống của Đấng Christ và bản chất của Ngài. Chúng ta cũng sẽ phát triển để giống như ảnh tượng của Ngài. Bản chất và bản tánh của sự sống Ngài sẽ phát triển trong chúng ta khi chúng ta lớn lên trong Ngài.

Đây là số phận thiên thượng của chúng ta, trở nên giống như Chúa Jesus! Hy vọng vinh hiển này được Kinh Thánh nói rõ:

"Vì mặt của chúng ta không bị che phủ, nên chúng ta có thể phản chiếu vinh hiển của Chúa giống như một cái gương. Chúng ta đang được biến đổi vào trong hình ảnh của Ngài từ vinh hiển đến vinh hiển hơn nữa. Sự biến đổi này từ Thánh Linh của Chúa mà đến " (IICôr 3:18 smf).

Phải, chúng ta sẽ trở nên giống như Chúa Jesus trong bản chất, lời nói và việc làm.

A. BẢN TÁNH CỦA ĐẤNG CHRIST: BÔNG TRÁI CỦA THÁNH LINH

Bản tánh của Đấng Christ thật sự là như thế nào? Bản chất sự sống của Ngài là gì?

Trong 3:18 cho chúng ta biết Thánh Linh của Chúa chính là nguồn sự sống mới của chúng ta. Phaolô đã liệt kê những phẩm chất sự sống của Đấng Christ như sau:

"Trái của Thánh Linh ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ " (Ga 5:22-23).

Trái của Thánh Linh là bức tranh mô tả bằng lời đẹp đẽ về bản tánh của Đấng Christ. Mỗi trái là một phẩm chất cụ thể của sự sống Ngài - một khía cạnh của "bản thể" Ngài. Bản chất Ngài cũng như vậy. Ánh sáng trắng khi được chiếu qua lăng kính sẽ tỏa ra tất cả những màu sắc của một cầu vòng. Trái của Thánh Linh là những màu sắc cầu vòng sự sống của Đấng Christ.

Trái của Thánh Linh nói đến những khía cạnh đẹp đẽ của sự sống Đấng Christ. Do đó chúng ta có thể sơ lược trái của Thánh Linh như sau:

1. Những phước hạnh hướng nội

a. Tình yêu - Đáng yêu bên trong.

b. Vui mừng - Vui mừng bên trong.

c. Bình an - Bình an bên trong.

2. Những phước hạnh hướng ngoại

a. Kiên nhẫn - Kiên nhẫn với người khác.

b. Nhơn từ - Nhơn từ với người khác.

c. Hiền lành - Hiền lành với người khác.

3. Những phước hạnh hướng thượng

a. Trung tín - Trung tín với Đức Chúa Trời.

b. Mềm mại - Khiêm nhường trước mặt Đức Chúa Trời.

c. Tiết độ - Để Đức Chúa Trời kiểm soát.

Người ta dễ dàng thấy những "phước hạnh" trên sẽ có quan hệ lẫn nhau. Nếu bên trong chúng ta thấy dễ chịu, chúng ta sẽ yêu thương người khác như yêu mến Chúa. Điều đó cho thấy trái của Thánh Linh có trong mọi hướng để đem lại phước hạnh lớn. Phần liệt kê trên bao gồm nhiều đặc điểm quan trọng của sự sống Đấng Christ nhưng cũng còn có những đặc điểm khác nữa. Phaolô nêu ra chín bông trái này để làm ví dụ cho chúng ta nghiên cứu học tập.

B. NHỮNG BÍ QUYẾT DẪN ĐẾN ĐỜI SỐNG CÓ KẾT QUẢ.

1. Bản Thể Trái Ngược Với Cảm Xúc.

Thật quan trọng khi chúng ta biết rằng bông trái của Thánh Linh cho chúng ta biết Đấng Christ là gì. Đây là những phẩm chất của "bản thể" Ngài.

Đấng Christ không chỉ đáng yêu mà còn là tình yêu nữa. Ngài không chỉ vui mừng mà còn là sự vui mừng. Ngài không chỉ được bình an mà còn là sự bình an. Khi chúng ta có Đấng Christ bên trong, chúng ta có sự yêu thương, vui mừng và bình an. Do đó kết quả của những gì chúng ta có trong Ngài và ở trong Ngài, chúng ta sẽ được yêu thương, vui mừng và bình an.

Chúng ta hãy xem ví dụ về bông trái của sự vui mừng.

Chúng ta đã có sự vui mừng dù chúng ta có cảm thấy hay không bởi vì chúng ta đã có Đấng Christ ở bên trong. Ngài phán rằng Ngài chẳng bao giờ rời xa hay bỏ rơi chúng ta. Sự vui mừng của Ngài cũng không lìa chúng ta. Cảm xúc hay cảm nhận về sự vui mừng sẽ theo đức tin của chúng ta. Đó là những phản ứng của tình cảm đối với thực tại thuộc linh. Sự vui mừng của Chúa chính là Chúa!

Bông trái của sự vui mừng có thể biểu lộ nhiều cách khác nhau. Đôi khi là dữ dội, mạnh mẽ và sống động. Người ta có thể hát, la hét, nhảy múa và cười.

"Ngài đã đổi sự buồn rầu tôi ra sự khoái lạc. Mở áo tang tôi và thắt lưng tôi bằng vui mừng. Hầu cho linh hồn tôi hát ngợi khen Chúa không nín lặng. Hỡi Giêhôva Đức Chúa Trời tôi, tôi sẽ cảm tạ Chúa đến đời đời " (Thi 30:11-12).

Có khi sự vui mừng của Chúa giống như một dòng sông lớn và lặng lẽ. Sự vui mừng đó có thể dẫn đến bông trái của sự bình an như một màu trong cầu vòng đã trộn lẫn với một màu khác vậy.

2. Sự Khó Khăn Đem Đến Những Trái Tốt Nhất.

Điều này đem chúng ta đến một lẽ thật khác về bông trái của Thánh Linh. Bông trái này sẽ lớn lên tốt nhất từ mãnh đất đời sống hằng ngày đầy những khó khăn của chúng ta.

Hằng ngày chúng ta phải đối diện với nhiều điều trái ngược với đời sống của chúng ta trong Đấng Christ. Thay vì yêu thương, chúng ta phải đối diện với sự thù hằn, chống đối. Thay vì vui mừng, chúng ta phải gặp sự buồn rầu, sầu khổ và bất hạnh. Thay vì bình an, chúng ta lại thấy áp lực, căng thẳng, xích mích và xung đột. Những thế lực tối tăm này đã xâm nhập vào trong con người, nơi chốn và những sự kiện trong những công việc thuộc về đất của chúng ta.

Nhiều khi chúng ta muốn bỏ chạy và trốn thoát khỏi tất cả những điều đó. Thông thường thì chúng ta không thể trốn chạy được, và cho dù có thể được, thì điều đó cũng chẳng mang lại cho chúng ta một sự giải thoát như chúng ta mong muốn. Và điều đó lại càng đúng nếu một phần trong vấn đề đó là hậu quả của thái độ và hành động riêng của chúng ta.

Tuy nhiên, Đức Chúa Trời có câu trả lời. Phần lớn các nan đề của chúng ta bên trong hay bên ngoài, đều do các thế lực đối kháng với Trái của Thánh Linh gây ra. Chúng ta có thể gọi các thế lực này là trái của "xác thịt", tức là bản chất tội lỗi cũ của chúng ta.

Chúa Jesus luôn sản sinh ra trái "sự sống" - Trái Thánh Linh. Satan luôn sản sinh ra những trái "sự chết" - Trái xác thịt. Chúng ta lựa chọn vâng phục ai?

Trong những lúc bị áp lực, chúng ta thường bị cám dỗ phản ứng theo bản chất tội lỗi cũ. Nếu làm như thế, chúng ta đang vâng phục ảnh hưởng sai. Điều đó chỉ đem đám mây đen tối và chết chóc trên chúng ta và người khác. Hơn nữa càng làm theo xác thịt bao nhiêu, chúng ta càng trở nên tệ hại bấy nhiêu.

Vào lúc đó, những đặc điểm chết chóc này sẽ thâm nhập vào tâm tánh của chúng ta. Khi điều này xảy ra, chúng ta hành động giống ma quỉ hơn là giống Chúa.

Bức tranh buồn thảm nhất trên thế gian này là bức tranh về Cơ đốc nhân bị đánh bại. Họ có sự sống của Đấng Christ bên trong nhưng họ lại làm buồn lòng Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Hậu quả là người ta không còn thấy sự vinh hiển của Chúa chiếu sáng trên khuôn mặt của họ nữa mà chỉ toàn là bóng đen.

Sự việc có thể nói khác đi, rất khác.

Những lúc bị bối rối cũng có thể là những lúc trưởng thành nhất trong Đấng Christ. Nếu chúng ta nhìn xem sự sống và quyền năng của Thánh Linh bên trong. Chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ trong lãnh vực yếu đuối của chúng ta.

Sự sáng luôn thắng sự tối tăm. Sự tối tăm không thể dập tắt được sự sáng. Một cây nến có thể đuổi sự tối tăm ra khỏi căn phòng.

Trong lĩnh vực thuộc linh cũng vậy. Ánh sáng của tình yêu Đức Chúa Trời luôn xua đuổi bóng tối của sự sợ hãi, tức giận và buồn thảm. Thật vậy, bông trái tốt nhất của Thánh Linh Đức Chúa Trời sẽ nảy nở trong những lúc khó khăn nhất. Từ mãnh đất yếu đuối của chúng ta, Ngài sẽ làm trọn sức mạnh của Ngài. Tình yêu của Ngài sẽ kết quả tốt nhất khi chúng ta đang ở trong một hoàn cảnh không được yêu thương.

Trong những lúc tồi tệ, phản ứng tự nhiên của chúng ta là chống trả trong sự giận dữ và sợ hãi. Nhưng Thánh Linh lại tìm cách làm cho điều thiện thắng điều ác.

Khi chúng ta đầu phục Thánh Linh, tình yêu của Đức Chúa Trời sẽ gia tăng mạnh mẽ trong đời sống của chúng ta. Chúng ta trở thành những Cơ đốc nhân tốt hơn và tâm tánh của chúng ta trở nên giống Chúa Jesus càng hơn. Sự vinh hiển của Ngài ở trên chúng ta và chúng ta trở thành nguồn phước cho Đức Chúa Trời, người khác và cho chính chúng ta!

a. Cái "Giằm Xóc" Của Phaolô.

Lẽ thật về việc gây dựng tâm tánh Cơ đốc được nhìn thấy trong đời sống của sứ đồ Phaolô. Ông được ban cho một "cái giằm trong xác thịt" để giữ ông trong sự khiêm nhường. Dù cái giằm đó là gì, nó cũng đem nhiều đau đớn và khó khăn.

Ba lần ông đã xin Chúa cất điều đó ra khỏi ông nhưng lần nào ông cũng bị từ chối.

Tại sao Đức Chúa Trời lại cho phép một điều gì đó quá đau đớn trở thành một phần cuộc đời và chức vụ của Phaolô? Tại sao Ngài không cất bỏ điều đó đi khi Phaolô cầu xin? Câu trả lời rất đơn giản: Đức Chúa Trời đã dự định một điều gì đó tốt hơn cho chức vụ tương lai của Phaolô. Phaolô nói ra lẽ thật này như sau:

"Đức Chúa Trời phán với tôi rằng: Ân điển ta đủ cho ngươi rồi. Sức mạnh ta sẽ nên trọn vẹn trong sự yếu đuối của ngươi. Vì vậy tôi sẽ rất vui mừng khoe mình về sự yếu đuối tôi hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi. Vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ " (IICôr 12:9, 10).

Nguyên tắc để sinh ra bông trái tốt nhất đã được thấy rõ: Quả được kết tốt nhất từ những mãnh đất "nghịch cảnh", tức là con người và những nơi chốn trái ngược với trái của Thánh Linh.

Chính từ mãnh đất "yếu đuối" của Phaolô mà trái "mạnh mẽ" của Đức Chúa Trời mới hình thành.

Chính từ mãnh đất thù ghét người khác, sự buồn rầu và nỗi loạn của chúng ta mà bông trái yêu thương, vui mừng, bình an của Đức Chúa Trời mới kết quả.

b. Điều Tốt Đẹp Của Chúng Ta, Sự Vinh Hiển Của Ngài.

Phải, Đức Chúa Trời cho phép một số điều đau đớn, khổ nạn rắc rối nào đó đến trong đời sống chúng ta. Nhưng Ngài hứa rằng không một điều nào là vô ích cả. Tất cả những điều đó hiệp lại làm ích cho chúng ta và vì sự vinh hiển của Ngài.

"Sự tốt đẹp" và "sự vinh hiển" là bản tánh của Đấng Christ. Chức vụ của chúng ta đối với Ngài, đối với Hội Thánh và đối với thế gian đòi hỏi những bông trái Thánh Linh trong đời sống của chúng ta.

Thiếu những phẩm chất Cơ đốc là nguyên nhân chính gây nên sự sự thất bại trong chức vụ của Hội Thánh. Một người lãnh đạo có thể "được kêu gọi", "được ân tứ" nhiều và thậm chí được "thành công" trong chức vụ trong một thời gian, nhưng điều đó sẽ không kéo dài nếu không có những phẩm chất Cơ đốc.

Trái của Thánh Linh là nền tảng cho chức vụ mạnh mẽ, vững vàng, chắc chắn đới với Đức Chúa Trời. Đối với Phaolô điều đó rất đúng, và đối với chúng ta ngày hôm nay điều đó cũng rất đúng.

"Do đó chúng ta có thể vui mừng trong hoạn nạn và thử thách nữa. Chúng ta biết rằng những điều đó là tốt cho chúng ta, giúp chúng ta kiên nhẫn. Và sự kiên nhẫn sẽ tạo nên sự mạnh mẽ trong chúng ta. Bằng cách này, chúng ta đã học tập tin cậy nơi Đức Chúa Trời càng hơn.

Cuối cùng sự hy vọng và đức tin của chúng ta trở nên mạnh mẽ và vững vàng. Và sau đó dù có bất kỳ điều gì xảy ra, chúng ta cũng có thể ngẩng cao đầu. Chúng ta biết rằng tất cả mọi sự đều tốt đẹp cả và cũng biết rằng Đức Chúa Trời rất yêu chúng ta. Chúng ta cảm thấy được tình yêu nồng nàn của Ngài ở bên trong vì Ngài đã đỗ đầy Thánh Linh của Ngài vào lòng chúng ta " (Rô 5:3-5 smf).

Hãy để trái của Thánh Linh lớn lên trên nhánh của bạn. Nếu làm như vậy, bạn sẽ được kết quả trong chức vụ đối với Đức Chúa Trời, với người khác và với thế gian.

 

E1.6 Chương 6: QUYỀN NĂNG CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO (PHẦN I):
BÁP TÊM TRONG THÁNH LINH

A. CHÚA JESUS: ĐẤNG LÀM BÁP TÊM TRONG ĐỨC THÁNH LINH

Có Thánh Linh là một điều nhưng để Ngài đầy dẫy con người toàn diện của chúng ta lại là một điều khác. Chúng ta không những cần "sự sống" của Đấng Christ bên trong, nhưng cũng cần "quyền năng" để biểu lộ sự sống đó ra ngoài. Chúng ta cần được "đầy dẫy và tuôn chảy" sự sống và quyền năng của Đức Chúa Trời.

Chúng ta vẫn có thể có mối quan hệ đời sống với Chúa Jesus là "Cứu Chúa" của chúng ta nhưng chúng ta vẫn là một Cơ đốc nhân yếu đuối. Chúng ta cũng cần biết Chúa Jesus là "Đấng làm phép báptêm" toàn năng trong Đức Thánh Linh. Đây là nguồn năng lực của chúng ta để trở thành nhân chứng sống cho Chúa.

Giăng Báptít đã làm báptêm cho những người quay trở lại đạo ở sông Giôđanh. Từ "báp têm" có nghĩa là "đặt vào trong". Những tín đồ của Giăng Báptít được đặt vào sông Giôđanh. Toàn bộ thân thể của họ được nước bao phủ (tràn ngập). Giăng đã sử dụng điều này như một bức tranh để nói đến sự báptêm trong Thánh Linh do Chúa Jesus thực hiện: "Ta làm báp têm cho các ngươi bằng nước, nhưng Đấng đến sau ta (Chúa Jesus) có quyền năng hơn ta. .. Và Ngài sẽ làm báptêm cho các ngươi bằng Thánh Linh và lửa " (Lu 3:16 smf).

Chúa Jesus cũng nói về phép báptêm trong Thánh Linh này ngay trước khi Ngài trở về thiên đàng. Ngài nói với các môn đồ rằng họ cần quyền năng đầy dẫy của Thánh Linh Đức Chúa Trời trong đời sống để làm chứng nhân cho Ngài trong thế gian.

"Ta sẽ sai Đấng mà Cha đã hứa (Thánh Linh) đến với các ngươi. Vì vậy phải chờ đợi trong thành Giêrusalem cho đến khi được mặc lấy (được bao phủ) quyền năng từ thiên đàng. ..

"Vì Giăng làm báptêm bằng nước nhưng chẳng bao lâu các ngươi sẽ được báptêm bằng Thánh Linh. .. Và khi Thánh Linh giáng trên các ngươi, các ngươi sẽ nhận lấy quyền năng và làm chứng về ta. .." (Lu 24:49; Công 1:4, 5, 8 smf).

Thật vậy, Chúa Jesus đã giữ lời của Ngài bằng cách sai Đấng mà Cha đã hứa đến. Và điều đó đã xảy ra vào ngày lễ Ngũ tuần khi Ngài phán:

"Khi ngày lễ Ngũ tuần đến, họ thảy đều ở cùng một nơi. Thình lình từ trời có một tiếng giống như tiếng gió thổi mạnh. .. Và họ thảy đều được đầy dẫy Thánh Linh và bắt đầu nói các thứ tiếng mà họ chưa từng học qua " (Công 2:1, 2, 4 smf).

Vào ngày lễ Ngũ tuần có nhiều người Do Thái ở Giêrusalem. Chẳng bao lâu họ đã hợp lại thành một đám đông để theo dõi và lắng nghe cách ngạc nhiên. Sau đó Phierơ đã giải thích cho họ những gì đã xảy ra. Đức Thánh Linh đã được tuôn đổ ra như lời báo trước của tiên tri Giôên. Giôên đã nói tiên tri rằng trong những ngày sau rốt, Đức Chúa Trời sẽ làm điều này.

(Ghi chú của chủ bút: "Ngày sau rốt" trong văn mạch này là giai đoạn khởi đầu bằng sự thăng thiên của Chúa Jesus và kết thúc bằng sự trở lại trái đất của Ngài).

Hơn nữa đó là vì Chúa Jesus (Đấng đã bị người La mã và người Do Thái đóng đinh) đã từ kẻ chết sống lại và về trời. Sau đó Ngài đã đổ Thánh Linh trên những môn đồ đang cầu nguyện ở phòng cao.

Phierơ đã giảng cho đám đông trong quyền năng của Thánh Linh đó. Kết quả là người Do Thái đã bị sự sợ hãi và tội lỗi đánh động và hỏi là họ phải làm gì. Phierơ đã trả lời câu hỏi bằng những lời thật quan trọng sau:

"Hãy ăn năn, nhơn danh Chúa Jesus mà chịu báptêm để tội các ông được tha thứ rồi sau đó hãy nhận lãnh sự ban cho của Thánh Linh. Lời hứa này dành cho các ông và con cái các ông, và cho tất cả những người mà Đức Chúa Trời kêu gọi trong những ngày cuối cùng này " (Công 2:38-39 smf).

B. MÔ HÌNH BA ĐIỂM CHO ĐỜI SỐNG THUỘC LINH VÀ
QUYỀN NĂNG THÁNH LINH.

Trong câu trả lời của Phierơ ở Công vụ 2: 38-39, chúng ta thấy một mô hình có ba điểm quan trọng cho đời sống thuộc linh và quyền năng Thánh Linh. Đó là điều mà Hội Thánh đầu tiên đã tuân thủ qua suốt cả sách Công vụ. Chúng ta có thể lược qua mô hình đó bằng những từ phụ đề sau: "Ăn năn", " được báptêm" và "tiếp nhận".

1. ĂN NĂN (Bài Giảng Tóm Lược Về Sự Ăn Năn)

a. Hãy Xây Bỏ Tội Lỗi Và Đầu Phục Đức Chúa Trời.

"Hãy ăn năn! Hãy thay đổi tấm lòng và quay về với Đức Chúa Trời. Ngài sẽ xóa sạch tội lỗi của các ông đi và làm cho các ông được tươi mới bằng Thánh Linh của Chúa " (3:19 smf).

b. Tin Chúa Jesus là Chúa.

"... Hãy tin Chúa Jesus thì ngươi và cả nhà ngươi đều sẽ được cứu rỗi " (16:31).

c. Linh Sự Sống Của Ngài Sẽ Ngự Vào.

"... Chính Thánh Linh cùng tâm linh chúng ta làm chứng rằng chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời " (Rô 8:16).

"Hãy biết rằng chúng ta đang ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta vì Ngài đã ban cho chúng ta Linh của Ngài " (IGiăng 4:13).

d. Bạn Được Sanh Lại Vào Trong Nhà Của Đức Chúa Trời.

"Thánh Linh mà chúng ta có đã làm cho chúng ta trở nên con cái của Đức Chúa Trời " Rô 8:15 smf). "Bởi đức tin trong Đức Chúa Jesus Christ, tất cả anh em là con cái của Đức Chúa Trời. .. vậy, hãy mặc lấy Ngài " (Ga 3:26, 27 smf).

e. Được Báptêm Trong Thân Thể Của Đấng Christ.

"Vì tất cả chúng ta, hoặc người Do Thái hay người Gờréc, người nô lệ hay tự do, tất cả đều đã được báptêm bởi một Thánh Linh để vào trong một thân, và tất cả chúng ta cũng chịu uống chung một Thánh Linh nữa " (ICôr 12:13).

f. Thánh Linh Của Ngài Sẽ Kết Quả Trong Chúng Ta.

"Hễ ai sống trong ta và ta trong họ thì sẽ sanh ra lắm trái. .. Và trái của Thánh Linh là yêu thương, vui mừng, bình an. .." (Giăng 15:5; Ga 5:22-23 smf).

2. ĐƯỢC BÁPTEM (Bài Giảng Tóm Lược Về Báptêm Bằng Nước)

a. Báptêm Bằng Nước.

"Hãy ăn năn, ai nấy phải nhơn danh Đức Chúa Jesus mà chịu báptêm để tội mình được tha. .." (Công 2:38-39 smf). "Ai tin và chịu báptêm thì sẽ được cứu. .." (Mác 16:16).

b. Làm Báptem Trong Đức Tin Và Trong Sự Vâng Lời.

"Đức tin và sự vâng lời của Nôê trong việc đóng tàu và được cứu bởi nước là một bức tranh về sự cứu rỗi của chúng ta. Nước này là ảnh tượng về báptêm mà bây giờ đang cứu anh em " (IPhi 3:20-21; Hêb 11:7 smf).

c. Làm Báptem Như Lời Làm Chứng Về Đức Tin Của Anh Em.

"Sự vâng lời của Nôê trong việc đóng một chiếc tàu và được cứu bởi nước là một bức tranh về sự cứu rỗi của chúng ta. Và nước này là hình bóng về báptêm mà hiện nay đang cứu chúng ta và cùng bày tỏ (công khai) rằng chúng ta cũng được cứu khỏi sự chết bởi sự phục sinh của Đấng Christ " (IPhi 3:20, 21 smf).

d. Khi Được Báptêm, Bạn Nhận Lãnh Sự Thanh Tẩy Tội Lỗi.

"Bởi báptêm bằng nước, chúng ta bày tỏ rằng chúng ta cũng đã được cứu khỏi sự chết. Điều đó không phải là vì thân thể chúng ta được nước rửa sạch nhưng là bởi chúng ta đang quay về với Đức Chúa Trời và cầu xin Ngài tẩy sạch tấm lòng chúng ta khỏi tội lỗi " (IPhi 3:20, 21 smf).

"... Bởi sự chết, quyền lực của bản chất tội lỗi của anh em đã bị đánh tan rồi. Bản chất yêu mến tội lỗi của anh em đã được chôn với Ngài bởi sự báptêm. .." (Rô 6:3, 4 smf).

e. Tiếp Nhận Phép Báptêm Như Sự Phục Sinh Cho Đời Sống Mới.

"... Đấng Christ bởi quyền năng vinh hiển của Cha, đã từ kẻ chết sống lại như thế nào thì anh em cũng hưởng được đời sống mới kỳ diệu của Ngài thể ấy. Vì anh em đã trở nên một phần của Ngài. Và bây giờ anh em đang chia xẻ sự sống mới của Ngài và sẽ được sống lại như Ngài " (6:4, 5 smf).

"Trong sự báptêm, anh em không những được chôn với Ngài mà còn được sống lại đời sống mới với Ngài. Điều này là vì anh em đã tin nơi quyền năng của Đức Chúa Trời, Đấng đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại " (Cô Co2:12 smf).

f. Báptem Bằng Nước Trước Báptem Bằng Thánh Linh.

"Ta (Giăng) đã làm báptêm cho các ngươi bằng nước nhưng Ngài (Chúa Jesus) sẽ làm báptêm cho các ngươi bằng Đức Thánh Linh " (Mác 1:8 smf).

3. TIẾP NHẬN (Bài Giảng Tóm Lược Về Việc Tiếp Nhận Thánh Linh)

a. Tiếp Nhận Lời Hứa Của Cha.

"Đừng rời Giêrusalem nhưng hãy đợi lời hứa của Cha. .. Giăng đã làm báptêm bằng nước nhưng các ngươi sẽ nhận báp têm bằng Thánh Linh trong vài ngày tới ".

b. Hãy Đầy Dẫy Thánh Linh.

"Và cuối cùng khi đến ngày Lễ Ngũ tuần. .. Họ thảy đều được đầy dẫy Thánh Linh. .. một sự đổ ra từ trên " (Công 2:1, 4, 33 smf).

c. Được Chúa Giêxu Làm Báptêm Trong Thánh Linh

"... Đấng sai ta làm báptêm bằng nước có phán cùng ta rằng: Đấng mà ngươi sẽ thấy Thánh Linh ngự lên trên, ấy là Đấng làm báptêm bằng Đức Thánh Linh " (Giăng 1:33).

d. Nhận Lấy Quyền Phép Của Thánh Linh Đức Chúa Trời.

"Sau khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép. ." (Công 1:4, 5, 8 smf).

e. Làm Chứng Cho Thế Gian.

"Sau khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép và làm chứng về ta " (1:8 smf).

f. Được Dư Dật Trong Các Ân Tứ Thuộc Linh.

"Hãy ước ao các ân tứ thuộc linh. .. nhưng hãy kiếm cho được dư dật để gây dựng Hội Thánh trong tình yêu thương " (ICôr 14:1,12 smf).

C. PHÉP BÁPTEM TAM DIỆN

Thật đáng chú ý là mô hình ba điểm trên có liên hệ đến phép báptêm "tam diện". Mỗi "báptêm" lại có liên quan đến những báptêm khác. Tất cả đều đóng một vai trò quan trọng trong kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời.

Những sự báptêm đó đã hình thành nên nền tảng cho sự cứu chuộc của chúng ta trong Đức Chúa Jesus Christ. Chúng ta tìm thấy ý nghĩa của chúng trong Chúa Jesus là Cứu Chúa và Đấng làm báptêm. Chính trong Đấng Christ, và bởi Thánh Linh của Ngài, mà chúng ta nhận được quyền năng ban sự sống (khả năng truyền đạt sự cứu rỗi, sự giúp đỡ và sự chữa lành cho người khác).

Bông trái và ân tứ của Thánh Linh Ngài tuôn chảy trong chúng ta khi chúng ta duy trì mối quan hệ nồng thắm với Đấng Christ.

1. Ba Điều Chung

Cả ba "sự báptêm" này đều có ba điều chung:

a. Đối Tượng.

Là tân tín hữu hay người mới tin sẵn sàng chịu báptêm.

b. Người Làm Báptêm.

Đây là người làm báptêm cho người mới tin.

c. Môi Trường.

Đây là yếu tố mà người tin được báptêm vào.

Như chúng ta sẽ thấy trong ba sự báptêm, NGƯỜI LÀM BÁP TÊM và MÔI TRƯỜNG là khác nhau.

2. Báptêm Tam Diện Và Sự Cứu Rỗi

Ba sự báptêm có liên hệ đến mô hình ba điểm của sự cứu rỗi như sau:

a. SỰ ĂN NĂN (Báptêm Vào Trong Thân Thể Của Đấng Christ).

"Bởi cùng một Thánh Linh, tất cả chúng ta đều được báptêm vào trong một thân. Tất cả chúng ta đều cùng chia xẻ Thánh Linh đó " (ICôr 12:13 smf).

Khi chúng ta ăn năn và quay về với Đấng Christ như Cứu Chúa của chúng ta thì chúng ta sẽ được đem ra khỏi tình trạng chết thuộc linh và được vào trong đời sống biến đổi của Ngài.

Bởi Thánh Linh của Ngài, chúng ta được báp têm (được đặt vào) trong thân thể của Ngài. Do đó chúng ta trở thành những chi thể của Thân Thể Đấng Christ, Đấng làm Đầu của chúng ta.

Thánh Linh là ĐẤNG LÀM BÁPTÊM. Thân thể của Đấng Christ là nơi chúng ta được đặt vào. Chúng ta gọi điều này là MÔI TRƯỜNG. Đó là nơi sự báptêm đặt chúng ta vào.

b. ĐƯỢC BÁPTÊM (Báptêm Bằng Nước).

"Vậy hãy đi dạy dỗ muôn dân. Hãy nhơn danh Cha, Con và Thánh Linh mà làm phép báptêm cho họ " (Mat 28:10 smf).

Chúa Jesus ra lệnh cho các môn đồ Ngài làm báptêm bằng nước cho người mới tin. Các môn đồ là NGƯỜI LÀM BÁPTÊM. Nước là MÔI TRƯỜNG. Đó là nơi mà họ được đặt vào.

c. NHẬN (Báptêm Bằng Thánh Linh).

"Ta (Giăng) đã làm báptêm cho các ngươi bằng nước, nhưng Ngài (Chúa Jesus) sẽ làm báptêm cho các ngươi bằng Thánh Linh " (Mác 1:8 smf).

Đây là phép báptêm trong Thánh Linh. Chúa Jesus là ĐẤNG LÀM BÁPTÊM. Thánh Linh là môi trường. Đó là nơi chúng ta được đặt vào.

3. Mô Hình Ba Điểm Trong Sách Công Vụ.

Mô hình về sự cứu rỗi đã được tóm tắt ở trên được các sứ đồ làm theo như đã được chép trong sách Công vụ.

a. Philíp ở Samari.

"Philíp xuống thành Samari rao giảng về Đấng Christ. .. Khi họ tin (ăn năn)... họ được báptêm bằng nước. .. Phierơ và Giăng sau đó đã đến cầu nguyện cho họ để họ nhận được Thánh Linh vì Ngài chưa giáng xuống trên một người nào trong số đó. Vì vậy Phierơ và Giăng đã đặt tay trên họ và thảy đều nhận được Thánh Linh " (Công 3:5, 12, 14-17 smf).

Chú ý thứ tự:

1. Ăn Năn

2. Báptêm Bằng Nước.

3. Báptêm Bằng Đức Thánh Linh.

b. Phaolô ở Êphêsô.

"Trong khi ở Êphêsô. Phaolô tìm thấy một số môn đồ của Giăng Báptít. Ông hỏi họ: "Khi anh em tin, có nhận được Thánh Linh không? " Họ đáp: "Chúng tôi chưa hề nghe nói về Thánh Linh ".

Phaolô lại hỏi: "Anh em nhận phép báptêm nào? Họ đáp: "Báptêm mà Giăng đã dạy ". Phaolô đáp: "Báptêm bằng nước của Giăng cho sự ăn ăn - thay đổi tấm lòng và đời sống. Sau đó Giăng bảo người ta hãy tin Đấng đến sau ông. Đấng ấy là Chúa Jesus Christ ".

Khi họ nghe như vậy, họ nhận báptêm trong danh Chúa Jesus. Phaolô đặt tay trên họ thì họ nói tiếng mới và nói tiên tri " (Công 19:1-7 smf).

Chú ý thứ tự:

1) Ăn Năn.

2) Báptêm Bằng Nước.

3) Báptêm Bằng Thánh Linh.

Có những chỗ khác trong sách Công vụ cũng nói lên mô hình này (Công 8:20-39; 9:17-18; 10:35-38, 44-48; 11:1-4, 15-18).

4. Mục Đích Thiên Thượng Của Đức Chúa Trời

Đằng sau mô hình thiên thượng là mục đích thiên thượng. Mục đích của Đức Chúa Trời là chúng ta được đặt vào hoặc đâm rễ trong sự sống và quyền năng của Thánh Linh. Đây là nên tảng căn bản cho công tác và sự làm chứng của chúng ta trong thân thể Đấng Christ. Điều đó cũng rất quan trọng trong sinh hoạt Hội Thánh ngày hôm nay. Chỉ có quyền năng của Thánh Linh mới có thể hoàn thành mục đích thiêng thượng của Đức Chúa Trời.Bài giảng tiếp theo sẽ giúp chúng ta bước vào những kinh nghiệm sâu xa hơn với Đức Chúa Trời để hoàn thành mục đích của Ngài.Có một số độc giả mong muốn nhận được quyền năng của ngày lễ Ngũ tuần vào đời sống cá nhân của họ. Bằng cách làm theo điều tóm lược dưới đây, bạn sẽ có thể kinh nghiệm Báptêm trong Thánh Linh của riêng bạn.

D. CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN QUYỀN NĂNG VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI.

1. Món Quà Đức Chúa Cha Hứa Ban.

a. Lời Hứa Có Tính Cá Nhân.

Đức Chúa Trời hứa sẽ báptêm mọi Cơ đốc nhân bằng quyền năng của Thánh Linh Ngài. Mục đích của báptêm này là làm cho mỗi tín đồ có thể chia xẻ sự sống và tình yêu của Chúa Jesus cho người khác. Ngài không chỉ là Cứu Chúa của chúng ta mà còn là Đấng Làm phép báptêm quyền năng của chúng ta.

b. Những Lời Kinh Thánh.

"Giăng nói với họ rằng: Thật vậy, ta đã làm báptêm cho các ngươi bằng nước, nhưng Đấng đến sau ta lớn hơn ta. .. Ngài (Chúa Jesus) sẽ báptêm cho các ngươi bằng Thánh Linh và lửa " (Lu 3:16 smf).

"Trước khi về trời. .. Chúa Jesus bảo các môn đồ của Ngài không được rời Giêrusalem. Họ phải chờ Đấng mà Cha đã hứa như Ngài đã phán với họ: "Giăng Báptít làm báptêm bằng nước nhưng trong vài ngày nữa, các ngươi sẽ được báptêm bằng Thánh Linh " (Công 1:4-5 smf).

"Sau khi Thánh Linh giáng trên các ngươi, các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép để làm chứng về ta ở Giêrusalem, Giuđê, Samari và đến tận cùng trái đất " (1:8 smf).

c. Một Câu Hỏi Riêng.

Làm thế nào tôi có thể nhận được báptêm về quyền năng do Chúa Giêxu thực hiện trong Đức Thánh Linh? Con Đường để nhận được quyền năng của Đức Chúa Trời được tìm thấy trong Kinh Thánh và bao gồm ba bước đơn giản được khái quát sau đây:

2. Cầu Xin Trong Sự Hạ Mình.

a. Lời Hứa Có Tính Cá Nhân.

Cha trên trời biết nhu cầu và lòng khao khát của bạn. Quyền năng Thánh Linh trong sự đầy dẫy của Ngài là món quà cho bạn. Chúa Jesus đã trả giá cho món quà kỳ diệu ấy trên thập tự giá. Điều mà bạn phải làm là xin Đức Chúa Trời món quà đó và thuận phục Chúa Jesus là Đấng làm báptêm cho bạn.

b. Những Lời Kinh Thánh.

"Các ngươi nhơn danh ta cầu xin điều gì, ta sẽ làm điều đó cho các ngươi. Bằng cách này, ngươi sẽ nhìn thấy quyền năng và vinh hiển của Cha ở trong Con. .. Vâng, ta sẽ cầu xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng giúp đỡ khác. Đó là Đức Thánh Linh. Ngài là Thần Lẽ Thật sẽ ở cùng các ngươi đời đời " (Giăng 14:13, 16, 17 smf).

"Vậy ta phán cùng các ngươi, hãy cầu xin và Đức Chúa Trời sẽ ban điều ấy cho các ngươi. .. Thật vậy, nếu một người cứ tiếp tục cầu xin thì người ấy sẽ nhận. .. Nếu một đứa con xin cha trên đất bánh. .. cá. .. hoặc trứng, lẽ nào nó lại nhận được đá. .. rắn. .. hoặc bò cạp sao? Dĩ nhiên là không! Ngay cả những người cha xấu còn biết cho con cái họ những món quà tốt thay. Do đó Cha trên trời chắc chắn ban Thánh Linh cho những ai cầu xin Ngài! " (Lu 11:9,11-13 smf).

c. Lời Cầu Nguyện Cá Nhân.

"Lạy Cha thiên thượng, con đến với Cha như một đứa con. Con cầu xin được đầy dẫy quyền năng của Thánh Linh Ngài. Lạy Chúa Jesus yêu dấu, ngay bây giờ xin hãy báptêm trong quyền năng, tình yêu và sự ngợi khen của Thánh Linh Ngài. Lạy Thánh Linh, con mời Ngài làm Đấng giúp đỡ mãi mãi và nguồn năng lực bên trong của Con. Con muốn cuộc đời con là chứng nhân hằng ngày cho tình yêu và lẽ thật của Đấng Christ ".

3. Nhận Lãnh Trong Đức Tin.

a. Lời Hứa Có Tính Cách Cá Nhân.

Chúa Jesus nói rằng nếu bạn cầu xin, bạn sẽ nhận được. Ngay khi bạn lấy đức tin đến với Ngài là Đấng làmbáp têm cho bạn, Ngài sẽ báptêm cho bạn bằng Thánh Linh.Bạn sẽ được đổ đầy bên trong và tuôn tràn ra bên ngoài. Chính Thánh Linh sẽ mang đến một cảm giác ấm áp bên trong về sự hiện diện của Ngài. Khi chúng ta khai phóng đức tin của mình ra, chúng ta sẽ cảm nhận được sự bình an, yên nghỉ, quyền năng và vui mừng ở bên trong.

b. Lời Kinh Thánh.

"Đấng Christ đã trả giá cho án phạt mà luật pháp đòi hỏi về tội lỗi của chúng ta. .. để chúng ta có thể nhận được lời hứa về Thánh Linh bởi đức tin " (Ga 3:13, 14 smf)."Ngày cuối cùng của kỳ lễ trọng thể, Đức Chúa Jesus đứng lên kêu rằng: Nếu kẻ nào khát, hãy đến với ta và uống đi. Nếu ai tin ta - như Kinh Thánh đã chép - thì sông nước hằng sống sẽ tuôn chảy trong lòng của người đó. Ngài đang nói về Đức Thánh Linh mà người nào tin sẽ nhận được " (Giăng 7:37, 39 smf).

c. Lời cầu nguyện.

"Lạy Cha thiên thượng, con cảm ơn Ngài về món quà Thánh Linh trong sự dư dật của Ngài. Với đức tin của con trẻ, bây giờ con xin nhận lấy Ngài.Lạy Chúa Jesus, Con cảm ơn Ngài vì đã báptêm con trong dòng sông Thánh Linh quyền năng của Ngài. Xin hãy khiến quyền năng của Thánh Linh Ngài tuôn chảy vào trong con, hành động trong con và làm chứng qua con.Lạy Thánh Linh của Đức Chúa Trời, con cảm ơn Ngài vì đã đầy dẫy con ngay bây giờ bằng tình yêu, sự vui mừng, bình an và quyền năng của Chúa Jesus".

4. Bày Tỏ Sự Ngợi Khen.

a. Lời hứa có tính cách cá nhân.

Đức tin luôn đáp ứng lại với sự hiện diện của Thánh Linh. Phản ứng đầu tiên của bạn đối với sự đầy dẫy của Thánh Linh Đức Chúa Trời là sự tuôn đổ ngợi khen. Như đã thấy trong Kinh Thánh, điều đó thường là hình thức của một lời cầu nguyện trực tiếp hoặc một bài hát, bằng tiếng mới hoặc bằng ngôn ngữ của Thánh Linh.Những lời nói hoặc hát như vậy được tạo nên bởi những âm thanh và vần điệu mà tâm trí con người không thể hiểu được. Tuy nhiên điều đó làm cho Đức Chúa Trời hài lòng và tâm linh bạn được mạnh mẽ. Đó là dấu hiệu thiên thượng về quyền năng của Đức Chúa Trời trong đời sống bạn - vì sự tốt đẹp của bạn và vinh hiển của Ngài.

b. Lời Kinh Thánh.

"Bởi lòng đầy dẫy nên miệng mới nói ra. Người lành do nơi đã chứa điều thiện mà phát ra điều thiện " (Mat 12:34, 35).

"Họ thảy đều được đầy dẫy Thánh Linh. Sau đó bắt đầu nói những thứ tiếng hoặc ngôn ngữ không ai biết theo như Thánh Linh cho họ nói " (Công 2:4).

"Trong khi Phierơ đang nói, Đức Thánh Linh giáng xuống những người nghe. Và họ. .. ngạc nhiên. .. vì ân tứ của Thánh Linh cũng tuôn đổ trên những người không phải là Do Thái. Nhưng điều đó đã xảy ra vì họ nghe những người đó nói tiếng lạ và tôn vinh Đức Chúa Trời " (10:44-46 smf).

"Khi Phaolô đặt tay trên họ thì Thánh Linh giáng xuống. Và họ nói tiếng mới và nói tiên tri " (19:6 smf).

"Ai đang nói tiếng lạ thì không phải nói với con người nhưng với Đức Chúa Trời. Không ai hiểu được người đó đang nói gì. Tuy nhiên, trong Thánh Linh, người đó đang nói lẽ thật thiên thượng. Ai đang nói tiếng lạ thì tự gây dựng mình trong Chúa. Do đó, tôi nên làm gì? Tôi sẽ cầu nguyện trong Thánh Linh (tiếng lạ) và cũng thông giải nữa. Tôi sẽ hát trong Thánh Linh (tiếng lạ) nhưng cũng hát trong sự thông giải nữa " (ICôr 14:2, 4, 15 smf).

"Do đó chúng ta cứ tiếp tục dâng của lễ bằng sự ngợi khen, bông trái của môi miệng chúng ta, thường xuyên dâng lời cảm tạ đến danh của Ngài " (Hêb 13:15).

c. Lời Cầu Nguyện.

"Lạy Cha thiên thượng, bây giờ con bày tỏ đức tin của con và tích cực đáp ứng với sự hiện diện của Thánh Linh Ngài. Ngài sẽ làm cho con đầy dẫy sự ngợi khen, thờ phượng và cảm tạ ngay chính giờ này.

"Lạy Chúa Jesus yêu dấu. Bây giờ con xin cất giọng nói và hát của chính mình. Con sẽ đáp ứng với Thánh Linh đang ở bên trong bằng cách nói hoặc hát lớn tiếng và những lời ngợi khen, thờ phượng.

"Lạy Thánh Linh của Đức Chúa Trời, bây giờ con xin dâng miệng lưỡi của con cho Ngài kiểm soát. Con biết Ngài không chỉ làm trọn vẹn lời cầu nguyện của con mà còn làm trọn vẹn cả con người của con để con có thể mãi sống ngợi khen sự vinh hiển của Ngài ".

d. Sự Đáp Ứng Cá Nhân.

Ở điểm này, bạn đừng cầu nguyện theo tiếng mẹ đẻ. Hãy bắt đầu nói hoặc hát bằng tiếng mới dù ban đầu nó chỉ là một vài âm thanh hoặc âm điệu nhỏ. Đừng dừng lại vì Thánh Linh là thành tín. Bạn sẽ không nhận được "đá" đâu nếu bạn đang xin "bánh".Bạn càng cầu nguyện hoặc hát bằng tiếng mới của Thánh Linh bao nhiêu thì sự tuôn chảy càng dễ dàng bấy nhiêu. Đừng nghi ngờ về lời hứa của Cha nhưng hãy dâng cho Ngài sự ngợi khen và vinh hiển trong danh Chúa Jesus và trong quyền năng của Thánh Linh Ngài.Nếu ban đầu, bạn không thấy có sự tuôn đổ đầy đủ bằng tiếng mới của bạn thì đừng thất vọng và nản lòng.Cứ tiếp tục nói và hát ngợi khen Ngài là thành tín. Hơn nữa sự ngợi khen của chúng ta đến trước mặt Ngài như một thức hương có mùi thơm. Sự thờ phượng của chúng ta trong Thánh Linh là của lễ làm đẹp lòng Ngài. Chúng ta thấy sự tự do của chúng ta trong Linh của Ngài trong sự thờ phượng.Đừng nghi ngờ hành động bên trong của Đức Chúa Trời trong đời sống bạn. Hãy hy vọng rằng Thánh Linh sẽ hành động cách mới mẽ qua bạn bằng những ân tứ của Ngài. Khi bạn đáp ứng với Thánh Linh của Đức Chúa Trời bằng đức tin và sự vâng lời, bạn sẽ càng thấy quyền năng của Đức Chúa Trời đang hành động trong đời sống của bạn.Trong chương 7, chúng tôi sẽ nói đến những ân tứ của Thánh Linh và làm thế nào để bạn có thể nhận được. Hãy hy vọng trong sự cầu nguyện về những điều mới sẽ đến trong đời sống và chức vụ của bạn vì Thánh Linh muốn ban cho bạn quyền năng và quyền bính mới để thi hành chức vụ.Bạn hãy nhớ rằng, là lãnh đạo của Hội Thánh chức vụ của bạn là phải trang bị cho những chi thể của bạn để phục vụ Chúa, phục vụ lẫn nhau và phục vụ cả thế giới.

 

E1.7 Chương 7: QUYỀN NĂNG CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO (PHẦN II):
CÁC ÂN TỨ THÁNH LINH

Phần Dẫn Nhập

Nhận lãnh các ân tứ Thánh Linh là kết quả tự nhiên của việc được báptêm bằng Thánh Linh. Trong thời kỳ Hội Thánh đầu tiên, khi các tín đồ được báptêm bằng Thánh Linh, họ đã nói các tiếng như Thánh Linh cho họ nói (Công 2:4).Vì vậy họ đã bắt đầu bước đi với Chúa bằng ân tứ nói tiếng lạ (tiếng mới) (ICôr 12:10). Chúng ta có thể hy vọng điều đó sẽ đến với chúng ta khi chúng ta được báptêm Thánh Linh (xem Công 2:1-6; 10:44-46; 19:1-6).Nếu bạn chưa nhận được phép báptêm Thánh Linh, xin hãy xem lại chương 5. Chương đó sẽ giúp bạn nhận lãnh Thánh Linh.

A. NHỮNG ÂN TỨ THÁNH LINH:
MỤC ĐÍCH / QUYỀN NĂNG CỦA CÁC ÂN TỨ ĐÓ.

Như chúng ta đọc trong sách Công vụ, các Cơ đốc nhân đã hành động trong quyền năng của kinh nghiệm ngày Ngũ tuần. Khi họ làm như vậy, những ân tứ của Thánh Linh trở nên sống động trong công tác và sự làm chứng của họ cho Đức Chúa Trời.Nói tiên tri và nói tiếng mới (những ngôn ngữ chưa hề học đến) đều đã được các đoạn Kinh Thánh ở trên ghi lại. Các ân tứ khác như Lời khôn ngoan, phân biệt các linh, đức tin, chữa bệnh, làm phép lạ... đều được tìm thấy trong suốt sách Công vụ.Trái của Thánh Linh làm cho chúng ta trở nên giống Chúa Jesus trong "bản tánh" của Ngài. Bản tánh có của Ngài có liên hệ đến "phẩm hạnh" của Ngài.Những ân tứ Thánh Linh làm cho chúng ta nên giống như Chúa Jesus trong "quyền năng" của Ngài. Quyền năng của Ngài là sự bày tỏ "khả năng" siêu nhiên của Ngài (chẳng hạn như chữa bệnh, đuổi quỉ...).Trong thư tín thứ nhất gởi cho Hội Thánh Côrinhtô, sứ đồ Phaolô có nói đến các ân tứ thuộc linh (xem ICôr 12:1-14:23). Khi nghiên cứu kỹ những gì ông viết, chúng ta thấy rằng những ân tứ này không tô điểm cho những khả năng tinh thần hoặc khả năng thiên nhiên của chúng ta. Những ân tứ đó có thể hành động qua hoặc với tâm trí của con người nhưng những ân tứ đó từ Thánh Linh mà đến và bởi quyền năng của Ngài mà ra. Đó là những ân tứ từ Đức Chúa Trời, được ban cho các tôi tớ của Ngài và cho dân sự của Ngài.

1. Đức Chúa Trời Ban Cho Ân Tứ.

a. Vì một mục đích cụ thể.

b. Vào một thời điểm cụ thể.

c. Qua những con người cụ thể.

d. Cho những con người cụ thể.

Các ân tứ được ban cho chúng ta dùng để đem lại sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời và để giúp đỡ mọi người.Chúng ta có thể nhen lại các ân tứ và vận dụng chúng (IITi 1:6). Tuy nhiên chúng ta phải luôn vận dụng các ân tứ này trong sự thuận phục quyền chủ tể của Đức Thánh Linh.Chúng ta nên giữ các ân tứ của Đức Chúa Trời ban cho chúng ta trong sự đầu phục Ngài. Nếu chúng ta làm như vậy, Đức Chúa Trời sẽ được vinh hiển và những nhu cầu của dân sự sẽ được đáp ứng bởi những khả năng siêu nhiên được ban cho chúng ta.Những ân tứ đó không phải là "phần thưởng" dành cho những người có đời sống tốt và thánh khiết. Đó là những "món quà" của ân điển Đức Chúa Trời sẽ hành động qua những người có đức tin.

2. Sự Nguy Hiểm: Quyền Năng Không Có Phẩm Hạnh.

Buồn thay, điều này có nghĩa là ân tứ của Đức Chúa Trời đôi khi được sử dụng trong những cách thức sai trật và lý do sai trật. Samsôn là một ví dụ điển hình trong Cựu Uớc. Phẩm hạnh của Samsôn là không tốt. Ông sống với một kỵ nữ - và bà ấy đã làm cho ông sa ngã và bị hủy diệt. Sự lạm dụng như vậy sẽ dẫn đến sự đoán phạt và quở trách của Đức Chúa Trời.Hậu quả sẽ rất nghiêm trọng cho chứ vụ của một người hầu việc Chúa như thế. Đó là lý do tại sao phẩm hạnh của một người lại quan trọng đến thế.Trái và ân tứ của Thánh Linh luôn đi kèm với nhau. "Bản tánh" và "quyền năng" của Đức Chúa Trời là hai người bạn chí thân luôn gắn bó với nhau. Người nào hủy phá phẩm hạnh của mình chính là hủy phá những gì mà ân tứ của mình đã gây dựng nên.

3. Nhiều Ân Tứ.

Có nhiều ân tứ thuộc linh khác nhau. Trong thư tín thứ nhất gởi cho Hội Thánh Côrinhtô, Phaolô đã liệt kê một số ân tứ phổ biến như:

"Mỗi người đều được ban cho một ân tứ thuộc linh để sử dụng cách cho ích chung.

"Thánh Linh ban cho người này lời khôn ngoan, Ngài ban cho người kia lời tri thức. Cũng Thánh Linh đó ban cho người khác lời đức tin, người khác nữa thì được ban cho ơn chữa bệnh, hoặc làm các phép lạ. Thánh Linh ban cho một người nào đó ơn tiên tri, trong khi người khác lại nhận ơn phân biệt các linh. Một số người lại nhận ơn nói các thứ tiếng (những ngôn ngữ không học) nhưng người khác lại được ơn thông giải các thứ tiếng ấy.

"Chính Thánh Linh đó đã làm tất cả những điều này. Ngài quyết định ai sẽ là người nhận ân tứ nào " (ICôr 12:7-11 smf).

B. KHÁI QUÁT VỀ CÁC ÂN TỨ THUỘC LINH.

Các ân tứ được liệt kê trong 12:7-11 làm cho các Cơ đốc nhân trở nên giống Chúa Jesus càng hơn trong (1) Tư tưởng, (2) lời nói, (3) hành động.Điều này là cơ sở của sự khái quát như sau:

1. Các Ân Tứ Mặc Khải (Tư Tưởng).

a. Lời Tri Thức.

Trong ân tứ này, Đức Chúa Trời làm cho chúng ta biết những sự kiện hoặc những điều mà chúng ta không hề biết gì cả. Đó là một điều siêu nhiên và thường được ban cho chúng ta qua một ấn tượng nhẹ nhàng trong tâm trí, qua một bức tranh được hình thành trong đầu chúng ta hoặc một cảm nhận trong lòng chúng ta (xem Giăng 1:48; 4:17; Công 5:3-5; 21:10-11).

b. Lời Khôn Ngoan.

Lời khôn ngoan định rõ hành động mà chúng ta nên làm phù hợp với những gì chúng ta biết bởi lời tri thức. Khi Đức Chúa Trời mặc khải cho chúng ta một điều gì đó, chúng ta cần biết "thế nào", "khi nào", "ở đâu" và qua "người nào" thì ý chỉ và kế hoạch của Ngài có thể được thực hiện. Chúng ta cần một sự khôn ngoan cụ thể về cách áp dụng Lời tri thức đó (Mat 22:18-21; Lu 12:12; Công 15:13-31).

c. Phân Biệt Các Linh.

Đây là khả năng thiên thượng để nhận biết lực lượng thuộc linh đằng sau những hành động siêu nhiên đó là thuộc về:

1) Trời,

2) Con người hoặc

3) Địa ngục.

Qua ân tứ phân biệt các linh, chúng ta có thể biết loại linh nào đang biểu lộ qua công cụ con người đang ở dưới quyền lực hoặc ảnh hưởng đó.Chẳng hạn linh bói khoa (hoặc ma thuật) có thể bắt chước Lời Tri Thức (so sánh 16:16-18ICôr 14:24-25). Linh tật nguyền có thể dấu mặt trong cơ thể của một người dưới dạng một bệnh thông thường. Một uế linh (linh của sự vô luân v.v...) có thể được cảm nhận như tình yêu thay vì tình dục.

2. Những Ân Tứ Về Ngôn Ngữ (Lời Nói).

a. Ơn Tiên Tri.

Đây là ơn nói tự phát do Thánh Linh thúc giục để "nói ra" lời của Đức Chúa Trời. Mục đích của ân tứ này là để gây dựng, yên ủi, nâng đỡ dân sự của Chúa. Ơn tiên tri giống như một dòng sông tuôn chảy mà trong đó có thể nổi lên một lời tri thức để "báo trước" hoặc tiên tri về tương lai (Công 11:28; 20:23; 21:4, 10, 11; ICôr 14:3, 24, 25).

b. Nói Tiếng Lạ.

Đây là nói một ngôn ngữ khác cách siêu nhiên dưới dạng những âm thanh, âm điệu mà người nói cũng không biết.Thông thường đó là những lời cầu nguyện với Đức Chúa Trời, lời chúc phước và cảm tạ Chúa. Ba biểu lộ này đôi khi được đệm theo với những giai điệu do Thánh Linh ban cho để tạo nên những lời hát hoặc bài hát dâng lên Chúa. Đôi khi việc nói tiếng lạ lại chứa đựng một sứ điệp của Đức Chúa Trời cho dân sự của Ngài, đầy dẫy quyền năng và mục đích thuộc linh.Ân tứ này đã chuẩn bị tấm lòng dân sự của Chúa cho "sự thông giải". Ân tứ này cũng có thể là một "dấu hiệu" về sự hiện diện của Đức Chúa Trời cho người vô tín (ICôr 14:22).

c. Thông Giải Tiếng Lạ.

Ân tứ này thường tương đương (ngôn ngữ mà những người có mặt hiểu được) với những điều do ân tứ tiếng lạ nói ra. Mục đích của ân tứ này là giải thích hoặc dịch lại những điều tiếng lạ nói ra.Ân tứ này giống như thông dịch những gì đã được nói bằng tiếng lạ. Nếu việc nói tiếng lạ là một lời cầu nguyện thì sự thông giải cũng là một lời cầu nguyện. Đôi khi lời thông giải được đệm theo bằng một bài hát, hoặc một lời ngợi khen, hoặc lời cảm tạ Đức Chúa Trời, hoặc để khích lệ Hội Thánh (14:5, 6, 15).

3. Những Ân Tứ Về Quyền Năng (Hành Động).

a. Đức Tin.

Đây là một đức tin siêu nhiên ("biết" mà không hề nghi ngờ) khiến cho bạn công bố Lời (rhema) và ý muốn của Đức Chúa Trời. Điều này đem đến sự bày tỏ quyền năng lạ lùng của Đức Chúa Trời. Điều đó xảy ra vượt quá sự cảm nhận và lý luận của tâm trí con người (Hêb 11:1; Mat 21:14-21; Công 3:4-9, 16).

b. Ân Tứ Chữa Bệnh.

Trong tiếng Hylạp ân tứ này ở dạng số nhiều, "Các ân tứ về sự chữa bệnh". Đây là những công việc thiên thượng của Đức Chúa Trời mà bởi đó những tâm hồn và thân thể bệnh hoạn được chữa lành.Một số người cảm nhận rằng mỗi loại bệnh cụ thể thì có một ân tứ chữa bệnh khác nhau. Vì vậy mỗi nhu cầu của từng người bệnh mới có thể được đáp ứng (Mat 8:16, 17 Mác 16:17, 18; Công 28:8, 9).

c. Phép Lạ.

Đây là những công việc kỳ diệu, quyền năng trong lãnh vực tự nhiên. Đó là những sự kiện "siêu nhiên" vượt quá các qui luật vật lý. Mục đích của các ân tứ này là bày tỏ quyền năng và uy quyền của Đức Chúa Trời (Mat 14:16-21; Mác 16:17-20; Công 19:11-12; 28:1-6).

C. KẾT LUẬN.

Nếu bạn nghiên cứu chi tiết hơn về những ân tứ Thánh Linh thì bạn sẽ thấy nhiều điều thú vị. Bạn hãy xem phần D sẽ có phần nghiên cứu kỹ lưỡng về các ân tứ Thánh Linh. Tuy nhiên, ở điểm này, rõ ràng là "trái" và "ân tứ" của Thánh Linh đều cần thiết cho những người lãnh đạo Hội Thánh và những chi thể trong Hội Thánh để trở nên giống như Chúa Jesus trong cả tâm tánh và quyền năng.Hơn nữa, như chúng ta sẽ thấy, những ân tứ đó cũng rất cần thiết cho chúng ta để hoàn thành chức vụ hoặc "sự kêu gọi" của chúng ta. Chủ đề này sẽ tiếp theo trong chương 8.

 

E1.8 Chương 8: SỰ KÊU GỌI CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO:
CHỨC VỤ ÂN TỨ

Phần Dẫn Nhập

Chương trình của Đức Chúa Trời cho Hội Thánh bao gồm việc trang bị cho tất cả các chi thể để họ trở thành những chi thể biết phục vụ Chúa. Theo Êph 4:11, 12 thì các ân tứ lãnh đạo của các vị sứ đồ, tiên tri, nhà truyền giáo, mục sư và các giáo sư là để trang bị cho các chi thể trong Hội Thánh để những chi thể đó có thể thi hành chức vụ.Trái và ân tứ của Thánh Linh Đức Chúa Trời làm cho những nhà lãnh đạo Hội Thánh có thể hoàn thành " sự kêu gọi" hoặc chức vụ của họ trong Thân thể Đấng Christ. Như đã nói, công việc chính của người lãnh đạo là huấn luyện và trang bị cho những chi thể để trở thành những người hầu việc Chúa. Đó là điều mà chúng ta là những người lãnh đạo phải làm. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta có sẵn quyền năng và uy quyền để làm điều đó.Thánh Linh đến trên chúng ta để ban cho chúng ta quyền năng và uy quyền. Thật vậy, chữ "trên" khi chỉ về Thánh Linh, thì gần như luôn nói đến bổn phận và uy quyền thiên thượng.

A. NGƯỜI HẦU VIỆC CHÚA:
QUYỀN NĂNG VÀ UY QUYỀN THUỘC LINH CỦA NGƯỜI ĐÓ

1. Chúa Jesus: Là Đầu Của Hội Thánh.

Đầu của Hội Thánh và của những người lãnh đạo Hội Thánh là Chúa Jesus Christ. Quyền bính của những người lãnh đạo Hội Thánh do nơi cái Đầu của họ mà đến. Chúa Jesus phán rằng: "Tất cả quyền phép trên trời và dưới đất đã giao cho ta" (xem Mat 28:18).Hãy chú ý đến những câu Kinh Thánh sau đây để thấy quyền phép và uy quyền của Đấng Christ có liên quan đến sự hiện diện của Thánh Linh "trên" Ngài như thế nào:"Thần của Đức Giêhôva sẽ ngự trên Ngài, tức là Thần khôn ngoan và thông sáng, thần mưu toan và mạnh sức, thần hiểu biết và kính sợ Đức Giêhôva. Ngài lấy sự kính sợ Đức Giêhôva làm vui, chẳng phán xét theo mắt mình thấy và chẳng cứ sự tai nghe mà đoán định. Nhưng Ngài sẽ dùng sự công bình xét đoán kẻ nghèo và xử lẽ ngay thẳng cho kẻ nhu mì trên đất. Ngài sẽ đánh thế gian bằng cây gậy của miệng mình, và lấy hơi thở nơi môi mà giết kẻ ác. " (Ês 11:2-4 smf).

"Hãy xem đầy tớ của ta đây, là kẻ mà ta nâng đỡ, là kẻ ta chọn lựa và ta vui mừng về người. Ta sẽ đặt Thần của ta trên người. Người sẽ đem sự công bình và lẽ thật đến cho mọi dân tộc. .. Người sẽ đem sự công bình đến cho những kẻ đã bị đối xử bất công " (42:1, 3 smf).

"Thần của Chúa Giêhôva ngự trên ta; vì Đức Giêhôva đã xức dầu cho ta đặng giảng tin lành cho kẻ nghèo và cho kẻ bị đối xử bất công. Ngài đã sai ta đến để yên ủi những người có lòng tan vỡ, giải phóng những kẻ bị trói buộc, mở mắt cho kẻ mù. .. Vì ta, Đức Giêhôva, yêu mến sự chánh trực " (61:1-8 smf).

"Và Thánh Linh đã ngự xuống trên Ngài. .. Sau đó Chúa Jesus trở lại Galilê đầy dẫy quyền năng của Thánh Linh. .. Dân chúng rất ngạc nhiên về sự giảng dạy của Ngài vì lời Ngài đầy uy quyền. .. Với uy quyền và năng quyền đó, Ngài đã ra lệnh cho tà linh phải ra khỏi và chúng đã ra! " (Lu 3:22; 4:1, 14, 36 smf).

Trong những câu Kinh Thánh trên và dưới đây, Thánh Linh được mô tả như chiếc áo của vua hoặc một tấm áo choàng phủ trên Chúa Jesus. Ngài đã được "mặc lấy" quyền năng và uy quyền.

2. Mặc Lấy Quyền Phép Từ Trên Cao.

24:49 là một lời hứa tuyệt vời cho bạn và tôi: "Còn về phần các ngươi, hãy đợi trong thành cho đến khi được mặc lấy quyền phép từ trên cao ".

Chữ "vai" trong câu Kinh Thánh dưới đây nói đến trách nhiệm và uy quyền thiên thượng, tức là quyền và khả năng (uy quyền và năng quyền) để cai trị. "Quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. .. Sự cai trị bình an của Ngài sẽ gia tăng và chẳng hề dứt " (Ês 9:6-7 smf).

"Ta sẽ lấy áo ngươi mặc cho người, lấy đai ngươi giúp sức người. Ta sẽ lấy uy quyền và sự cai trị của ngươi đặt vào tay người. Và chìa khóa (chánh trị) của nhà Đavít sẽ đặt trên vai người. .. Phải, người ta sẽ treo trên người mọi sự vinh hiển của nhà cha người " (Ês 22:21, 22, 24 smf).

Chính vinh hiển, tôn trọng và quyền năng đó đã được ban cho Ađam và Êva lúc sáng tạo. Họ được tạo dựng theo "ảnh tượng" của Đức Chúa Trời và "mặc lấy" uy quyền thiên thượng. Họ đã cai trị khắp trái đất dưới uy quyền của Đức Chúa Trời.

Tuy nhiên khi phạm tội, họ đã đánh mất chiếc "áo bào" uy quyền công bình của họ. Satan đã cướp quyền cai trị của họ và thống trị cả thế gian này cho đến khi Chúa Jesus đến.

Tại thập tự giá, Satan đã bị tước bỏ uy quyền và bị đánh bại. Đấng Christ là người chiến thắng và mang lại cho con người quyền cai trị trên cả trái đất (xem Hêb 2:14, 15).

Sau khi phục sinh, Chúa Jesus đã ghi khắc lẽ thật này vào trong trí của các môn đồ rằng: "Tất cả năng quyền và uy quyền trên trời và dưới đất (bây giờ) đã giao cho ta. .. Như Cha đã sai ta thể nào, thì ta cũng sai các ngươi thể ấy. .. Quả thật ta sẽ sai Đấng mà Cha đã hứa đến trên các ngươi. Vì vậy hãy chờ đợi trong thành Giêrusalem cho đến khi các ngươi được mặc lấy quyền phép từ trên cao. .. Vì khi Thánh Linh giáng trên các ngươi, các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép " (Mat 28:18; Giăng 20:21; Lu 24:49; Công 1:8).

3. Dưới Uy Quyền

Bởi lời Chúa và quyền năng của Thánh Linh, chúng ta đã được ban cho uy quyền trên các tà linh và ngay cả trên chính ma quỉ (xem Lu 10:19). Giacơ đã giải thích rõ ràng lẽ thật này trong thư tín của ông "Hãy phục Đức Chúa Trời. Hãy chống trả ma quỉ thì nó sẽ lánh xa anh em" (Gia 4:7).

Từ "phục" trong tiếng HyLạp của Tân ước là một thuật ngữ quân sự có nghĩa là "dưới quyền"- dưới quyền của một sĩ quan hoặc người có cấp bậc cao hơn. Những ai ở trong uy quyền trước hết phải là người ở dưới uy quyền.

Khi chúng ta đến "tuân theo" uy quyền thì uy quyền đó sẽ đến "trên" chúng ta. Chúng ta nói và hành động trong quyền năng của uy quyền đó chứ không phải trong uy quyền của chính chúng ta.

Trong uy quyền thuộc linh cũng vậy. Khi chúng ta phục uy quyền của Chúa Jesus thì uy quyền của Ngài sẽ đến trên chúng ta. Khi chúng ta nói lời của Ngài và vâng theo mạng lệnh của Ngài thì quyền năng của Thánh Linh sẽ đến hành động trên chúng ta. Chúng ta đang nói và đang hành động thay mặt Ngài thì Ngài cũng đang nói và hành động qua chúng ta. Không có gì lạ khi ma quỉ phải sợ hãi và tháo chạy!

B. LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÁM KHÁ VÀ PHÁT TRIỂN CHỨC VỤ.

Đức Chúa Trời đưa ra lời kêu gọi, năng quyền và uy quyền cần thiết để hoàn thành chức vụ hoặc sự kêu gọi mà Ngài gọi họ.

Vấn đề ở đây là "Làm thế nào chúng ta có thể khám phá và phát triển chức vụ của chúng ta và chức vụ của những thành viên của chúng ta? Làm thế nào chúng ta tìm thấy được sự kêu gọi của mình? Làm thế nào tôi có thể chuẩn bị tốt nhất cho điều đó? Chúng ta có thể bắt đầu thực hành điều đó từ đâu?". Đây là những câu hỏi đúng đắn và xứng đáng được trả lời cách phải lẽ.

1. Được Đức Chúa Trời Kêu Gọi.

Chức vụ của chúng ta trong Thân Thể của Đấng Christ là do Đức Chúa Trời chọn chứ không phải bởi chính chúng ta hay bởi người khác (xem Hêb 5:4). Chính Đức Thánh Linh đặt sự kêu gọi trong lòng chúng ta. Khi sự kêu gọi đó phát triển, Đức Chúa Trời sẽ để ý, chấp thuận và tôn cao. Đa-vít nói "Sự tôn cao và quyền năng không đến từ nơi nào trên đất nhưng đến từ Đức Chúa Trời " (Thi 75:6, 7 smf).

Đức Chúa Trời đã thiết lập trong Hội Thánh Ngài những người lãnh đạo địa phương để làm những người chăn cho bầy của Ngài. Người chăn bầy (mục sư) được kêu gọi để bảo vệ, hướng dẫn, sữa trị, cho ăn, dạy dỗ và chăm sóc bầy chiên. Một tầm nhìn như vậy rất cần thiết cho chức vụ của những chi thể để phát triển trong sự quân bình và tốt đẹp.

2. Hội Thánh Địa Phương.

Điều này có nghĩa là tín đồ nên liên hệ với Thân Thể của Đấng Christ trong một Hội Thánh địa phương (như là mỗi chi thể). Nếu có những người chăn bầy địa phương khôn ngoan, yêu thương, đầy dẫy Thánh Linh và đức tin thì Hội Thánh địa phương đó sẽ là khôn ngoan nhất, an toàn nhất và tại đó các chức vụ sẽ lớn lên và phát triển.

Những tín hữu đã tìm gặp được những người lãnh đạo khôn ngoan và yêu thương thì họ sẽ tránh được nhiều đau thương, nan đề và không hao phí thì giờ và năng lực. Bạn có phải là người chăn như thế không?

Đây là kế hoạch của Đức Chúa Trời cho dân sự của Ngài. Để cho kế hoạch của Đức Chúa Trời được tiến hành, Ngài cần những mục sư biết yêu thương, chân thật, trung thành và kết ước với Chúa và với bầy của Ngài.

Không có một Hội Thánh địa phương nào là trọn vẹn cả. Chúa không đòi hỏi những người lãnh đạo trọn vẹn. Ngài dùng những người lãnh đạo không trọn vẹn để huấn luyện và trang bị cho những chi thể chưa trọn vẹn.

Nếu Chúa đưa bạn vào một Hội Thánh địa phương mà ông mục sư lớn tuổi làm chủ tọa thì bạn hãy tôn trọng uy quyền của người lãnh đạo đó như là uy quyền của Đấng Christ vậy. Hãy cố hết sức mà giúp đỡ ông ấy trong mọi cách có thể được. Hãy có bổn phận gấp đôi đối với ông mục sư lớn tuổi như thể bạn đang làm cho Chúa vậy.

3. Những Công Việc Ưu Tiên Hàng Đầu Của Người Lãnh Đạo.

Chức vụ của chúng ta trong Chúa bắt đầu ở những người có quan hệ trong đời sống của chúng ta. Đời sống của chúng ta đụng chạm đến rất nhiều người mỗi ngày. Vì vậy chúng ta nên bắt đầu ở những con người trong thế giới nhỏ bé của chúng ta, đó là những thành viên trong gia đình, Hội Thánh, trường học bên cạnh, những người cùng làm việc chung và những người đang sống trong cộng đồng của chúng ta.

Ước muốn của chúng ta là chia xẻ sự sống, tình yêu và lẽ thật của Chúa Jesus cho họ. Chúng ta sẽ làm điều này một cách chân tình, thực tế và riêng tư. Chúng ta hãy tìm cách giúp đỡ và phục vụ người khác bằng mọi cách mà chúng ta có thể làm trong danh của Chúa.

Hằng ngày hãy tin rằng Thánh Linh sẽ tuôn chảy qua đời sống của bạn và đem phước hạnh của Ngài đến cho những người xung quanh bạn. Khi bạn chia sẻ tình yêu của Đức Chúa Trời cho người khác theo cách thức nhỏ bé này thì những cơ hội lớn hơn sẽ mở ra. Bạn sẽ thấy cần phải làm những gì và làm như thế nào với người khác.

Khi chúng ta tìm cách đem sự sống của Đức Chúa Trời đến với người khác, chúng ta sẽ học tập tin cậy nơi Thánh Linh về sự giúp đỡ và quyền năng của Ngài.

Trái và ân tứ của Thánh Linh sẽ kết hợp với nhau trong cách tốt đẹp và quân bình. Thậm chí chúng ta có thể không nhận biết trái và ân tứ của Thánh linh rất mạnh mẽ trong đời sống của chúng ta, nhưng người khác sẽ nhận thấy !

C. NĂM CHỨC VỤ ÂN TỨ CƠ BẢN.

Thật vậy năm chức vụ ân tứ là sứ đồ, tiên tri, nhà truyền giáo, mục sư và giáo sư là nền tảng của Hội Thánh (xem Êph 2:20; ICôr 3:10-11). Trong bức thư của Phaolô gởi cho Hội Thánh ở Êphêsô, ông đã liệt kê những ân tứ này.

"Đấng Christ đã ban cho mỗi một chúng ta một ân tứ đặc biệt từ nguồn ân điển của Ngài. Đó là lý do tại sao mà tác giả Thi thiên nói rằng: "Khi Ngài được đưa lên trời, Ngài đã ban ân tứ cho loài người. .."

"Ân tứ mà Ngài ban cho là mỗi người có một chức vụ khác nhau. Sứ đồ, tiên tri, nhà truyền giảng Tin Lành, mục sư và giáo sư.

"Ngài làm điều này để dân sự của Đức Chúa Trời được huấn luyện và trang bị để hầu việc Ngài. Những ân tứ này rất cần thiết cho Thân Thể của Đấng Christ để lớn lên, trở nên mạnh mẽ và khỏe mạnh " (Êph 4:7, 8, 11, 12 smf).

Bây giờ chúng ta sẽ xem qua năm chức vụ lãnh đạo này.

1. Sứ Đồ

Là người đặt nền tảng (hoặc gieo trồng) Hội Thánh mới. Sứ đồ là người chỉ định những người lãnh đạo địa phương và cho những lời khuyên bảo trước khi lên đường.Ông sẽ liên lạc thường xuyên với họ và thông báo cho họ biết những gì Đức Chúa Trời đang hành động trong Hội Thánh chung. Sứ đồ của Đấng Christ có một sự kêu gọi đặc biệt để làm trong mọi thế hệ. Chức vụ ân tứ này cũng quan trọng trong thời đại ngày nay cũng như trong bất cứ thời kỳ nào của lịch sử Hội Thánh. (xem Lu 11:49; ICôr 12:28; Êph 2:20).

2. Tiên Tri

Là người nhận được sứ điệp đúng lúc từ tấm lòng và ý tưởng của Đức Chúa Trời. Ông nói trước những sự kiện. Ông nói với các nhà lãnh đạo và những người khác và nói với họ về điều sẽ đến trong tương lai nếu họ hành động ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời. Chức vụ của ông là "gây dựng" và "an ủi" Thân Thể của Đấng Christ (xem Công 11:28; 13:1; 21:10-11).

3. Nhà Truyền Giảng Phúc Âm

Đây là người rao giảng phúc âm của Đấng Christ cho tội nhân. Sứ điệp của ông đơn giản, trực tiếp và bằng quyền năng của Lời Đức Chúa Trời. Người ta được sự cảm động để đưa ra lời quyết định về Đấng Christ (xem Công 8:5-40; 21:8).

4. Mục Sư

Là người có tấm lòng của người chăn chiên. Ông chăm lo cho từng con chiên riêng biệt nhưng cũng bao quát cả bầy chiên. Ông tìm cách để hướng dẫn, bảo vệ, sữa trị, cho ăn và an ủi dân sự của Chúa trong phạm vi một Hội Thánh địa phương (xem Giăng 10:11-18).

5. Giáo Sư

Là người có lòng yêu mến Lời Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài. Ông tìm cách dạy những lẽ thật thiên thượng vừa thực tế vừa có tính cách cá nhân. Ông giúp đỡ cho phần tâm trí của con người để họ có thể biết làm thế nào để bước đi một cách khôn ngoan trong ý chỉ của Đức Chúa Trời (xem Nê 8:4-8).

D. ÂN TỨ LÃNH ĐẠO ĐƯỢC BAN CHO ĐỂ HUẤN LUYỆN
VÀ TRANG BỊ CHO TÍN ĐỒ.

Sứ đồ Phaolô cho chúng ta biết rằng Đấng Christ đã ban năm ân tứ lãnh đạo này để huấn luyện và trang bị cho những tín đồ mới để họ trở thành những người hầu việc Chúa. Các thánh đồ phải được trang bị sẵn sàng để phục vụ.

1. Các Tín Hữu Phải Học Tập...

Những người đã được kêu gọi vào một trong năm chức vụ lãnh đạo, là những người phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng gồm ba phần. Họ phải dạy dỗ các tín hữu làm thế nào để:

a. Phục vụ Chúa,

b. Phục vụ lẫn nhau và

c. Phục vụ thế gian.

2. Dạy Họ Làm Thế Nào

Trang bị cho các chi thể để hoàn thành ba phạm trù chức vụ bao gồm việc dạy họ phải thực hiện những điều sau đây như thế nào:

a. Thờ phượng trong tâm thần và lẽ thật

b. Thức canh, cầu nguyện và cầu thay.

c. Đánh trận thuộc linh.

d. Nghiên cứu Kinh Thánh.

e. Lớn lên trong bản tánh của Đấng Christ.

f. Vận dụng các ân tứ Thánh Linh.

g. Lắng nghe tiếng Chúa.

h. Phục vụ các thánh đồ tức là dân sự của Đức Chúa Trời.

i. Làm chứng cho người chưa tin.

Bằng cách này, các tín hữu sẽ trưởng thành và phát triển trong Chúa Jesus và làm cho Thân thể của Ngài tức là Hội Thánh được mạnh mẽ.

3. Mỗi Chi Thể là Một Người Hầu Việc Chúa.

Dân sự của Chúa không giống như con trẻ luôn chờ đợi sự giúp đỡ của người khác. Họ phải lớn lên trong Đấng Christ để có thể hầu việc Chúa trong vương quốc của Đức Chúa Trời. Trong thời kỳ Tân Ước có một nan đề đã xảy ra trong vòng những tín đồ người Do Thái.

"Đáng lẽ anh em đã làm thầy từ lâu rồi, nay còn cần người ta lấy những điều sơ học của lời Đức Chúa Trời mà dạy anh em sao; anh em cần ăn sữa thay vì đồ ăn đặc.

Vả, kẻ nào chỉ ăn sữa thôi thì không hiểu đạo công bình vì còn là thơ ấu. Nhưng đồ ăn đặc là để cho kẻ thành nhơn, cho kẻ hay dụng tâm tư luyện tập mà phân biệt điều lành và dữ " (Hêb 5:12-14).

Mỗi tín hữu đều phải trở thành một người hầu việc Chúa, tức là người biết phục vụ Chúa, phục vụ các tín đồ khác và phục vụ những người chưa tin.

E. PHAOLÔ LIỆT KÊ NHỮNG CHỨC VỤ KHÁC.

Ngoài năm chức vụ ân tứ lãnh đạo cơ bản được liệt kê ở trên, Phaolô còn kể đến những chức vụ khác cho những chi thể không được huấn luyện để trở thành người hầu việc Chúa là những người:

• Phục vụ Chúa,

• Phục vụ lẫn nhau và

• Phục vụ thế gian (những người chưa tin).

Những ân tứ đó như sau (xin xem Rô 12:6-8 và ICôr 12:28-29).

1. Phục Vụ Và Giúp Đỡ

Điều này nói đến một sự phục vụ cụ thể trong mối tương giao địa phương. Ân tứ này cũng bao gồm chức vụ chấp sự nhưng cũng cần có nhiều hoạt động khác nữa.

2. Khuyên Bảo

"Khuyên bảo" có nghĩa là khích lệ, yên ủi, khuyên lơn và trao đổi với dân sự của Chúa. Mục đích của chức vụ này là khích lệ các tín đồ về sự thờ phượng, công việc, chiến trận và chứng nhân cho Chúa. "Người đi khuyên bảo" phải có đức tin bùng cháy.

3. Dâng Hiến

Chức vụ này nói đến sự dâng hiến của cải trên đất này (thường là tiền bạc) để lo liệu công việc Chúa. Người dâng hiến phải lương thiện, chân thật và khiêm nhường. Người dâng hiến phải nhạy bén với Thánh Linh và ban cho với sự khôn ngoan. Chỉ khi đó mới dâng đúng số lượng cho đúng người vào đúng lúc và đúng lý do.

4. Quản Trị

Chức vụ này nói đến những người lãnh đạo khôn ngoan, mạnh mẽ, yêu thương, biết cách hoạch định, tổ chức, huấn luyện và thành lập ngân sách chi tiêu và chịu trách nhiệm trong Hội Thánh. Điều này bao gồm cơ cấu tổ chức để coi sóc những công việc của Hội Thánh (Công 6:3).

5. Thương Xót

Chức vụ này cần có sự thông cảm, một tình cảm quan tâm đến người khác, và sự khôn ngoan để biết phải làm gì. Sự khôn ngoan gắn liền với hành động thực tế.Đây là sự kêu gọi không những thỏa mãn những nhu cầu thuộc thể mà còn mang đến cho người cần sự giúp đỡ đức tin, hy vọng và tình yêu thương. Có một nhu cầu lớn lao trong Thân Thể Đấng Christ để dành cho "những con người có lòng thương xót" này (xem Gia 2:13-16).

6. Các Phép Lạ Và Sự Chữa lành

Phép lạ thể hiện quyền năng của Đức Chúa Trời và chứng tỏ sự hiện diện của Ngài. Mục đích của các ân tứ này là chỉ cho người vô tín con đường đến với Đức Chúa Trời và gây dựng đức tin cho các thánh đồ. Đó là những dấu hiệu về tình yêu thương đang hành động cho những ai cần đến. Những chức vụ này mở đường cho phúc âm ân điển của Đức Chúa Trời.Các ân tứ chữa lành (số nhiều theo bản HyLạp) là cung cấp quyền năng chữa lành của Đấng Christ cho những người bệnh.Thật là phước hạnh biết bao khi những ân tứ này đang vận hành trong đời sống của những chi thể và những người lãnh đạo Hội Thánh!

F. NHIỀU CHỨC VỤ KHÁC TRONG THÂN THỂ CỦA ĐẤNG CHRIST.

Có nhiều chức vụ khác được Kinh Thánh nói đến. Chúng ta có thể thêm những chức vụ khác vào trong danh sách của chúng ta.

1. Cầu Thay

Kiêng ăn cầu thay cho người khác luôn là một chức vụ có quyền năng trong Hội Thánh mặc dầu chức vụ này thường không biểu lộ bề ngoài.

2. Tiếp Đãi Khách

Sự tiếp đãi tử tế trong gia đình Cơ đốc đã mang lại phước hạnh đến cho nhiều đời sống. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều ví dụ trong Kinh Thánh.

3. Thăm Viếng

Chúng ta có thể đem tình yêu của Đức Chúa Trời đến cho người khác khi họ không đến với chúng ta được. Chúng ta nên nghĩ đến những người bệnh, người lớn tuổi, người neo đơn và những người bị tù đày. Chúa Jesus muốn đến với hết thảy những người đó.

4. Những Quan Tâm Về Xã Hội

Đức Chúa Trời muốn đến với người nghèo và người túng thiếu biết bao. Đó là những người bị hất hủi và cùng túng. Ngài chỉ có thể đến với họ qua chúng ta.

5. Văn Chương

Sức mạnh của ngôn ngữ viết rất lớn. Đức Chúa Trời đã ban ơn viết lách cho nhiều người. Ơn này bao gồm việc viết những lá thư riêng cho đến những bài báo và sách. Ơn này đòi hỏi nhiều nỗ lực nhưng phần thưởng rất lớn.

6. Phương Tiện Truyền Thông Đại Chúng Hiện Đại

Nhiều tiến bộ đã xảy ra trong vô tuyến truyền thanh, phim ảnh, truyền hình và những lĩnh vực thông tin khác. Đây là những phương thức hiện đại để làm chứng. Đức Chúa Trời đã ban khả năng và tài khéo cho những người mà Ngài dùng trong những lĩnh vực sáng tạo. Nếu chúng ta không hoạt động trong những lĩnh vực này cho Đức Chúa Trời thì ma quỉ sẽ vui mừng chiếm chỗ của chúng ta.

7. Nghệ Thuật Âm nhạc

Cơ đốc là một phước hạnh lớn trãi qua nhiều năm mà Đức Chúa Trời ban cho loài người. Đã đến lúc những loại hình nghệ thuật khác phải được đem trở lại để phục vụ cho mục đích thánh của Đức Chúa Trời. Những ân tứ đó phải được Thánh Linh đụng chạm để làm cho sự giảng dạy và thờ phượng của chúng ta trở nên phong phú. Để công tác làm chứng cho thế gian này được tốt hơn. Bây giờ ý tưởng nghệ thuật vì nghệ thuật không còn nữa nhưng nghệ thuật phải vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.

8. Sự Giảng Hòa

"Giảng hòa" có nghĩa là đem những người từng là kẻ thù đến chỗ hòa thuận với nhau. Dĩ nhiên điều trước hết là người đó phải hòa thuận với Đức Chúa Trời.

Sau đó mới cần có sự hòa thuận với nhau. Đây là một điều rất đúng trong Hội Thánh. Sự thù địch và xung đột giữa các tín đồ giống như một vết thương đau nhức trong Thân Thể của Đấng Christ. Không có gì ngạc nhiên khi Kinh Thánh tuyên bố "Phước cho những kẻ làm cho người hòa thuận. .."

G. NHỮNG Ý KIẾN CUỐI CÙNG VỀ CHỨC VỤ CÁC NHÂN.

Thật dễ thấy rằng nhiều chức vụ kể trên trùng nhau hoặc liên kết với nhau. Một người có thể có nhiều chức vụ để hầu việc Chúa.

Hơn nữa chức vụ này có thể làm nền để xây nên một chức vụ khác. Philíp là một "tôi tớ" trung tín sau này đã trở thành một "nhà truyền giáo" nổi tiếng (so sánh Công 6:1-8:40).

Tất cả chúng ta đều có một sự kêu gọi trong Thân Thể của Đấng Christ. Chúng ta hãy bắt đầu ở vị trí của chúng ta với những gì chúng ta có NGAY BÂY GIỜ! Đức Thánh Linh, Đấng giúp đỡ thiên thượng của chúng ta, sẽ cung cấp bông trái và ân tứ mà chúng ta cần cho sự kêu gọi đó.

Bổn phận của chúng ta là "chăm bón" hoặc phát triển những bông trái đó bằng cách chạy đến với Đức Thánh Linh trong những lúc khó khăn.Chúng ta phải học tập sử dụng cách "xuất sắc" và tốt đẹp những ân tứ thuộc linh. Ước muốn của chúng ta là trở thành những đầy tớ ngay lành và trung thành của Chúa Jesus Christ chúng ta.

Những chức vụ cá nhân sẽ được khám phá và phát triển tốt nhất trong sự tương giao của một Hội Thánh địa phương đầy dẫy Thánh Linh. Dưới sự lãnh đạo khôn ngoan và yêu thương, chúng ta sẽ tìm thấy vị trí và chức năng của chúng ta trong gia đình của Đức Chúa Trời. Bằng cách này, Hội Thánh của Đức Chúa Jesus Christ sẽ trở nên mạnh mẽ và trọn vẹn.

Bởi đó chúng ta sẽ sẵn sàng phục vụ Chúa, phục vụ lẫn nhau và phục vụ cả thế giới này!


PHẦN III: NHỮNG CHỨC VỤ CỦA CÁC TÍN HỮU TRONG HỘI THÁNH

E1.9 Chương 9: CHỨC VỤ ĐỐI VỚI CHÚA: THỜ PHƯỢNG

A. MỖI TÍN ĐỒ LÀ MỘT THẦY TẾ LỄ.

Trong thời đại Tân Ước, mỗi tín đồ là một thầy tế lễ.

"Anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức tế lễ nhà vua, là dân thánh, là dân đặc biệt thuộc về Đức Chúa Trời. Anh em đã được chọn để rao giảng sự nhơn đức của Ngài. Vì Ngài đã gọi anh em ra khỏi sự tối tăm mà vào trong sự sáng láng lạ lùng của Ngài " (IPhi 2:9 smf).

Đây là bức tranh bằng lời tuyệt vời mô tả về Hội Thánh của Chúa Jesus Christ. Chúng ta là dân tộc được chọn, được gọi là những thầy tế lễ nhà vua trong Hội Thánh. "Ngài đã nhóm hiệp chúng ta vào trong nước của Ngài và làm cho chúng ta trở thành những thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha. .." (Khải 1:6 smf).Là "tế lễ nhà vua", mỗi người đều có một chức vụ tế lễ rộng lớn và tuyệt diệu. Chức năng của chức vụ này có ba điều:

1. Chức vụ đối với Chúa,

2. Chức vụ đối với nhau và

3. Chức vụ đối với thế gian.

Chỉ có một cách duy nhất để hoàn thành chức vụ to lớn đối với thế gian này là mỗi chi thể trong Hội Thánh phải trở thành một người hầu việc Chúa. Mỗi chi thể đều phải hoàn thành nhiệm vụ của mình trong Hội Thánh. "Đấng Christ đã làm cho chúng ta trở nên một nước thầy tế lễ để phục vụ Đức Chúa Trời là Cha. .. và chúng ta sẽ cai trị trên đất " (5:10 smf).

B. CHỨC VỤ CỦA CHÚNG TA TRONG SỰ THỜ PHƯỢNG.

Tất cả các chức vụ của Cơ đốc đều bắt đầu bằng sự hầu việc Chúa. "Thờ phượng Đức Chúa Trời" là một giếng nước mà từ đó mới tuôn chảy ra "công tác cho Đức Chúa Trời".Chức vụ thầy tế lễ của chúng ta với Đức Chúa Trời liên quan đến bốn chức năng chính:

1. Cầu nguyện.

2. Ngợi khen.

3. Cảm tạ.

4. Thờ phượng

Mỗi chức năng này đều có một mục đích cụ thể. Tuy nhiên trong bài này, chúng tôi sẽ gộp bốn chức năng này dưới tựa đề chung là "sự thờ phượng"

Đức Chúa Trời là Cha yêu quí của chúng ta ở trên trời. Hơn bất kỳ điều gì khác, Ngài cần sự yêu thương và thờ phượng của chúng ta. Thờ phượng là nói đến "sự kính trọng". Đức Chúa Trời "rất xứng đáng" để chúng ta yêu kính Ngài vì Ngài đã yêu chúng ta trước, tình yêu ấy lớn lao thay! (IGiăng 4:19).

Một lần nọ người Pharisi cố lừa và gài bẫy Chúa Jesus bằng một câu hỏi khó. Họ hỏi Ngài "Trong luật pháp và mười điều răn thì điều gì là lớn nhất? ". Chúa Jesus đã nhanh chóng làm cho họ hỗ thẹn vì lối đáp đầy quyền năng nhưng thật đơn giản của Ngài.

"Hãy hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức mà yêu mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi. Đây là điều răn đầu tiên và lớn hơn hết " (Mat 22:37-38).

Chúng ta yêu thương những gì chúng ta tôn thờ và chúng ta tôn thờ những gì chúng ta yêu. Sự thờ phượng Đức Chúa Trời của chúng ta bắt nguồn từ sự tương giao của chúng ta với Ngài.

Ngài là Cha nên Ngài luôn muốn tương giao với gia đình của mình. Ngài muốn và chờ đợi chúng ta đáp lại tình yêu thánh khiết của Ngài bằng sự cầu nguyện, ngợi khen và thờ phượng của chúng ta. Khi chúng ta đến gần Ngài, Ngài sẽ đến gần chúng ta (Gia 4:8).

Đavít, tác giả Thi thiên đã chỉ ra cách thức để Đức Chúa Trời đến gần chúng ta. Đavít nói: "Đức Chúa Trời là thánh và Ngài ngự giữa sự ngợi khen của dân sự Ngài " (Thi 22:3 smf).

Thờ phượng Đức Chúa Trời và tương giao với Ngài là hai điều thánh gắn liền với nhau. Bạn không thể có điều này mà không có điều kia!

C. NHỮNG NGƯỜI THỜ PHƯỢNG SAU ĐÓ LÀ NHỮNG NGƯỜI HẦU VIỆC.

Nhiều người cảm thấy rằng ao ước lớn nhất của Đức Chúa Trời là tìm kiếm "những người hầu việc". Điều này không đúng. Chúa Jesus đã nói rõ với các môn đồ của Ngài rằng Cha đang tìm kiếm "những người thờ phượng"- là những người thờ phượng Ngài bằng tâm thần và lẽ thật (xem Giăng 4:23).

Sự kêu gọi cao cả nhất và lớn lao nhất của chúng ta trước bất cứ sự kêu gọi nào, ấy là sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta làm như vậy thì Đức Chúa Trời sẽ không phải chịu khổ vì thiếu người làm việc. Người thờ phượng thật luôn là người hầu việc thật. Tình yêu thật là luôn tìm cách làm hài lòng và làm theo ý người mình yêu!

Lẽ thật này được thấy rõ trong câu chuyện quen thuộc về Mari và Mathê (xem Lu 10:38-42). Mathê thì đang ở trong bếp làm việc và bồn chồn. Mari đang ngồi dưới chân Chúa Jesus thờ phượng và học tập lắng nghe. Chúa Jesus phán rằng phần của Mari là quan trọng nhất và điều đó không bị cất khỏi bà.

Cơ đốc nhân không chỉ đơn giản "được cứu để hầu việc" mà còn "được gọi để thờ phượng". Chúa muốn điều đó trước hết, hơn bất cứ điều gì khác. Nếu chúng ta không bước vào chức vụ hầu việc chính Chúa thì chúng ta chẳng bao giờ có một chức vụ hiệu quả đối với nhau và đối với thế giới này.

1. Hội Thánh ở Antiốt

Hội Thánh ở Antiốt cho thấy rằng sự thờ phượng phải là điều quan trọng hàng đầu, thậm chí quan trọng hơn cả sự hầu việc. Đó là một Hội Thánh "làm việc" nhưng trước khi làm việc họ đã thờ phượng.

Hội Thánh đã làm gì trước khi Phaolô và Banaba được Thánh Linh lựa chọn và sai đi làm "những người thợ" trên công trường truyền giáo? Họ đang thờ phượng Đức Chúa Trời!

"Đương khi môn đồ thờ phượng Chúa và kiêng ăn thì Đức Thánh Linh phán rằng: Hãy để riêng Banaba và Saulơ đặng làm công việc ta đã gọi làm " (Công 13:2).

Thật thú vị khi 13:1 cho chúng ta biết là trong Hội Thánh có nhiều tiên tri và giáo sư nhóm lại. Rõ ràng chức vụ ưu tiên hàng đầu của họ không phải là nói tiên tri hay giảng dạy mà là thờ phượng. Mọi người đang thờ phượng (hầu việc chính Chúa). Từ chức vụ thờ phượng đã tuôn chảy ra lời tiên tri của Đức Chúa Trời liên quan đến công việc.

Theo thứ tự này có những bước hoặc những giai đoạn rõ ràng như sau:

a. Thờ phượng. Trước hết "thờ phượng" Chúa.

b. Lời. Thứ hai là có "lời" từ Đức Chúa Trời.

c. Công việc. Thứ ba là có "công việc" cho Chúa.Phục vụ Chúa trước rồi mới đến phục vụ thế gian.

2. Không Có Sự Thờ Phượng, Không Có Mưa!

Ưu tiên thánh hàng đầu cho sự thờ phượng chính là lời tiên tri mà Xachari đã nói:

"Trong những họ hàng trên đất, kẻ nào đã chẳng lên Giêrusalem đặng thờ lạy trước mặt Vua, tức Đức Giêhôva vạn quân, thì sẽ không có mưa trên chúng nó " (Xa 14:17).

Nguyên tắc rất rõ ràng: Không thờ phượng, Không có mưa! Làm việc mà không thờ phượng thì sẽ thu hoạch rất ít cho dù chúng ta đã lao khổ đến đâu. Tại sao? Vì cần có mưa của Thánh Linh Đức Chúa Trời mới tạo nên vụ mùa được. Không có sự thờ phượng, chúng ta sẽ không có mưa. Nếu chúng ta không có thời gian thờ phượng thì thời gian làm việc của chúng ta cũng sẽ chẳng sản sinh ra bao nhiêu quả.

Thứ tự thiên thượng của Đức Chúa Trời là thờ phượng rồi mới đến công việc. Phục vụ Chúa đem phước hạnh của Thánh Linh Ngài trên những nổ lực của chúng ta. Chúa rất quan tâm đến việc chúng ta thờ phượng Ngài hơn là quan tâm đến công việc chúng ta làm cho Ngài.

D. SỰ THỜ PHƯỢNG TRONG TÂM THẦN VÀ LẼ THẬT.

Người Do Thái và người Samari đã cãi nhau về nơi thờ phượng đúng đắn trãi qua trong bảy thế kỷ.

Trong khi đi ngang qua xứ Samari, Chúa Jesus đã gặp một người đàn bà ở bên giếng. Trước sự ngạc nhiên của bà ta, Chúa Jesus đã bắt đầu nói với bà về những ước muốn và khao khát sâu xa trong lòng bà về Đức Chúa Trời.

Trong cuộc nói chuyện đó, bà đã nêu lên vấn đề từ ngàn xưa về nơi thờ phượng đúng đắn. Chúng ta hãy lắng nghe cuộc nói chuyện này:

"Thưa ông, tôi có thể thấy rằng ông là một tiên tri. Tổ phụ chúng tôi thờ phượng trên núi này còn người Do Thái các ông lại nói rằng chúng ta phải thờ phượng ở Giêrusalem. Ai nói đúng?

Chúa Jesus đáp "Hãy tin ta, hỡi người đàn bà kia, giờ đến là lúc các ngươi sẽ không thờ phượng Cha ở trên núi này hoặc ở tại Giêrusalem. .. Giờ đến và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật sẽ thờ phượng Cha trong tâm thần và lẽ thật. Đó là những người thờ phượng mà Cha đang tìm kiếm " (Giăng 4:19-23).

1. Hai Phần Thiết Yếu

Theo lời của Chúa Jesus, sự thờ phượng có thể được chia làm hai phần:

a. TÂM THẦN ... là phần thuộc về Đức Chúa Trời.

b. LẼ THẬT... là phần của con người.

Nói cách khác, cả Đức Chúa Trời và con người đều phải dự phần để sự thờ phượng được trọn vẹn.

2. Phần Của Đức Chúa Trời Trong Sự Thờ Phượng.

Phần của Đức Chúa Trời trong sự thờ phượng có liên quan đến Con của Ngài và Thánh Linh của Ngài. Tác giả sách Hêbơrơ đã nói đến vai trò của Chúa Jesus trong sự thờ phượng. Tác giả này đã trích một Thi thiên của Đavít mà trong đó, tác giả Thi thiên đã nói thay cho Đấng Christ.

"Lạy cha, con sẽ giới thiệu danh của Ngài cho anh em con. Giữa Hội Thánh của Ngài sẽ có sự ngợi khen Ngài " (Hêb 2:12 smf).

Câu Kinh Thánh này đặt ra cho chúng ta một vấn đề thú vị để suy nghĩ. Chúa Jesus sẽ ngợi khen Cha giữa Hội Thánh như thế nào?

a. Bài Hát ngợi Khen Của Chúa Jesus.

Tôi tin rằng Ngài làm điều đó qua môi miệng chúng ta, sử dụng giọng nói của chúng ta. Khi chúng ta đầu phục sự hành động của Thánh Linh trên chúng ta thì sự kính mến Cha của Chúa Jêsus sẽ tuôn chảy ra từ nơi sâu thẳm nhất của chúng ta.

Bấy giờ "thân vị" của Chúa Jesus là đang ngồi bên hữu Đức Chúa Cha. Nhưng sự hiện diện của Chúa trong chúng ta là bởi Thánh Linh của Ngài.

Do đó khi Thánh Linh xức dầu để chúng ta thờ phượng, bài hát ngợi khen của Chúa Jesus sẽ tràn đầy trên môi miệng và tấm lòng của chúng ta. Khi chúng ta để môi miệng và giọng hát của mình cho Thánh Linh hành động là chúng ta đang thờ phượng Cha trong tâm thần.

Đây chính là "bài hát thật của Chúa" bởi vì khi Thánh Linh đổ đầy tâm linh chúng ta bằng sự thờ phượng của Chúa Jesus thì chúng ta sẽ biểu lộ điều đó với Cha bằng giọng ca của chúng ta.

Điều này đã xảy ra trong Cựu Ước. Trong triều đại của vua Êxêchia, một cuộc phục hưng lớn đã nổ ra, là kết quả của việc tẩy sạch và khôi phục đền thờ. Câu chuyện như thế này:

"Vua đặt người Lêvi ở trong đền Đức Giêhôva, cầm chập chỏa, đờn cầm, đờn sắt, tùy theo lệ định của Đavít; vì lệ định ấy do nơi Đức Giêhôva cậy các tiên tri Ngài mà dạy biểu.

Các người Lêvi đứng cầm nhạc khí của Đavít, còn những thầy tế lễ cầm còi.

Êxêchia truyền dâng của lễ thiêu, và đương lúc khởi dâng của lễ thiêu thì khởi hát bài ca khen ngợi Đức Giêhôva, có còi thổi và nhạc khí của Đavít, vua Ysơraên, họa thêm. Cả hội chúng thờ lạy, người ca hát đều hát, và kẻ thổi kèn đều thổi kèn, cho đến đã xông của lễ thiêu, đoạn khi dâng của lễ thiêu xong, vua và các người ở với vua bèn cúi xuống thờ lạy.

Vả lại, vua Êxêchia và các quan trưởng biểu người Lêvi hát ngợi khen Đức Giêhôva bằng lời hát của Đavít và của Asáp, là Đấng tiên kiến, chúng bèn hát ngợi khen cách vui mừng và cúi đầu xuống mà thờ lạy " (IISử 29:25-30).

b. Được Đầy Dẫy Thánh Linh.

Nhưng nếu chỉ có "hình thức" thờ phượng mà lại không có sự hiện diện của Chúa Jesus và Đức Thánh Linh thì đáng buồn thay!

Chỉ có Thánh Linh của Đấng Christ mới tạo ra được một sự thờ phượng thật mà Cha chấp nhận. Không có sự hiện diện của Thánh Linh thì sự thờ phượng của chúng ta bất quá chỉ là một nghi thức tôn giáo trống rỗng. Đây là điều Chúa Jesus muốn nói khi Ngài nói về các nhà lãnh đạo tôn giáo trong thời đại của Ngài.

"Dân này lấy môi miếng thờ kính ta, nhưng lòng chúng nó xa ta lắm. Sự chúng nó thờ lạy Ta là vô ích. .." (Mat 15:8, 9 smf).

Nói cách khác, khi lòng chúng ta đầu phục Thánh Linh sự sống của Đấng Christ thì sự thờ phượng của chúng ta sẽ không theo hình thức vô nghĩa. Sự thờ phượng phải là một sự tuôn đổ tình yêu và sự ngợi khen một cách tươi mới. Phaolô đã nói lẽ thật này bằng những lời như sau:

"Hãy luôn đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa. Hãy thường thường nhơn danh Đức Chúa Giêxu Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời là Cha chúng ta " (Êph 5:18-20 smf).

Khi chúng ta liên tục được đầy dẫy Thánh Linh, chúng ta có thể dâng sự ngợi khen cho Chúa, đàn hát dâng lên Ngài.

Trong Hội Thánh ngày hôm nay, âm nhạc thường dùng để hát cho con người hoặc vì con người. Trong Kinh Thánh, âm nhạc hướng về hoặc được hát cho Chúa và vì Chúa.

Chúng ta cần thuận phục sự hành động của Thánh Linh trên chúng ta để trở thành những người thờ phượng thật. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta Thánh Linh của Ngài để chúng ta có thể hát những bài hát ngợi khen của Chúa Giêxu được Đức Thánh Linh cảm động trong lòng lên cho Đức Chúa Cha.

3. Phần Của Con Người Trong Sự Thờ Phượng.

"Ai có thể lên án Đức Giêhôva? Ai có thể đứng trong nơi thánh của Ngài (để thờ phượng)? Đó là người có đôi tay và tấm lòng trong sạch. Đó là người chân thật trong cả con đường mình. Người ấy sẽ nhận được phước hạnh của Chúa " (Thi 24:3-5 smf).

Phần của con người trong sự thờ phượng là đến với Đức Chúa Trời trong "lẽ thật". Điều này có nghĩa là tấm lòng (những động cơ) của người đó phải trong sạch, lương thiện và chân thật, nếu không sự thờ phượng của họ không được chấp nhận.

a. Các Luật Lệ Của Đền Tạm.

Điều này được xác định qua những luật lệ được ban cho các thầy tế lễ trong đền tạm của Môise. Trong cấu trúc và chức vụ tế lễ của đền tạm có nhiều điều minh họa về những gì mà Chúa Jesus và những người theo Ngài phải làm.

Tất cả những điều về của lễ, sự tắm rửa, sự xức dầu và áo quần đều là những minh họa quan trọng về những nguyên tắc thuộc linh quan trọng mà Chúa Jesus và Hội Thánh phải làm theo. Trước khi thầy tế lễ có thể hầu việc và thờ phượng Chúa trong Nơi Thánh, họ phải được:

1) Tẩy sạch tội lỗi bằng huyết của con sinh (Lê 4:3)

2) Rửa bằng nước,

3) Xức dầu để thờ phượng, và

4) Mặc quần áo tế lễ sạch sẽ (Xuất 30:17-33).

Họ sẽ chết nếu họ không giải quyết tội lỗi, tự tẩy sạch sự ô uế của mình, nhận sự xức dầu và mặc quần áo tế lễ sạch sẽ. Chỉ lúc đó họ mới có thể vào trong sự hiện diện thánh của Đức Chúa Trời. Họ phải được chuẩn bị để mà thờ phượng!

b. Sự Chuẩn Bị Của Chúng Ta Ở Trong Chúa Jesus Christ. Chúng ta cũng phải:

1) Chấp nhận huyết của Chúa Jesus trên thập tự giá (Khải 1:5).

2) Được "tắm rửa " cách đúng đắn bởi phép báptêm bằng nước (Công 22:16; Hêb 10:22).

3) "Được xức dầu " để phục vụ bằng cách được báptêm trong Thánh Linh (Lu 4:18), và

4) "Được mặc lấy " quyền năng (24:29) trước khi chúng ta có thể phục vụ Chúa cách đúng đắn.

c. Kinh Thánh Tuyên Bố.

Ngợi khen Chúa vì tất cả những nhu cầu này sẽ được thỏa mãn đầy đủ trong Chúa Jesus Christ. Kinh Thánh tuyên bố rằng chúng ta sẽ được:

1) Tẩy sạch bởi huyết Ngài "Nếu chúng ta xưng tội mình thì Ngài là thành tín, công bình sẽ tha thứ cho chúng ta và tẩy sạch chúng ta khỏi mọi điều gian ác " (IGiăng 1:9 smf).

2) Rửa sạch bởi báptêm bằng nước và lời của Ngài "Đấng Christ đã tự phó mình cho Hội Thánh. Ngài làm điều này để Hội Thánh được thánh và sạch, được rửa bởi nước và Lời " (Êph 5:25, 26 smf).

3) Được Đức Thánh Linh xức dầu "Chính Đức Chúa Trời là Đấng làm vững vàng đức tin của chúng tôi với anh em trong Đấng Christ. Ngài đã xức dầu cho chúng ta và đóng ấn Ngài trên chúng ta. Ngài đã làm điều này bằng cách đặt Thánh Linh Ngài vào lòng chúng ta. Đây là lời hứa của chúng ta về những điều sẽ đến " (IICôr 1:21, 22 smf).

4) Mặc lấy sự công bình của Ngài "Hỡi Chúa, xin hãy để những thầy tế lễ của Ngài được mặc lấy sự cứu rỗi... Ngài đã mặc cho tôi cái áo cứu rỗi. Ngài đã phủ tôi bằng chiếc áo công bình..." (IISử 6:41; Ês 61:10 smf).

d. Chúa Jesus Christ: Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm Của Chúng Ta.

Tác giả sách Hêbơrơ đã tóm tắc chức vụ tế lễ của những người được tẩy sạch bằng huyết trong những câu Kinh Thánh sau:

"Hỡi anh em yêu dấu, bây giờ chúng ta được tự do bước vào nơi chí thánh, nơi Đức Chúa Trời ngự. Chúng ta có thể làm điều này mà không sợ hãi gì vì huyết Chúa Jesus đã đổ ra vì tội của chúng ta. Qua con đường mới và sống mà Chúa Jesus đã mở ra cho chúng ta bởi huyết Ngài trên thập tự, chúng ta có thể bước vào. Ngài là thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta và Ngài đã cai trị cả nhà của Đức Chúa Trời. Vì vậy chúng ta hãy đến gần Đức Chúa Trời với một tấm lòng chân thật đầy đức tin.

"Tấm lòng của chúng ta đã được tẩy sạch và chúng ta đã được giải cứu khỏi những cảm giác tội lỗi. Thân thể chúng ta đã được rửa sạch bởi nước tinh khiết của phép báptêm. Do đó, chúng ta hãy nắm lấy hy vọng mà chúng ta đã tuyên xưng. Chúng ta có thể tin rằng Đức Chúa Trời sẽ làm những gì Ngài đã hứa " (Hêb 10:14-23 smf).

Phải Đấng Christ đã cung cấp cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần để chúng ta thờ phượng Đức Chúa Trời trong tâm thần và lẽ thật.

Chúa Jesus vẫn còn tìm kiếm sự thờ phượng Cha "ở giữa Hội Thánh " (Hêb 1:12). Ngài muốn làm điều này qua chúng ta là những chi thể trong Thân Ngài. Ấy là qua chúng ta và bởi Thánh Linh Ngài mà Con mong muốn bày tỏ sự yêu kính Cha.

E. TÓM TẮT

Chúng ta đã thấy

1. Phần Của Đức Chúa Trời

Phần của Đức Chúa Trời trong sự thờ phượng có quan hệ đến Con và Thánh Linh Ngài.

2. Phần Của Chúng Ta

Chúng ta cũng có phần của mình. Chúng ta đến trước mặt Chúa với đôi tay và tấm lòng trong sạch. Điều này có nghĩa là phải nhanh chóng xưng ra tội lỗi, lỡ lầm và sự thất bại của chúng ta với Chúa. Có nghĩa là chúng ta sẽ được tẩy sạch và được bao phủ trong ân điển Ngài, cũng có nghĩa là chúng ta sẽ được Thánh Linh Ngài xức dầu, và những lời nói, hành động của chúng ta trở nên đúng đắn và thánh khiết trong con mắt của Đức Chúa Trời để chúng ta có thể "... dâng lên sự ngợi khen về vinh hiển Ngài " (Êph 1:12).

Như vậy chúng ta sẽ là "... một dân được chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua và là dân thánh " (IPhi 2:9). Với tất cả tấm lòng và sự vui mừng, chúng ta sẽ chia sẻ tình yêu và ân điển của Ngài cho cả thế giới. Tất cả những điều đó đều bắt đầu bằng sự thờ phượng.

Đây là điều chúng tôi muốn nói khi chúng tôi cho rằng mỗi tín đồ phải học tập "phục vụ Chúa".

Tại sao bạn không dâng môi miệng và giọng hát của bạn cho Chúa ngay giờ này và bắt đầu thờ phượng Ngài? Hãy nói với Ngài rằng:

"Lạy Chúa, con yêu Ngài. Con cất cao tiếng hát của con để thờ phượng Ngài.

Ồ, linh hồn tôi vui mừng.

Hỡi Vua tôi, hãy vui mừng về những gì Ngài đã nghe.

Hãy để điều đó là một âm thanh ngọt ngào trong tai của Ngài.

 

E1.10 Chương 10: CHỨC VỤ ĐỐI VỚI NHAU: PHỤC VỤ

Phần Dẫn Nhập

Chức vụ đối với nhau có nghĩa là "phục vụ và hỗ trợ" cho nhau. Chúng ta phải giúp đỡ, thương yêu và chăm sóc lẫn nhau. Chúng ta phải gây dựng nhau về tình cảm cũng như thuộc linh.

Điều này có nghĩa là chúng ta phải cung cấp những điều thực tế cho những anh em trong Chúa là những người đang có nhu cầu.

Làm được điều này có nghĩa là chúng ta đã hình thành được "cách thức hỗ trợ theo Kinh Thánh". Ba cách thức căn bản sau đây bao hàm tất cả những nhu cầu cá nhân quan trọng nhất của chúng ta. Là những người lãnh đạo, chúng ta phải huấn luyện các chi thể trong Hội Thánh biết làm thế nào để phục vụ lẫn nhau qua:

* Cách thức giúp đỡ về tình cảm.

* Cách thúc giúp đỡ bằng tài chánh.

* Cách thức giúp đỡ về thuộc linh.

Đây là cách giảng dạy của Chúa đối với dân chúng trong tình yêu thương. Như Chúa Jesus đã thờ phượng Đức Chúa Cha trên trời qua chúng ta thể nào thì Ngài cũng phục vụ các chi thể trong Thân Thể Ngài qua chúng ta thể ấy.

Chúa Jesus an ủi những người bị tổn thương bằng cách dùng đôi tay của chúng ta ôm ấp họ. Ngài đã đụng chạm họ bằng đôi tay của chúng ta. Ngài muốn nói với họ qua môi miệng của những chi thể trong Thân Thể Ngài là Hội Thánh!

Chúng ta hãy quay lại với sách Công vụ các sứ đồ để xem các nguyên tắc này đã được thực hiện như thế nào, tiến hành ra sao.

Chúng ta thấy trong những câu dưới đây đã tái xác nhận điều khái quát mà chúng ta đã chọn để giải thích những điều mà bạn (là người lãnh đạo Hội Thánh) phải huấn luyện dân sự làm. Đây là điều mà các tín hữu ở Hội Thánh tại Giêrusalem đã làm.

Các tín hữu đều phục vụ Chúa.

"Ai tin. .. đều đã chịu báptêm, có khoảng 3.000 người. Mỗi ngày họ hiệp nhau thờ phượng ở đền thờ cách đều đặn, gặp nhau trong những nhóm nhỏ ở các gia đình để thông công. .. Họ đầy sự vui mừng và cảm tạ, ngợi khen Đức Chúa Trời " (Công 2:41, 46, 47 smf).

Đây là ưu tiên hàng đầu của họ: thờ phượng, cảm tạ và ngợi khen Đức Chúa Trời.

Các tín hữu phục vụ lẫn nhau.

"Tất cả các tín đồ thường xuyên gặp gỡ nhau và chia sẻ mọi điều họ có cho nhau, bán của cải mà chia cho những người có nhu cầu. Họ. .. gặp nhau trong từng nhóm nhỏ ở gia đình để thông công và dùng bữa với nhau đầy vui mừng và cảm tạ " (Công 2:44-46 smf).

Họ dùng bữa với nhau trong nhà của họ và không ai bị đói hoặc bị để bơ vơ. Mỗi người đều chia những gì mình có cho những người có nhu cầu. Tất cả những điều này được làm trong "sự vui mừng lớn".

Sau đó từ hai điều này đã hình thành nên sự phục vụ thế gian của họ.

"Mọi người đều kính sợ và các sứ đồ đã làm nhiều phép lạ. Cả thành phố đều hài lòng về họ và hằng ngày đã thêm lên cho họ những người được cứu " (2:43, 47).

Từ chức vụ của họ đối với Chúa và chức vụ đối với nhau đã nảy sinh chức vụ của họ đối với thế gian. Mỗi ngày nhiều tín đồ mới đã được thêm vào trong số người của họ. Đây là một bức tranh trọn vẹn về kế hoạch và mục đích của Đức Chúa Trời. Bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu những cách thức giúp đỡ khác nhau. Đó là một phần trong sự phục vụ của chúng ta đối với nhau.

A. CÁCH THỨC GIÚP ĐỠ VỀ TÌNH CẢM.

Cách thức giúp đỡ đầu tiên trong chức vụ phục vụ lẫn nhau của chúng ta liên quan đến những nhu cầu tình cảm. Nhu cầu tình cảm của chúng ta được thỏa mãn qua "những mối quan hệ". Chúng ta được dựng nên không phải để "sống một mình". "Và Đức Chúa Trời phán: Chúng ta hãy dựng nên loài người theo ảnh tượng của chúng ta. .. vì loài người sống một mình là không tốt " (Sáng 1:26; 2:18).

Tất cả chúng ta đều giống như ảnh tượng của Đức Chúa Trời nên chúng ta cần có các mối quan hệ (Rô 3:29; IICôr 3:18). Chúng ta được dựng nên để tương giao với Đức Chúa Trời và tương giao với nhau, để yêu thương nhau.

Không có mối quan hệ đó, chúng ta không trọn vẹn. Và điều đó không tốt. Chúng ta rất cần nhau. Đức Chúa Trời đã dự định như vậy.

1. Koinonia

Koinonia là tiếng HyLạp nói đến "sự tương giao" có nghĩa là:

a. Chia sẻ sự sống cho nhau.

b. Cùng chung một quyền lợi.

Sự sống mà chúng ta chia sẻ với nhau là sự sống của Ngài. Quyền lợi chung là Chúa Jesus.

2. Koinonia Đáp Ứng Những Nhu Cầu Về Tình Cảm.

Đây là một kết quả thực tế. Mối tương giao Cơ đốc (Koinonia) đáp ứng những nhu cầu và ước muốn sâu xa nhất trong lòng của chúng ta. Thật là thú vị khi chúng ta biết rằng "Koinonia" là một từ được dùng trong giấy kết hôn (giấy tờ hợp pháp) của những dân tộc nói tiếng HyLạp trong thời Tân Ước. Hôn nhân được gọi là "Koinonia".

Từ "Koinonia" cũng có nghĩa là "cộng đồng". "Cộng đồng" là một nhóm người liên kết với nhau quanh một quyền lợi chung.

Tình yêu của Chúa Jesus dành cho chúng ta là vô điều kiện. Một tình yêu như thế có quyền năng để tha thứ, chữa lành và khôi phục. Chúa Jesus muốn chúng ta có cùng tình yêu đó đối với nhau.

Nếu chúng ta có loại tình yêu này, các tín đồ có thể xưng ra những lỗi lầm của mình, chân thành và cởi mở trình bày những nan đề của mình. Trong một "Koinonia" (cộng đồng) Cơ đốc thật, chúng ta sẽ thấy người ta sẽ tìm đến và tìm được nơi nương náu, được chấp nhận và thông cảm trong tình yêu thương. Chúng ta cần "Koinonia" cho những lý do sau:

Đây là một số nhu cầu tình cảm cần được tìm thấy trong cộng đồng Cơ đốc. Chỉ cần có một cách thức giúp đỡ năng động trong Hội Thánh thì những nhu cầu riêng tư này sẽ được đáp ứng.

Trong những xã hội hay chống đối phúc âm thì những cách thức giúp đỡ như vậy là rất quan trọng.

Đây là điều có thật tại Hội Thánh đầu tiên ở Giêrusalem khi mới được hình thành trong một khoảng thời gian ngắn. Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo thời đó không nhiệt tình ủng hộ hình thức tương giao mới mẻ này của các Cơ đốc nhân. Như chúng ta đã thấy trong các bài học trước, chẳng bao lâu Hội Thánh đầu tiên đã rơi vào ngọn lửa bắt bớ và căm thù của tôn giáo. Họ đã bị đối xử thô bạo và bất công.

Do đó các tín đồ mới đã đến với nhau không những để thờ phượng và học hỏi thêm về Chúa Jesus, nhưng cũng để giúp đỡ và bảo vệ nhau trong một xã hội đầy thù hằn và ghen ghét.

Mối tương giao về sự tăng trưởng và giúp đỡ của các Cơ đốc nhân đã được hình thành trong suốt cả lịch sử Hội Thánh. Chúng ta không phải ngạc nhiên. Thần của đời này (Satan) luôn chống nghịch với mục đích của Đức Chúa Trời và bắt bớ dân Ngài.

3. Vai Trò Căn Bản Của Những Hội Thánh Tư Gia.

a. Giúp Đỡ Thực Tế.

Cách thức thực tế nhất mà Hội Thánh đầu tiên đã làm để giúp đỡ những tín hữu trong Hội Thánh là thông qua sự thông công ở trong nhà của họ.

Hội Thánh tại Giêrusalem hình thành vào ngày Chúa nhật của Lễ Ngũ tuần với 3.000 người. Họ phát triển nhanh chóng khi số lượng lớn đàn ông, đàn bà được thêm vào mỗi ngày. Một số người tin rằng một, hai năm sau, số lượng của họ có thể lên từ 30.000 đến 40.000 người. Làm thế nào bạn có thể chứa trong nhà một số lượng người đông như thế?

Chúa Jesus đã cảnh báo rằng thành phố và đền thờ này sẽ bị hủy phá. Không có chỗ nào trong Kinh Thánh chép lại rằng họ đã cố xây dựng một nơi nhóm họp lớn. Thay vì vậy họ khuyến khích Hội Thánh nhóm tại các gia đình. Sau đó họ thiết lập các trưởng lão để chăm lo cho những nhóm mới hình thành này.

Sau đó các sứ đồ vẫn có thể liên lạc được với tất cả mọi người thông qua các trưởng lão đã được thiết lập cho mỗi nhóm tư gia.

Chính Phierơ và Giăng đã thuật lại cho hội đồng Do thái về một trong các buổi nhóm tư gia mà họ đã chữa lành cho người què ở cửa đền thờ (Công 4:23)

Tư gia là bối cảnh rất tự nhiên và đơn giản để thiết lập mối thông công và chức vụ rất thực tế.

Người ta không hề biết đến các giáo đường lớn và giới tăng lữ mặc áo thụng đen cho đến thời của Constantine (một Hoàng đế La-mã, mà người ta cho rằng đã tin Chúa vào thế kỷ thứ tư).

Các giáo đường và giới tăng lữ xuất hiện là dấu hiệu sa sút của Hội Thánh, và những điều đó bắt đầu thay thế cho sự hiện diện và quyền năng của Thánh Linh. Những điều này đã thay thế sự phục vụ của mỗi chi thể đối với Chúa, đối với nhau và với thế gian này.

Sự thay thế của những tòa nhà lớn và giới tăng lữ lên mình có liên quan đến sự sa sút trong đời sống thuộc linh.

Chức vụ của các tín hữu đã bị ngăn cấm khi giới tăng lữ chuyên nghiệp đã xa rời đức tin chân thật. Sự gắn bó cá nhân không còn nữa, những nhu cầu tình cảm về yêu thương và chấp nhận nhau không còn tràn đầy. Những hình thức tôn giáo đã thay thế Koinonia chân chính.

b. Quan Hệ Cá Nhân.

Con trẻ cần vuốt ve, nói chuyện, bồng ẵm và ôm ấp hơn là thực phẩm và mặc ấm. Có những trường hợp, các cô nhi viện phải chăm sóc quá nhiều trẻ mới sinh nên đã thiếu nhân viên. Những đứa trẻ mới sinh này có đủ nhu cầu vật chất nhưng đã chết vì thiếu sự chăm sóc, bồng ẵm và ôm ấp.

Những người lớn cũng có thể chết vì thiếu tình yêu thương với một tiến trình chậm hơn. Đối với một số người, đó là sống mà tưởng như đã chết rồi, không được yêu thương, không được lưu tâm, không ích lợi, không được chăm sóc.

Ở các nước phương tây, cô đơn là một trong những căn bệnh lớn của thời đại chúng ta. Trong một đám đông, chúng ta vẫn cảm thấy cô đơn nếu không có ai biết hoặc quan tâm đến chúng ta.

Hội Thánh phải có cách thức đặc biệt và riêng tư đối với những người đã xa rời sinh hoạt của cộng đồng Cơ đốc. Điều này rất cần với những người lớn tuổi và bệnh tật, cùng tất cả những ai đã mất sự quan hệ yêu thương với những người khác.

Như chúng ta đã nói, một trong những lý do để có các buổi nhóm thông công tư gia trong Hội Thánh đầu tiên là để cung cấp sự giúp đỡ tình cảm cho những người cần đến. Mỗi người đều biết họ thuộc về một nhóm cầu nguyện, chăm sóc là nhóm người tiếp nhận và yêu thương họ trong Chúa.

Sự tương giao là nơi mà tình yêu của Đức Chúa Trời được chia sẻ theo những cách cá nhân và thực tế. Những nhu cầu của con người về cả mặt tình cảm (tình yêu thương) và về quyền bính (lẽ thật) có thể được thỏa mãn và đáp ứng.

Đó là đường lối thánh của Đức Chúa Cha về sự dẫn dắt, sữa trị, bảo vệ và cung cấp cho tất cả mọi người trong gia đình ấm áp riêng của Ngài.

Đó là cảm giác an toàn khi chúng ta biết rằng chúng ta được cha mẹ, anh chị em trong gia đình của Đức Chúa Trời giúp đỡ. Đó là sự tương giao mà trong đó những khả năng của chúng ta và những ân tứ thiên thượng của chúng ta đều được cần đến.

Hội Thánh luôn là nơi chúng ta có thể thờ phượng, phục vụ và làm chứng cho nhau.

B. CÁCH THỨC GIÚP ĐỠ VỀ TÀI CHÁNH

Cách thức thứ hai mà Kinh Thánh dạy chúng ta để giúp đỡ lẫn nhau nằm trong lĩnh vực tài chánh.Theo mục đích của chúng tôi, điều này không chỉ bao gồm vấn đề tiền bạc mà còn bao gồm cả những đồ đạt vật chất và những việc làm khác nữa.

1. Trong Hội Thánh Đầu Tiên

Chúng ta hãy xem Hội Thánh đầu tiên đã hành động như thế nào để phát triển cách thức giúp đỡ tài chánh cho những chi thể. Chúng ta sẽ kiếm những nguyên tắc của Kinh Thánh để ứng dụng trong thời đại và bối cảnh của chúng ta. Chúng ta sẽ bắt đầu với Hội Thánh mới thành lập ở Giêrusalem.

"Tất cả các tín đồ đều thường xuyên gặp nhau và chia xẻ cho nhau mọi thứ, bán của cải mà chia cho người có nhu cầu. "... Có một sự tương giao nồng ấm giữa vòng những kẻ tin và không có ai nghèo nàn, vì những người nào có đất đai, nhà cửa đều bán đi, đem tiền đến cho các sứ đồ để chia cho những người có nhu cầu " (Công 2:44, 45; 4:34, 35 smf).

Thái độ của chúng ta về của cải thường biểu lộ những điều trong lòng của chúng ta - hoặc tốt hoặc xấu.Đức Chúa Trời đã giải cứu Hội Thánh Giêrusalem khỏi tham lam xấu xa và sự giả dối (nói dối) bằng cách rất thuyết phục. Đây là điều đã xảy ra:

"Giôsép, người mà các sứ đồ gọi là Banaba (con trai của sự yên ủi), là một người Lêvi, quê hương ở tại Chíprơ. Ông đã bán một số đất đai và mang tiền đến cho các sứ đồ để chia cho những người có nhu cầu.

"Có một người đàn ông tên là Anania và vợ là Saphira cũng bán một số đất đai. Tuy nhiên họ đã giữ lại một phần giá bán nhưng họ đã làm như thể đã đem tất cả số tiền đến cho các sứ đồ vậy.

"Phierơ đã nhìn thấy trong lòng họ và nói thẳng rằng "Hỡi Anania. .. Tại sao ngươi nói dối Thánh Linh? ... Miếng đất và số tiền là của ngươi, ngươi muốn làm gì tùy ý. Không phải ngươi nói dối chúng ta nhưng nói dối Đức Chúa Trời. Khi Anania nghe những lời này, ông đã ngã xuống nền nhà và chết " (4:36-5:11 smf).

Sau khi Anania chết, vợ ông là Saphira cũng bị xét xử tương tự và bà cũng ngã chết.

a. Những Nguyên Tắc Được Khám Phá.

Chẳng bao giờ có đủ tiền để giúp đỡ mọi người. Vì vậy điều cần thiết là phải biết giúp ở đâu và giúp khi nào. Nhiều điều và nguyên tắc thực tế và quan trọng được tìm thấy trong cách thức giúp đỡ về tài chánh của Hội Thánh thời Tân Ước.

1) Những Yêu Cầu Giúp Đỡ Phải Được Kiểm Tra. Những người có đời sống phục vụ người khác và có nhu cầu thì nên giúp đỡ.

Phaolô đã thiết lập những nguyên tắc thực tế về việc giúp đỡ tài chánh cho những tín hữu trong Hội Thánh. Chẳng hạn ông dạy chúng ta phải có trách nhiệm với bà góa "Hãy cung cấp nhiều (theo nguyên văn) cho những đàn bà góa, những bà góa thật sự có nhu cầu " (ITi 5:3 N.I.V).

a) Những Người Già và Người Tật Nguyền. Những người được giúp đỡ phải là những người những người già hoặc tật nguyền không có khả năng làm việc hoặc tự nuôi mình. "Nếu những bà góa không trên sáu mươi tuổi thì đừng lên danh sách. .." (5:9 N.I.V).

b) Có Khả NăngLàm Việc. Những ai có khả năng về thể lực và tinh thần thì phải làm việc. Hội Thánh không nên giúp đỡ họ "... Khi chúng tôi ở với anh em, chúng tôi đã nêu cho anh em nguyên tắc này: Nếu một người không làm việc thì cũng không nên ăn ".

"Chúng tôi nghe rằng giữa vòng anh em có một số người không chịu làm việc. .. Trong Chúa Jesus Christ, chúng tôi ra lệnh và buộc những người như vậy phải làm việc và kiếm bánh ăn " (IITê 3:10-12).

c) Những Người Bà Con Phải Có Trách Nhiệm. Những người bà con trong gia đình phải có trách nhiệm với những người già hoặc không có khả năng làm việc.

"Nhưng nếu đàn bà góa có con hoặc cháu thì những người này trước hết phải bày tỏ sự mộ đạo của mình bằng cách chăm sóc gia đình của mình và cũng chăm sóc cho cha mẹ và ông bà của mình nữa, vì điều này làm Đức Chúa Trời hài lòng.

"Nếu có ai không chịu cung cấp cho bà con của mình và đặc biệt là cho gia đình của chính mình thì người đó đã chối bỏ đức tin và còn tệ hơn những người chưa tin Chúa nữa " (ITi 5:4, 8 N.I. V).

Những người lãnh đạo Hội Thánh nên dạy điều này và yêu cầu các gia đình nên vui vẻ nhận trách nhiệm về những người bà con của họ. Nếu điều này không thực hiện được hoặc không có người bà con nào thì...

d) Người Đó Đáng Được Giúp Đỡ. Những người được giúp đỡ về tài chánh phải là người xứng đáng.

"Đừng kê tên vào sổ những đàn bà góa trừ khi người ấy chung thủy với chồng và được người khác biết đến về phương diện công việc tốt như nuôi dạy con cái, hay tiếp khách, rửa chơn các thánh đồ, giúp đỡ những người đang gặp khủng hoảng, và tự nguyện làm tất cả những công việc thiện " (ITi 5:9, 10 N.I. V).

e) Gương mẫu của Hội Thánh Giêrusalem. Nhiều tín đồ từ các tỉnh lẻ đã lên Giêrusalem để dự lễ Ngũ tuần (Công 2:5-12). Sau khi xưng nhận Đấng Christ là Đấng Mêsia, Cứu Chúa, họ đã được báptêm bằng nước và được đầy dẫy Thánh Linh. Có một số người đã gia nhập cộng đồng Cơ đốc ở Giêrusalem.

Vào lúc đó, có lẽ một số người đã không còn tiền và khó kiếm được công việc làm. Một số tín đồ cũng nghèo khó và cũng có những người góa bụa.

Dây yêu thương trong gia đình Đức Chúa Trời mạnh mẽ đến nỗi nhiều người đã cảm động bán đi những gì họ có và đem số tiền bán được đến cho các sứ đồ và những người lãnh đạo để chia sẻ công bằng cho những ai đang có nhu cầu.

2) Không Có Ai Bị Buộc Phải Dâng. Không có áp lực nào trên tín đồ để buộc họ phải bán tài sản của họ. Họ đã làm điều đó cách vui mừng và tự nguyện để dâng những gì mình có cho những người không có gì cả. Họ đã làm điều này dưới sự hướng dẫn của người lãnh đạo. Do đó mọi sự đã diễn ra theo trật tự và công bằng.

Tội lỗi của Anania và Saphira không phải là việc họ giữ lại một phần tiền bán đất. Họ có quyền giữ lại tất cả số tiền nếu họ muốn.

Các sứ đồ không bao giờ yêu cầu tín đồ bán đất đai của họ mà dâng hết số tiền. Ngay cả Đức Chúa Trời cũng không đòi hỏi nếu họ giữ lại toàn bộ số tiền bán đất.

Nhưng tội lỗi của vợ chồng Anania là họ đã nói dối về số tiền họ dâng. Họ đã giả vờ và làm như thể đã dâng mọi thứ cho Đức Chúa Trời trong khi họ không thực lòng như vậy. Có lẽ họ nghĩ rằng sự dâng hiến của họ sẽ làm cho họ có tiếng tăm dưới mắt của các sứ đồ và mọi người.

Vấn đề là họ không bị buộc phải dâng và họ cũng không được nói dối.

Nếu họ giữ lại số tiền họ đã bán tài sản thì họ vẫn được cộng đồng yêu thương và chấp nhận, thay vì vậy họ đã giả vờ như đã dâng tất cả.

3) Sự Lãnh Đạo Trung Thực Là Điều Cần Thiết! Hội Thánh đầu tiên là Hội Thánh có ơn vì có những người lãnh đạo công bình, là những người trung thực có đức tính tốt.

Các sứ đồ đã được chính Chúa Jesus huấn luyện. Nhưng giữa vòng các sứ đồ này có một người đã bị ma quỉ nắm lấy vì ông ta không thành thật và tham lam.

Cuối cùng cuộc đời của ông ta là một thảm kịch. Ông không những đã tự bán mình cho Satan mà còn bán Chúa mình cho những kẻ đóng đinh Ngài. Tên của ông là Giuđa. Điều này thật sự là một lời cảnh báo cho tất cả con cái Chúa trong mọi thời đại!

Có lẽ đây là lý do khiến Đức Chúa Trời xử lý nghiêm khắc với Anania và Saphira. Có lẽ trong họ có cùng một tà linh như đã hành động và thúc giục trong lòng Giuđa. Nếu tà linh này không được xử lý thì nó có thể làm ô uế và tổn hại đến cộng đồng Cơ đốc ở tại Giêrusalem.

Chính Thánh Linh đã hành động mau lẹ để diệt trừ tà linh này trước khi nó có thể lan ra khắp cả Hội Thánh.Mọi người đều biết đến vì "cả Hội Thánh đều rất sợ hãi " (Công 5:11).

b. Chính Sách Về Tài Chánh.

Bây giờ chúng ta có thể hiểu được vì sao các sứ đồ lại hết sức cẩn thận để tài chánh được quản lý theo cách công bằng và trung thực. Đó là một nhiệm vụ nghiêm trọng mà họ phải chịu trước mặt Chúa. Theo sự ghi lại của sách Công-vụ, chúng ta thấy họ đã đặt ra một kế hoạch hay một chính sách về tài chính với sự cẩn thận và khôn ngoan hết mức. Điều đó thật đáng cho chúng ta nghiên cứu.

1) Những Người Lãnh Đạo Là Những Người Trung Thực Và Đầy Dẫy Thánh Linh. Những ai có trách nhiệm về những vấn đề thương mại của Hội Thánh phải là những người thông thạo, trung thực đầy dẫy Thánh Linh và có tiếng tốt. Họ là những người khôn ngoan, chân thật, có đức tính và phẩm hạnh mà cả Hội Thánh đều biết. Những người bên ngoài đều biết họ và họ là đầy tớ trung thành trong Hội Thánh. Đời sống hằng ngày của họ và gia đình riêng của họ chứng minh rằng họ là những người có thể tin cậy được.

2) Giúp Đỡ Những Người Đến Trước. Nhu cầu "con người" đặt trước nhu cầu của "chương trình". Khi có những nhu cầu cá nhân xuất hiện, thì Hội Thánh cần được thông báo về điều đó. Những người lãnh đạo không cần phải thúc ép hoặc không trung thực trong những yêu cầu của họ.

Các con cái Chúa cần được biết nhu cầu và cách sử dụng tiền bạc như thế nào. Do đó họ sẽ dâng hiến tự nguyện và vui mừng. Không nên lấy sự đoán phạt của Đức Chúa Trời để dọa họ hoặc lấy ơn phước của Đức Chúa Trời khuyến dụ họ.

Nói cách khác, họ không nên dâng hiến vì cớ sợ những gì Đức Chúa Trời sẽ làm nếu họ không chịu dâng. Họ cũng không nên dâng hiến với ý nghĩ rằng Đức Chúa Trời sẽ ban thưởng cho họ số tiền lớn hơn.

Họ dâng hiến chỉ vì tình yêu của Đức Chúa Trời cảm động trong lòng họ để giúp đỡ cho các anh, chị em trong Chúa. Sau đó những người khác cũng đã dâng hiến như Thánh Linh thúc giục họ vậy.

3) Theo Nhu Cầu Của Mỗi Người. Những người lãnh đạo phải biết phân phối và ban cho "theo nhu cầu của mỗi người". Cách thức giúp đỡ tại Hội Thánh Giêrusalem đã đáp ứng những nhu cầu thực tế cho mọi người, không nhiều hơn cũng không ít hơn. Mọi người đều nhận phần phân chia công bằng của mình. Điều này là điều có thể làm được vì những người có nhu cầu thật sự đều được những người trong nhóm tư gia biết rõ.

Bất cứ ai lười biếng, không chịu làm việc hoặc không chịu phục vụ trong cộng đồng đều không được giúp đỡ tài chánh gì cả. Những người ích kỷ và dại dột để bị mắc nợ lớn thì đừng mong Hội Thánh sẽ thanh toán cho. Hội Thánh đừng bao giờ phạm vào sai lầm là giúp đỡ cho những người có cách ăn ở vô trách nhiệm.

Những ai hành động vô trách nhiệm thì cần được dạy về những kỷ luật và mạng lịnh thánh mà Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm theo trong lãnh vực tài chính của chúng ta. Bất cứ khi nào chúng ta mắc nợ, chúng ta phải chịu sự trói buộc và điều đó sẽ cản trở sự tự do của chúng ta trong sự hầu việc Chúa.

Đối với những người có nan đề về tài chánh thì có một nguyên tắc đơn giản để làm theo là "Nếu bạn không cần điều đó thì đừng lấy. Nếu bạn không có tiền thì đừng mua".

Nợ nần quá nhiều không chỉ hạn chế sự hầu việc Chúa của chúng ta mà còn làm hỏng sự làm chứng của chúng ta trên thế gian này. Một dấu hiệu của sự trưởng thành thuộc linh là khôn ngoan trong cách sử dụng tiền bạc.

Chính sách tài chánh của Hội Thánh đầu tiên cũng tránh được một nan đề khác là:

4) Phải Đề Phòng Những Người Hầu Việc Chúa Tự Phong. Những người hầu việc Chúa tự phong cảm thấy rằng các thánh đồ phải có trách nhiệm lo cho đời sống của họ. Một số người đã ra đi mà không hề được một nhóm có trách nhiệm nào sai đi. Họ đến một nơi nào đó và thông báo với các anh em ở địa phương đó rằng họ đã được Đức Chúa Trời sai đi và cần sự ủng hộ tài chánh. Họ không ở dưới một quyền bính nào cả nhưng lại muốn được mọi người tôn trọng, và cần tiền.

Trong những thư tín của Phaolô, ông có đề cập đến những chức vụ này và khuyên các thánh đồ phải chống lại những người đó. Hiện nay nan đề này vẫn còn. Chúng ta cần phải đề phòng trường hợp này để không bị lừa dối. Thật vậy, trong Kinh Thánh có những gương mẫu an toàn và khôn ngoan về vấn đề tài chánh trong Hội Thánh.

c. Mối Quan Hệ: Bí Quyết Để Sự Giúp Đỡ Được Thành Công.

Chúng ta thấy rằng Hội Thánh đầu tiên có sự giúp đỡ về mặt tình cảm và điều này làm cho công tác lãnh đạo gắn bó với con cái Chúa. Từ mối quan hệ này đã hình thành sự giúp đỡ về mặt tài chánh.

Không những những nhu cầu về tình cảm giữa vòng các Cơ đốc nhân được thỏa mãn mà các nhu cầu về vật chất và tài chánh cũng được đáp ứng.

Bởi vì những người lãnh đạo tinh kính và dân sự đã biết về nhau trong Chúa nên một chính sách khôn ngoan và công bình về tài chánh đã được hình thành. Chúa đã ban phước "và trong tín đồ không có ai thiếu thốn cả ".

C. CÁCH THỨC GIÚP ĐỠ THUỘC LINH.

Hội Thánh Giêrusalem đã phục vụ nhau không những trong lĩnh vực tình cảm và tài chánh mà còn trong những nhu cầu thuộc linh nữa. Họ đã làm điều này qua cách thức giúp đỡ thuộc linh được tìm thấy trong các buổi nhóm tư gia.

1. Hội Thánh Tư Gia: Nơi Tốt Nhất Để Tăng Trưởng.

Nơi tốt nhất để cho cây ăn trái phát triển là trong vườn cây ăn trái. Vườn cây ăn trái là nơi cây cối được bảo vệ khỏi những hiểm nguy bên ngoài bằng những hàng rào. Rễ của nó ăn sâu xuống lòng đất để hút được nước và phân bón. Nhánh của nó được tỉa sửa để ra trái ngon nhất. Sâu bệnh phá hoại cây sẽ được chữa trị ngay lập tức. Đó là môi trường đã được qui hoạch cẩn thận nhằm làm cho cây kết quả cao nhất.

Một nhóm thông công nhỏ cũng giống như một vườn cây ăn trái. Đó là nơi để bảo vệ gìn giữ.

2. Hội Thánh Tư Gia: Nơi Tốt Nhất Để Học Tập

Chúng ta học tập bằng cách cố gắng và cũng phạm lỗi lầm. Lỗi lầm thì cần sửa sai. Sửa sai trong tình yêu của Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ bị từ chối.

Nếu tình yêu của Đức Chúa Trời (tiếng HyLạp là Agape) tràn đầy trong lòng của những người lãnh đạo và các tín hữu thì chúng ta sẽ không sợ bị sửa sai. Tất cả chúng ta đều cần sự sửa sai nhưng chúng ta muốn được những người yêu thương chúng ta làm điều đó. Nếu chúng ta là người dễ bảo và không phản loạn thì chúng ta có thể phạm sai lầm mà không sợ sẽ bị loại bỏ.

Khi chúng ta cảm nhận Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm một điều gì đó, chúng ta phải làm ngay. Nếu chúng ta sợ phạm sai lầm thì điều này sẽ cản trở chúng ta không dám có những hành động đức tin mạo hiểm.

Phierơ đi bộ trên mặt nước với Chúa Giêxu là một ví dụ điển hình. Cái nhảy của Phierơ và bước đi bởi đức tin của ông đã đưa ông ra khỏi con thuyền và đi trên mặt biển đang có bão. Khi ông bắt đầu chìm vì sợ hãi thì Chúa Jesus đã nắm lấy tay Phierơ và nâng ông lên trở lại. Sau đó Chúa Jesus dạy ông về những nguy hiểm của sự nghi ngờ lời Đức Chúa Trời.

Học được bài học của mình, Phierơ cùng với Chúa Jesus, hai con người đức tin đã sánh bước bên nhau quay trở lại con thuyền xuyên qua bão tố.

Hành động đức tin của Phierơ dù có lúc trồi lúc sụt, cũng được Đức Chúa Trời ban phước lớn. Chỉ có Phierơ mới dám tin lấy lời của Chúa Jesus. Chỉ có Phierơ mới dám có hành động đức tin mạo hiểm và đi bộ trên nước! (xem Mat 14:22-34).

Nhóm tư gia là nơi chúng ta có thể học tập bước đi trong Thánh Linh một cách an toàn và khôn ngoan. Hy vọng rằng sẽ có những người trong nhóm tư gia của bạn có thể sửa sai bạn cách khôn ngoan và cứu bạn khi bạn nghi ngờ và phạm sai lầm.

a. Học Sử Dụng Các Ân Tứ Thuộc Linh.

Phaolô nói rằng "Tất cả anh em đều có thể nói tiên tri... để tất cả đều có thể học tập" (ICôr 14:31 smf). Câu này có hai ý nghĩa:

• Chúng ta "học" nói tiên tri bằng cách nói tiên tri.

• Chúng ta "học" những gì chúng ta nghe khi có một người nào đó nói tiên tri. Nói tiên tri thường hàm chứa sự chỉ dẫn.

Theo điểm thứ nhất, chúng ta học được rằng Đức Chúa Trời không chỉ ban cho chúng ta những ân tứ của Thánh Linh nhưng chúng ta phải học cách sử dụng những ân tứ đó nữa.

Được Đức Chúa Trời kêu gọi và ban cho ân tứ thì chưa đủ. Chúng ta phải học làm thế nào để thực hiện "xuất sắc", tức là thực hiện chức vụ của chúng ta một cách trọn vẹn và khôn ngoan. Điều này cần phải có thời gian trau dồi và kinh nghiệm thực tế.

Cách thức giúp đỡ thuộc linh của Hội Thánh nên có những buổi nhóm dành cho những người khao khát sử dụng những ân tứ Thánh Linh chẳng hạn như chức vụ giảng dạy.

3. Huấn Luyện Trong Những Buổi Nhóm Lớn

Có thể dạy cho các tín hữu phục vụ lẫn nhau trong những buổi nhóm có hàng trăm người nhóm nhau lại. Đây là cách để làm được điều này:

a. Hình Thành Những Vòng Tròn Cầu Nguyện.

Hãy tạo thành những vòng tròn cầu nguyện từ bốn đến sáu người. Họ đứng trong một vòng tròn đối mặt nhau và nắm tay nhau.

Sau đó họ làm những điều sau:

1) Giới Thiệu. Mỗi người trong nhóm cầu nguyện tự giới thiệu tên mình.

2) Chia Sẻ Những Nan Đề Cầu Nguyện. Sau đó mỗi người đều chia sẻ một nan đề cầu nguyện. Nan đề cầu nguyện là một điều gì đó mà họ muốn mọi người cùng cầu nguyện với họ. Có thể họ muốn cầu nguyện cho sự chữa lành cơ thể hoặc được Đức Chúa Trời giúp đỡ trong vấn đề kiếm việc làm, hoặc nhiều vấn đề khác mà không thể nói hết được.

3) Mỗi Người Cầu Nguyện. Sau đó người mang số một cầu nguyện cho người mang số hai (lúc này những người còn lại cầu nguyện thầm) khoảng một hoặc hai phút, cầu xin Đức Chúa Trời đáp lời cầu xin của họ. Sau đó người mang số hai cũng cầu nguyện cho người số ba giống như vậy. Cứ tiếp tục như vậy cho đến khi mọi người trong vòng tròn đều được cầu thay.

4) Chia Sẻ Những Khải Tượng. Trong khi điều này đang xảy ra, đôi khi Thánh Linh sẽ ban cho chúng ta một bức tranh trong đầu (một khải tượng) có liên hệ đến nhu cầu của người đang được cầu thay. Đôi khi Thánh Linh lại ban cho một lời "cầu nguyện tiên tri" hay một câu Kinh Thánh đến trong trí để chia sẻ. Tất cả những điều này (đều được Thánh Linh ban cho) phải chia sẻ cho người đang được cầu thay.

5) Cần Phải Xác Nhận. Sau đó chúng ta nên hỏi người mà chúng ta chia sẻ khải tượng, lời cầu nguyện tiên tri hoặc một câu Kinh Thánh rằng: "Điều đã được chia sẻ có đúng nhu cầu của bạn không? Điều đó có nói đúng nỗi quan tâm của bạn không? Có chính xác không?"

Nếu họ nói KHÔNG thì người nói sai nên trả lời rằng "Tôi đang học tập và đôi khi có phạm sai lầm. Xin lỗi. Tuần sau tôi sẽ cầu nguyện nhiều hơn về điều này, và lần tới xin Chúa giúp tôi làm tốt hơn".Nếu họ nói ĐÚNG, thì hãy cảm tạ Chúa vì Ngài đã giúp bạn để bạn giúp người khác.

b. Những Nguyên Tắc Của Vòng Tròn Cầu Nguyện.

Nếu làm theo các nguyên tắc được nêu ra ở trên thì vòng tròn cầu nguyện sẽ là những lúc học tập có giá trị. Hãy nhớ rằng những nguyên tắc này đòi hỏi ba điều:

1) Tự Do Làm Thử , nghĩa là khi đang thử người ta cũng dễ phạm sai lầm.

2) Có Giới Hạn. Có nghĩa là một người nào đó phải xác minh rằng những điều đang được chia xẻ là đúng và chính xác. Nếu không thì hãy chân thật nhìn nhận là...

3) Có Sai Lầm. Điều này có nghĩa là chúng ta có khả năng phạm sai lầm.

Tâm tánh và các ân tứ của chúng ta phải được phát triển đồng thời, đi đôi với nhau. Người ta không thể trở thành một "tiên tri" lớn chỉ qua một đêm được.

Cần phải có thời gian học hỏi và thử nghiệm, học tập những đường lối của Thánh Linh Đức Chúa Trời. Sau đó khi chúng ta phạm sai lầm và chấp nhận sự sửa sai, chúng ta sẽ trưởng thành trong ân tứ và chức vụ. Hội Thánh tư gia là môi trường lý tưởng cho khuôn mẫu Kinh Thánh này.

Hầu hết các trường Kinh Thánh và các chủng viện để rất ít thì giờ hoặc ít chú ý đến các ân tứ của Thánh Linh. Vì vậy hầu như họ chẳng bao giờ dạy cho các học viên cách đáp ứng với hành động của Thánh Linh.

Chúng ta chẳng bao giờ học được làm thế nào để bước đi trong sự vận hành của Thánh Linh qua một bài thuyết trình sơ lược được. Phải có kinh nghiệm thực tế ở nơi chúng ta đang tham dự và làm việc với những người có ân tứ.

c. Hội Thánh Đầu Tiên.

Trong Hội Thánh đầu tiên (Hội Thánh trong Tân Ước), các tân tín hữu đã được cho biết làm thế nào để bước đi trong quyền năng của Thánh Linh trong các nhóm nhỏ.

Họ có thể học cách nói và hành động trong đức tin nhưng phải có trật tự thiên thượng. Họ được những người lãnh đạo khôn ngoan và yêu thương khích lệ và điều chỉnh.

Trái và ân tứ Thánh Linh phải được giữ cho quân bình. Do đó các tín đồ mới có thể lớn lên cả về tâm tánh và về sự kêu gọi của họ. Đức Chúa Trời quan tâm nhiều đến những "người làm việc" (nhân sự) cũng như Ngài quan tâm đến "công việc".

Chúng ta cần những lời khải đạo của những người lãnh đạo tin kính và cần sự tương giao với các anh chị em để tăng trưởng trong Chúa. Chúng ta học tập bằng cách phục vụ sự sống Ngài cho nhau. Chúng ta không được dựng nên để "ở một mình"!

Trong môi trường của một nhóm nhỏ, chúng ta phải đối diện với kết quả của hành động chúng ta với người khác. Điều này sẽ giữ cho đời sống chúng ta được quân bình. Tâm tánh và sự kêu gọi của chúng ta, động cơ và chức vụ của chúng ta, sẽ phát triển một cách chắc chắn và vững vàng.

Sau đó khi chúng ta sẵn sàng ra đi để phục vụ thế giới này, chúng ta sẽ ra đi với phước hạnh, với sự chấp thuận và hỗ trợ của Hội Thánh ở địa phương.

D. THỰC TẬP CÁC NGUYÊN TẮC

Chúng tôi đã nêu cho bạn thấy một số nguyên tắc liên quan đến các cách giúp đỡ về tình cảm, tài chánh và thuộc linh. Tuy nhiên khi đưa những ý tưởng này vào thực hiện thì nên nhớ ba điều này:

1. Phải Thực Hiện Cẩn Thận Và Từ Từ.

"Các ý tưởng của người cần mẫn dẫn đến sự dư dật; còn những kẻ khờ dại chỉ chạy đến điều thiếu thốn " (Châm 21:5 smf).

Đức Chúa Trời không vội vàng, Ngài muốn làm mọi sự cách khôn ngoan và tốt đẹp. Điều này có nghĩa là phải đặt nền một cách cẩn thận. Bạn đặt nền cho các tín hữu trong Hội Thánh theo những bước sau:

a. Tài Liệu Huấn Luyện Tín Đồ Mới.

Hãy bắt đầu dạy thật nhẹ nhàng về "tài liệu huấn luyện tín đồ mới" cho họ. Điều này sẽ giúp họ hiểu được mục đích thiên thượng đằng sau những biến đổi ở trước mắt họ.

b. Chiến Sĩ Cầu Nguyện.

Dạy họ làm thế nào để trở thành chiến sĩ cầu nguyện, sử dụng những phần A4 và A5 của tài liệu "Hướng dẫn huấn luyện người lãnh đạo"

c. Báptêm Và Các Ân Tứ Thánh Linh.

Dạy họ về phép báptêm trong Đức Thánh Linh và các Ân Tứ Thánh Linh trong những phần D1.1 - D1.3 của tài liệu "Hướng dẫn huấn luyện lãnh đạo".Điều này sẽ giúp họ thấy vai trò phải làm là gì và phước hạnh mà Đức Chúa Trời dành cho họ. Điều này cũng sẽ cắt bỏ sự sợ hãi mà nhiều người đã có khi đang được huấn luyện để phục vụ người khác.

2. Phải Thực Hiện Từ Một Tấm Lòng Sẵn Sàng.

"Các ngươi hãy nhận lấy lễ vật của mọi người có lòng thành dâng cho " (Xuất 25:2).

Sự thờ phượng, công việc và sự phục vụ là những điều làmđẹp lòng Đức Chúa Trời, vì thế đó không nên là những công việc ép buộc. Vì ép buộc là ngược lại với luật yêu thương. Hãy dạy dỗ họ và sau đó để Thánh Linh hành động trong họ để họ tự nguyện phục vụ và chịu huấn luyện.

Những người được Thánh Linh phán bảo, cảm động, dạy dỗ và đụng chạm thì họ sẽ đáp ứng lại cách sung sướng và tự nguyện. Một người chăn bầy khôn ngoan sẽ yêu thương và kiên nhẫn dẫn dắt bầy của mình vào sự trưởng thành và có trách nhiệm. Không nên ép buộc hoặc thúc bách họ.

3. Mọi Người Phải Cùng Làm Chung Với Nhau.

"Khi Hội Thánh nhóm lại một nơi. .. trong anh em ai có bài ca hoặc bài giảng dạy, hoặc lời tỏ sự kín nhiệm, hoặc nói tiếng lạ hoặc giải tiếng lạ chăng? Hãy làm hết thảy cho được gây dựng. .. Bởi vì anh em đều cứ lần lượt mà nói tiên tri được cả, để ai nấy đều được dạy bảo, ai nấy đều được khuyên lơn " (ICôr 14:23, 26, 31).

Ý chính trong những câu này là các ân tứ và các chức vụ chỉ được học tập khi chúng được áp dụng trong buổi nhóm của Hội Thánh. Chúng ta học bằng cách làm những điều này cho nhau và với nhau.

Cách Phaolô dùng từ "hết thảy" lặp đi lặp lại, cho chúng ta thấy rõ rằng mọi người đều phải có phần trong chức vụ.

Không phải chỉ có những người thường hay ra đi và có ơn mới phục vụ. Mọi người đều có phần và chức vụ trong Thân Thể của Đấng Christ. Trong kế hoạch thiên thượng của Đức Chúa Trời, tất cả chúng ta đều học tập lẫn nhau bởi Thánh Linh của Ngài.

E. KẾT LUẬN.

Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta những nguyên tắc và khuôn mẫu thiên thượng một cách khôn ngoan. Qua đó ý chỉ của Ngài dành cho thời đại của chúng ta mới có thể thực hiện được qua dân sự của Ngài.

Khi chúng ta đến với Lời của Đức Chúa Trời, chúng ta mới thấy rằng:

1. Mỗi Tín Hữu Là Một Thầy Tế Lễ.

Đức Chúa Trời đã lập nên những người lãnh đạo trong Hội Thánh để trang bị và sửa soạn cho mọi người đều trở thành thầy tế lễ nhà vua theo quyền của Ngài.

2. Mỗi Tín Hữu Có Một Chức Vụ.

Chức vụ đó có thể được phát hiện và phát triển trong môi trường của những buổi nhóm nhỏ.

3. Những Buổi Nhóm Nhỏ Rất Quan Trọng

Ở đây, chúng ta có thể học tập được:

a. Cùng nhau thờ phượng Đức Chúa Trời.

b. Phục vụ nhau theo các ân tứ của Thánh Linh.

c. Ra đi làm chứng cho thế gian.

Đây là cách để chúng ta trở thành những chi thể trưởng thành trong Thân Thể Đấng Christ. Đây là ý chỉ của Đức Chúa Trời và đường lối của Đức Chúa Trời!

4. Những Người Lãnh Đạo Phải Cung Cấp

Là những người lãnh đạo trong Hội Thánh, chúng ta hãy thiết lập những hình thức giúp đỡ để bảo đảm cho sự phát triển thuộc linh của các chi thể. Chúng ta hãy cung cấp cho họ:

a. Sự giúp đỡ về mặt tình cảm:

Sự thông công (Koinonia).

b. Sự giúp đỡ về tài chánh:

Những người có nhu cầu về tài chánh.

c. Sự giúp đỡ thuộc linh:

Huấn luyện về những ân tứ và chức vụ thuộc linh.

Nếu bạn cẩn thận làm những điều này trong sự cầu nguyện thì Chúa sẽ thêm những người được cứu vào Hội Thánh của bạn.

 

E1.11 Chương 11: CHỨC VỤ ĐỐI VỚI THẾ GIAN: LÀM CHỨNG

Phần Dẫn Nhập

Mọi người cần phải hiểu:

• Kế hoạch... ĐIỀU gì sẽ được thực hiện.

• Mục đích... TẠI SAO điều đó sẽ được thực hiện.

• Phương Pháp... Điều đó sẽ được thực hiện NHƯ THẾ NÀO.

• Con người... AI sẽ thực hiện điều đó

• Nơi chốn.... Điều đó sẽ thực hiện Ở ĐÂU

• Chương trình... KHI NÀO thì điều đó sẽ được thực hiện.

Chúa Jesus nói với các môn đồ Ngài rằng vào thời kỳ cuối cùng thế giới này phải đối diện với thời kỳ tai họa và khó khăn lớn. Sự sợ hãi, căm thù và tham lam sẽ khiến cho các nước trên thế giới này tranh chiến lẫn nhau. Thật vậy "những ngày sau rốt" sẽ là những ngày tối tăm (xem Mat 24:1-41Lu 21:1-38).

"Sự tối tăm như ban đêm sẽ bao phủ tất cả các dân tộc trên đất này nhưng từ nơi ngươi, vinh quang của Chúa sẽ chiếu sáng ra " (Ês 60:2 smf).

Tuy nhiên có một hy vọng tươi sáng cho Hội Thánh của Chúa. Khi sự tối tăm gia tăng thì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trên dân Ngài cũng gia tăng. Kinh Thánh chép rằng trong những ngày sau rốt, Đức Chúa Trời sẽ "đổ Thánh Linh của Ngài trên mọi người ở mọi nơi. .. Và hễ ai cầu khẩn danh Chúa thì sẽ được cứu " (Công 2:17, 18, 21 smf).

Điều này dạy chúng ta rằng trong những giờ phút đen tối cuối cùng (nhưng đầy sự vinh hiển) sẽ có nhiều người nghe Phúc Âm và được cứu hơn bất kỳ một thời kỳ nào khác trong lịch sử. Sẽ có một cuộc phục hưng lớn ở thời kỳ cuối cùng. Ánh sáng của phúc âm sẽ chiếu vào sự tối tăm của thế giới chết chóc này.

Đức Chúa Trời luôn đưa đến "lời cảnh báo" và "chứng nhân" trước thời kỳ đoán phạt lớn. Ân điển bị từ chối sẽ đem đến sự đoán phạt. "Hãy ăn năn không ta sẽ đến nhanh chóng, và sẽ dùng lưỡi gươm của miệng ta mà đánh trận. .." (Khải 2:16).

Vì lý do này, Đức Chúa Trời muốn hiệp nhất Hội Thánh trong sự thờ phượng, công việc, chiến trận và làm chứng. Cuộc phục hưng chỉ xảy đến khi quyền năng và vinh hiển của Đấng Christ được bày tỏ qua Hội Thánh Ngài trên khắp thế giới này.

"Lạy Cha, Con cầu nguyện cho họ được làm một. .. để thế gian này tin rằng Cha đã sai con. .. vì phúc âm về vương quốc phải được rao giảng khắp thế gian để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến " (Giăng 17:20-21; Mat 24:14 smf).

A. SỰ GIẢNG HÒA: KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI /
SỰ TRUYỀN GIÁO CỦA CHÚNG TA.

"Sự giảng hòa" là một từ đẹp tuyệt vời có nghĩa là làm cho những người đã phá vỡ mối quan hệ với nhau được hòa thuận trở lại.

Khi con người phạm tội, họ đã đối kháng với Đức Chúa Trời và ở dưới sự kiểm soát của kẻ thù là Satan. Bất tuân Đức Chúa Trời là tội lỗi, và tội lỗi đã phân cách chúng ta với Đức Chúa Trời, làm cho chúng ta trở nên kẻ thù của Ngài.

Trong ân điển của Đức Chúa Trời, Ngài muốn tha thứ tội lỗi chúng ta và đem chúng ta trở lại gia đình của Ngài. Nói tóm lại, Ngài muốn chúng ta được "giải hòa" với chính Ngài và được hòa thuận với Ngài. Đó là lý do tại sao Ngài sai Con Ngài xuống thế gian để chết thay cho tội lỗi của chúng ta. Đức Chúa Trời muốn trở thành Cha của chúng ta và Ngài cũng muốn trở nên bạn hữu của chúng ta nữa!

Vâng, sự giảng hòa là một từ đầy sự kỳ diệu thánh khiết. Từ đó nói lên chính tấm lòng của Đức Chúa Trời và cho chúng ta biết về tình yêu và ân điển của Ngài cho cả nhân loại; và ước muốn của Ngài là đem toàn thể các dân tộc trên thế giới đến với Ngài.

Các quốc gia được hình thành bởi các dân tộc. Đức Chúa Trời yêu thương các dân tộc ngay cả những dân tộc đã phạm tội, làm theo ý riêng và đi theo con đường riêng. Bởi tội lỗi, con người đã lạc mất con đường đến với Đức Chúa Trời và trở thành kẻ thù của Ngài. Bởi Đấng Christ, Đức Chúa Trời đã tìm cách đem cả thế giới này trở lại mối quan hệ đúng đắn với chính Ngài.

"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con một của Ngài hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời " (Giăng 3:16).

Đức Chúa Trời đã mặc khải cho Phaolô tình yêu vĩ đại của Ngài dành cho các quốc gia trên thế giới. Hơn nữa Ngài còn đặt chính tình yêu đó vào trong lòng của Phaolô. Chúng ta hãy nghe kỹ lời ông viết cho Hội Thánh tại Côrinhtô:

"Bởi Đức Chúa Jesus Christ, Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta được hòa thuận với Ngài. Và Ngài đã ban cho chúng ta chức vụ đem mọi người trở lại hòa thuận với Ngài. Phải, Đức Chúa Trời đã ở trong Đấng Christ để làm cho thế gian hòa lại với Ngài. ..

"Vì vậy, chúng ta là những "sứ giả " hòa bình. Chúng ta là những khâm sai của Đấng Christ được sai đi với sứ điệp này: Hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời " (IICôr 5:18-20 smf).

Thật vậy, đây là kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho các dân tộc để họ được hòa thuận với chính Ngài. Mục đích của Đức Chúa Trời là phải có một gia đình rộng khắp thế giới. Ngài muốn có một dân tộc hết lòng yêu mến, thờ phượng và hầu việc Ngài. Ngài chẳng bao giờ đổi ý. Điều đó vẫn còn là một khát vọng sâu xa của lòng Ngài.

1. Con Người Với Sứ Mạng.

Sách Công-vụ là câu chuyện về con người với sứ mạng truyền giáo để đem thế gian đến với Đấng Christ. Trong những đoạn đầu của sách này, chúng ta thấy những con người được chọn, được kêu gọi và được chuẩn bị cho chức vụ của họ.

Chúa đã cho họ thời gian và sự huấn luyện cần thiết để "lớn lên" trong trái của Thánh Linh, và được "xuất sắc" trong những ân tứ thuộc linh. Thời gian để trưởng thành này có quan hệ đến chức vụ đối với Chúa và chức vụ đối với nhau. Cuối cùng đã đến lúc họ phải có chức vụ đối với thế gian này.

Câu chuyện của họ là một trong những câu chuyện về những con người bình thường (người chân đất chứ không phải là giới tăng lữ) đã được sử dụng theo cách phi thường nhất. Những con người nhỏ bé với một Đức Chúa Trời vĩ đại, đang tiến hành một công việc vinh hiển là chinh phục thế gian này cho Đấng Christ.

Công-vụ đoạn 7 và 8 thuật lại phong trào truyền giáo đầu tiên trong Hội Thánh Cơ đốc đã bắt đầu như thế nào.

a. Êtiên - Người Tử Vì Đạo.

Đoạn 7 là một câu chuyện nói về một con người bình thường tên là Êtiên. Bạn còn nhớ ông là một trong bảy người được chọn để phục vụ bàn tiệc. Ông đã trở thành một người có đức tin vĩ đại và đã thể hiện nhiều dấu kỳ, phép lạ giữa dân chúng. Ông cũng là người bảo vệ đức tin mạnh mẽ và đã trở thành Cơ đốc nhân đầu tiên hy sinh cuộc đời mình cho Chúa Jesus. Đức Chúa Trời đã tràn đầy trong cuộc đời ngắn ngủi của Êtiên dành cho Ngài.

Đoạn 7 đánh dấu một khúc quanh trong sách Công-vụ. Không còn tình trạng vây quanh các vị sứ đồ ở Giêrusalem nữa.

Kế hoạch Đức Chúa Trời là "mỗi chi thể là một người hầu việc Chúa" trong Hội Thánh của Đấng Christ bắt đầu tiến hành. Điều đó sẽ tạo nên sự "bùng nổ truyền giáo" tin lành làm xôn xao dư luận, mà mọi người xa gần đều biết đến. Điều đó đã xảy ra như thế nào và ai đã tạo nên sự rao giảng tuyệt vời đó.

b. Saulơ - Một Người Bắt Bớ.

Sau sự tử đạo của Êtiên, một con người có tên là Saulơ đã xuất hiện và Hội Thánh tại Giêrusalem chẳng bao giờ còn như trước nữa. Chúng ta hãy xem một đoạn Kinh Thánh thuật lại điều đó:

"Saulơ vui mừng về sự chết của Êtiên vì ông tin rằng Êtiên đáng phải chết. .. Sau đó Saulơ bắt đầu tàn hại Hội Thánh một cách thô bạo và kinh khủng. Ông đi từ nhà này sang nhà kia, lôi các người đàn ông đàn bà mà bỏ tù. ..

"Kết quả là tất cả các Cơ đốc nhân, ngoại trừ các sứ đồ, buộc lòng phải trốn chạy khỏi Giêrusalem. Họ đến các vùng phụ cận của Giuđê và Samari. Đến nơi nào, họ cũng rao giảng Lời tin mừng về phúc âm " (Công 8:1, 3, 4 smf).

Hội Thánh ở Giêrusalem đã bị tản lạc vì bị bắt bớ. Rõ ràng bây giờ mỗi người mỗi ngã. Họ không còn trông chờ sự hướng dẫn và giúp đỡ của các sứ đồ được nữa.

Trước đây họ có được huấn luyện và chuẩn bị đúng đắn cho những ngày khó khăn trước mắt không? Họ có thể hoạt động được mà không cần sự lãnh đạo ở Giêrusalem không? Có phải Saulơ đã hủy diệt Hội Thánh Tân Ước duy nhất đã tồn tại lúc bấy giờ không?

Cách đối xử tàn bạo để hủy diệt một nhóm người đặc biệt nào đó được gọi là "sự bắt bớ".

Có phải Saulơ đã thành công trong những sự nỗ lực nhằm chống lại các nạn nhân tuyệt vọng của ông ta không? Có phải ngọn lửa bắt bớ làm cho các tín đồ đầy sự sợ hãi trong lòng không? Họ có dám nói về Chúa của họ nữa không?

Kinh Thánh cho chúng ta câu trả lời chắc chắn: "Họ đi đến nơi nào, họ truyền giảng lời Chúa ở nơi đó ". Saulơ đã phạm phải một sai lầm lớn nhất trong đời ông. Không những ông đã chống lại Hội Thánh của Đấng Christ hằng sống mà ông còn chống lại Đấng Christ của Hội Thánh sống.

Trong nỗ lực dập tắt ngọn lửa Thánh Linh ở Giêrusalem, ông đã bắt đầu làm cho ngọn lửa ấy lan tràn ra khắp cả vùng.

Phải, các sứ đồ đã làm một việc rất tốt. Họ đã "trang bị cho các thánh đồ để họ phục vụ ". Họ đã dạy cho các thánh đồ biết tự cầu nguyện và rao giảng, biết lắng nghe và vâng theo tiếng của Đức Chúa Trời. Do đó đến lúc này, Hội Thánh tại Giêrusalem đã sẵn sàng đem chứng cớ của mình đi đến "Giuđê, Samari và tận cùng thế giới " (1:8).

Thật vậy Đức Chúa Trời đã dùng vũ khí "bắt bớ" của Satan như là một phương tiện để đưa Hội Thánh Ngài vào hành động.

2. Sứ Mạng Với Thế Giới.

Đức Chúa Trời biết rằng khi dân sự của Ngài sẵn sàng ra đi, mọi người đều có phần trong kế hoạch thiên thượng của Ngài thì họ thật sự là một "giống dân đặc biệt, là thầy tế lễ và một dân thánh " (IPhi 2:9).

Công việc và sự làm chứng của họ không dễ dàng gì. Nhưng họ sẽ được "... khích lệ mạnh mẽ vì họ biết rằng Đức Chúa Trời ở với họ và họ sẽ thành công mỹ mãn ở bất cứ nơi nào họ đến " (Giô 1:6-9).

Họ đã ra đi và họ đã thành công! Một sự ra đi đầy đau đớn từ Giêrusalem đã trở thành một chiến dịch truyền giáo đầy vinh hiển cho cả thế giới. Bất cứ nơi nào họ đến trong sự yếu đuối thì tin lành cũng đã đến trong quyền năng!

a. Tất Cả Mọi Người Phải Được Nghe.

Sự truyền giáo của Hội Thánh đầu tiên là sự truyền giáo của Hội Thánh ngày hôm nay. Đức Chúa Trời vẫn còn muốn "các nước" được hòa thuận với Ngài. Ngài muốn tin mừng về Chúa Jesus Christ phải được lan ra khắp đất.

Từ "nước" trong Kinh Thánh nói đến một dân tộc có cùng ngôn ngữ, văn hóa và vị trí địa lý. Đó là một cộng đồng xã hội mà trong đó người ta thấy được sự đồng nhất. "Các nước" này được gọi là "những giống dân".

Không một chi tộc, ngôn ngữ hay "giống dân" nào bị bỏ sót cả. Tất cả mọi người đều có quyền, có đặc ân để nghe về tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho họ. Nhiệm vụ thật lớn lao. Có nhiều người trên khắp thế giới này chưa bao giờ nghe đến danh Chúa Jesus dù chỉ một lần.

Ngày hôm nay trên thế giới có trên năm tỷ người (5.000.000.000) (theo trung tâm truyền giáo thế giới của Hoa Kỳ). Con số này có thể được chia thành khoảng 24.000 "giống dân" khác nhau.

Có khoảng 7.000 giống dân đã được nghe rao giảng về phúc âm của Đấng Christ. Con số này bao gồm khoảng 3 tỷ người. Nhưng còn khoảng 17.000 giống dân với khoảng 2,4 tỷ người chưa hề được nghe về Chúa Jesus. con số này chiếm khoảng 40% dân số thế giới!

b. Mục Tiêu Truyền Giáo.

Phải nhiệm vụ thật lớn lao nhưng không phải là không thể làm được. Thật vậy, nhiều nhà lãnh đạo truyền giáo tin rằng Đại Mạng Lệnh Truyền Giáo của Đấng Christ trong việc đem phúc âm đến cho tất cả các nước có thể đạt được trong vòng mười năm.

Trong năm 1983 có khoảng 1,4 tỷ Cơ đốc nhân trên thế giới. Điều đó có nghĩa là cứ ba người thì có một người tự xưng là Cơ đốc nhân. Hơn nữa số lượng Cơ-đốc nhân hiện giờ đang gia tăng với mức độ trên 28 triệu người một năm.

Riêng ở Châu Á và Châu Phi, hàng năm có trên 50.000 Hội Thánh mới được thành lập. Cách đây 100 năm không có một Hội Thánh nào ở Triều Tiên cả. Vào năm 1970 chỉ có 10% dân số ở Nam Triều Tiên là Cơ đốc nhân. Vào năm 1980, họ đã gia tăng đến con số 20%. Vào năm 1984 con số lên đến gần 30%.

Vào năm 1949-1950 có khoảng một triệu Cơ đốc nhân ở Trung Hoa. Tất cả các nhà truyền giáo phương Tây bị buộc phải rời khỏi đất nước này. Một số người cho rằng điều này đã tàn hại Hội Thánh một cách nặng nề. Trong những năm gần đây, khi cánh cửa đến Trung Hoa lại được mở ra, sự lớn mạnh của Hội Thánh làm người ta phải ngạc nhiên. Thay vì bị hủy diệt, Hội Thánh đã gia tăng từ khoảng 40 đến 60 triệu!

Ở nhiều nơi, Hội Thánh đang phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên ở nhiều nơi khác, công tác truyền giáo lại khó khăn hơn hoặc hầu như không thể tiến hành được.

Người ta biết rất ít đến Cơ đốc nhân ở Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Albani, Lybi hoặc Ápganistan. Pháp, Israel và Bangladesh cũng là những nơi khó rao giảng phúc âm.

Tuy nhiên 90% trên thế giới vẫn còn mở cửa cho tin lành. Ở một số nơi, những cách cửa đã đóng lại được mở ra. Điều đáng buồn là chúng ta đã không làm hết việc với những cánh cửa mở này.

Ngày hôm nay trên thế giới có trên 2,8 tỷ người ngoại. Và như đã nói ở trên có khoảng 2,4 tỷ người chưa một lần được nghe tin mừng về tình yêu thương của Đức Chúa Trời.

Để đến được với họ phải vượt qua những hàng rào về văn hóa. Chỉ có các chứng nhân từ bên ngoài đến vì bên trong không có một Hội Thánh nào cả. Cần phải có một tình yêu thương đối với người hư mất và một nỗ lực được hướng dẫn chu đáo mới có thể đem "những dân tộc bị chôn giấu" này đến với Đấng Christ, là Đấng đã chết thay cho họ. Đây là lý do tại sao chúng ta cần được biết đến. Thông tin là một phương tiện cần thiết để phát thanh về quyền năng của tình yêu Đức Chúa Trời đến với những vùng trên thế giới đang cần tin lành nhiều nhất.

Chỉ bằng cách này Đại Mạng Lệnh Truyền Giáo của Chúa Jesus Christ mới được thực hiện và nhiệm vụ mới được hoàn tất trong thế kỷ này. Nếu chúng ta quan tâm, lắng nghe, cầu nguyện và vâng lời thì điều này sẽ được thực hiện.

c. Đầu Tư Vào Truyền Giáo.

Theo quan điểm này, dân Chúa sẽ chẳng bao giờ được thỏa lòng cho đến khi mọi "nước" đều được nghe đến phúc âm. Đây là mục tiêu cao cả nhất và là mục đích lớn nhất của chúng ta.

Điều đáng buồn là nhiều người quan tâm đến sự "nhận lãnh" hơn là "ban cho". Chúng ta cầu nguyện cho đến lúc mà hầu hết con cái Đức Chúa Trời đều sẵn sàng đầu tư vào những cuộc truyền giáo như họ đã sẵn sàng đầu tư vào vật chất đời này.

Nhà cửa và các đồ dùng vật chất là quan trọng trong thế giới hiện đại của chúng ta nhưng chúng không phải là quan trọng hơn cả. Một ngày nào đó gạch, ván, kim loại óng ánh đều sẽ qua đi nhưng linh hồn con người thì còn mãi.

Chúa Jesus phán rằng tấm lòng và của cải của chúng ta gắn kết với nhau. Bạn tìm thấy điều này ở đâu thì điều kia cũng sẽ ở nơi đó (Mat 6:21).

Ước muốn và quan tâm của (lòng) chúng ta làm theo sự hướng dẫn của những giá trị (của cải) của chúng ta. Chúng ta sẽ đầu tư cuộc đời, thì giờ, tài năng, năng lực vào những gì mà chúng ta cảm thấy quí báu và có giá trị lớn đối với chúng ta.

Những lời của Jim Elliot, một nhà truyền giáo tử vì đạo ở Auca Indians, Nam Mỹ, đã nói thẳng vào lòng chúng ta rằng "Người khôn ngoan là người ban cho những gì mình không thể giữ và chiếm lấy những gì mình không thể mất".

d. Hãy Đi Đến Mọi Nước Trên Thế Giới.

Người ta nói rằng những lời nói cuối cùng của một người là những lời nói quan trọng nhất của cuộc đời họ. Những lời nói của những con người vĩ đại trên giường hấp hối là dành cho những người còn sống và cho những kẻ chưa được sinh ra.

Chúng ta biết điều này: Những lời nói cuối cùng của Chúa Jesus được ghi lại và những lời đó rất quan trọng. Những lời nói lúc chia tay của Ngài với các môn đồ là rất rõ ràng và thẳng thắn:

"Hãy đi khắp thế gian giảng tin lành cho mọi người " (Mác 16:15).

Chúa Jesus phán "Hãy đi ". Bằng sự vâng lời đơn sơ, Kinh Thánh cho chúng ta biết họ đã "đi ". "Chúa đã đi với họ bởi Thánh Linh của Ngài và Ngài đã dùng dấu kỳ và phép lạ cặp theo lời nói của họ " (16:20 smf).

Những gì Ngài đã nói và làm cho họ thì Ngài cũng đang nói và làm cho chúng ta ngày hôm nay. Nếu chúng ta đi và vâng lời thì Đấng Christ cũng sẽ tôn trọng Lời Ngài trong đời sống của chúng ta và trong thế giới của chúng ta như Ngài đã làm trong đời sống và thế giới của họ.

e. Chúng Ta Nên Làm Gì.

Mọi tín đồ đều phải được huấn luyện và trang bị để hoàn thành mạng lịnh này. Sau đó họ nên đi ra và rao giảng phúc âm, cầu nguyện cho người ra đi, dâng hiến tiền bạc, hoặc ít hoặc nhiều, để giúp đỡ những người được chọn đang dâng trọn thì giờ của họ để đi ra rao giảng phúc âm. Bạn nên nhớ rằng công việc này chỉ được thực hiện trong mùa gặt mà thôi. Khi mùa gặt đã qua và mùa đông đến thì đã quá muộn màng. Mùa gặt linh hồn cũng vậy. Chúng ta phải rao giảng phúc âm ngay hôm nay.

Trong cõi đời đời, những tội nhân đáng thương mà chúng ta không nói về Đấng Christ cho họ sẽ than vãn mà nói rằng: "Mùa gặt đã qua, mùa hè đã đến mà chúng ta không được cứu " (Giê 8:20). Khi chúng ta lên thiên đàng, điều này cũng sẽ khiến chúng ta khóc lóc và than vãn một thời gian. "Chúa sẽ lau ráo mọi giọt lệ của mắt họ " (Khải 21:4).

Không có gì lạ khi Phaolô khuyên chúng ta rằng "Hãy tỉnh thức. .. Đừng phạm tội vì có một số người không hiểu biết về Đức Chúa Trời " (ICôr 15:34). Phaolô đang cảnh báo chúng ta rằng chúng ta có thể phạm tội vì đã không vâng theo đại mạng lệnh truyền giáo của Chúa.

Bạn hãy ghi nhớ lời Chúa trong lòng: "Các ngươi há chẳng nói rằng còn bốn tháng nữa thì tới mùa gặt sao? Song ta nói với các ngươi: Hãy nhướng mắt lên mà xem đồng ruộng, đã vàng sẵn cho mùa gặt " (Giăng 4:35).

Hãy chờ đợi trong sự cầu nguyện thờ phượng cho đến khi được báptêm Thánh Linh. Hãy nói với những người bà con và bạn bè của bạn những gì Chúa Jesus đã làm cho bạn.

Nếu họ cần chữa lành, hãy đặt tay trên người bệnh và cầu nguyện cho họ được chữa lành. Hãy đuổi bất kỳ loại quỉ nào mà bạn phải đối diện. Hãy là người chinh phục linh hồn. Hãy nói ra những phước hạnh và sự đắc thắng của Đấng Christ. Hãy đắc thắng Satan bất kỳ nơi nào bạn đến.

Vì vậy chúng ta hãy lắng nghe, học tập, tin cậy và vâng lời để chúng ta thật sự trở thành "một dân được chọn, một thầy tế lễ nhà vua, một dân thánh và một chứng nhân có quyền năng " về lẽ thật và tình yêu của Đức Chúa Trời... cho đến tận cùng trái đất.

"Phúc âm này về nước Đức Chúa Trời sẽ được rao giảng trên khắp thế gian để làm chúng cho tất cả các nước. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến. .. Lạy Chúa Jesus, xin hãy đến! " (Mat 24:14; Khải 22:20 smf).