MỤC LỤC
Vài nét về tác giả: Tác giả bài giảng nầy là sáng lập viên và Tổng quản nhiệm của một tổ chức liên hiệp các Hội thánh rất thành công ở Úc. Sự khôn ngoan thực tế chứa đựng trong tài liệu huấn luyện nầy có thể giúp bạn trở nên một lãnh đạo Hội Thánh có quyền năng hơn. Hãy đọc tài liệu này một cách cẩn thận trong sự cầu nguyện.
Một đêm nọ vào đầu năm 1949, lần đầu tiên tôi nếm mùi một loạt các nan đề trầm trọng trong chức vụ của tôi. Nhìn lại những năm cũ, những thời gian có nan đề hầu như ăn khớp với nhau trong một kiểu mẫu.
Những sự khủng hoảng này làm thành một nền tảng cho sự phát triển chức vụ của tôi. Tìm thấy giải pháp của Đức Chúa Trời đối với những nan đề này đã sản sinh ra sứ điệp mà Chúa muốn giao cho tôi.
Tôi đã ở trong thời kỳ không thỏa lòng. Tôi có cảm giác bất lực khi đối diện với các nan đề và đòi hỏi của chức vụ. Tôi nằm dài ra giường, đêm đó tôi không tài nào ngủ được.
Tôi đánh thức một anh bạn đang ở trong nhà tôi lúc đó, yêu cầu anh cùng với tôi cầu nguyện. Trong nhiều tiếng đồng hồ, chúng tôi đọc và công bố Lời của Đức Chúa Trời và giao phó toàn bộ tình huống cho Chúa bằng đức tin.
Trong khi tôi vẫn đang cầu nguyện, Đức Thánh Linh bắt đầu hành động trong tôi. Tôi cảm nhận một cách rõ rệt và xác định thời gian lúc bấy giờ là 4giờ20 sáng. Trong những giây phút đó tôi có cảm giác như Lời của Đức Chúa Trời đang vang vọng trong lòng và tâm trí tôi: "Hết cả quyền phép trên trời và dưới đất đã giao cho ta. Vậy hãy đi... " (Mat 28:18, 19).
Các lời nầy dường như đến từ ngôi cao của Đấng Christ Phục Sinh. Tôi nhìn thấy mình cứ lập đi lập lại những điều này. Dường như Bạn tôi cũng chia xẻ "Những giọt mưa thương xót" và anh nhận biết có sự hiện diện mạnh mẽ của Đức Thánh Linh.
Đối với tôi, tôi cảm thấy dường như các tầng trời lăn ra xa để tôi có được một quan niệm mới trọn vẹn về uy quyền phục sinh và sự vinh hiển của Đấng Christ.
Tôi thấy uy quyền đó liên quan đến cá nhân tôi và chức vụ của tôi đối với Chúa. Tôi cũng thấy có liên quan đến Hội thánh nữa.
Tôi thấy uy quyền đó có liên quan đến Satan và các công việc của nó. Tôi thấy uy quyền đó cũng có liên quan đến sự quay trở lại của các cá nhân với Đấng Christ khi mọi quốc gia sẽ quỳ xuống trước Ngài. Tôi thấy uy quyền của Đấng Christ được thể hiện làm ứng nghiệm một cách trọn vẹn chương trình và mục đích của Đức Chúa Trời.
Chữ viết không thể truyền đạt hết ý nghĩa của kinh nghiệm nầy trong chức vụ của tôi. Tôi đã ở trong chức vụ gần mười năm từ Úc Đại Lợi đến New Zealand (Tân Tây Lan). Tôi đã thành lập một Hội thánh ở Adelaide, và trong suốt những năm đầu tôi đã trông thấy gần 100 người được báp-têm trong Đức Thánh Linh. Tuy nhiên cái kinh nghiệm trong đêm đó đã nổ ra trong lòng tôi một đức tin mới sống động trong uy quyền của Đấng Christ. Tôi được ban cho một chìa khóa dẫn đến một chức vụ hữu hiệu mà đã đem lại phước hạnh cho nhiều người trong nước Úc và các quốc gia khác.
Sau buổi sáng sớm hôm đó, tôi đi tắm, thay quần áo và lái xe đến nhà của hai trong các vị lãnh đạo hội thánh. Một vị đang ăn sáng trước khi đi làm. Vị kia còn ngủ.
Dĩ nhiên tôi đã tuôn ra điều mà tôi được thuyết phục và khái niệm mà Chúa đã đốt cháy trong tâm hồn tôi đêm đó. Tôi nói với họ tôi tin rằng chúng ta đã có chìa khóa dẫn đến một sự phục hưng của Tân ước.
Trong ngày hôm đó chúng tôi tổ chức buổi nhóm cầu nguyện hàng tuần. Tôi kể lại cho mọi người trong phòng kinh nghiệm của tôi. Một lần nữa Thánh Linh Chúa lại giáng xuống. Không cần loan báo, mọi người tự động quỳ gối xuống ca ngợi và thờ phượng.
Trong buổi nhóm hôm đó tại Adelaide, lần đầu tiên trong chức vụ chúng tôi có kinh nghiệm đuổi quỷ.
Tôi tiếp tục rao giảng và mổ xẻ khải tượng về uy quyền của Đấng Christ phục sinh. Từ lúc đó trở về sau, tôi thấy có phong trào phục hưng phước hạnh nổi lên trong các buổi nhóm của chúng tôi.
Nhiều tuần lễ trôi qua, càng ngày tôi càng xác tín rằng Đức Thánh Linh đã đặt trong tay tôi một chìa khóa để giải phóng các phu tù ra khỏi cảnh bị trói buộc và đem họ tới sự phục hưng mà Đấng Christ được tôn cao.
Trong nhiều năm sau, nhiều người cũng có kinh nghiệm giống chúng tôi. Phải đối diện nhiều nan đề và nhiều khó khăn đã được khắc phục. Tuy nhiên tất cả những điều đó đã để lại trong lòng tôi cũng như trong chức vụ tôi một sự xác tín mạnh mẽ và một đức tin vững chắc. Chúa Jesus Christ có uy quyền tuyệt đối.
Sự trình bày uy quyền của Đấng Christ đã khuấy động quyền lực của Satan và các linh của nó đến mức độ mà chúng ta hiếm khi dự liệu trước. Nhưng sự trình bày này cũng cung cấp cho chúng ta vũ khí năng quyền để đắc thắng kẻ thù và giải cứu những người bị giam cầm.
Chúng ta hãy xem một vài khía cạnh và những gợi ý của chìa khóa chủ yếu này cho chức vụ hiệu quả và Hội thánh thành công, tức là Uy quyền của Đấng Christ.
Tiếng Hy lạp exousia có nghĩa là "ủy quyền" và đó cũng là từ được sử dụng trong Mat 28:18 "Tất cả uy quyền (exousia) ở trên trời và dưới đất đã được giao cho Ta... "
Chúng ta thấy rằng trong chức vụ trên đất của Ngài, Chúa Jesus đã thực hiện uy quyền đó: "Nhưng khi đoàn dân trông thấy phép lạ đó, ai nấy đều sợ hãi, và ngợi khen Đức Chúa Trời đã cho loài người cái uy quyền như thế "(9:8). Đó là uy quyền mà Chúa Jesus đã nói đến và thực hiện khiến nhiều người lấy làm ngạc nhiên.
Tuy nhiên Chúa Jesus nói rằng cả Lời của Ngài và công việc của Ngài được Cha ban cho (Giăng 14:10, 11).
Sau khi chịu chết trên thập tự giá và được Đức Chúa Trời làm sống lại đặt ngồi bên hữu của ngai Đức Chúa Trời, Chúa Jesus được ban cho "tất cả uy quyền trên trời và dưới đất ".
Phaolô công bố trong Phil 2:10 rằng mọi đầu gối trên trời, dưới đất và bên dưới đất đều phải quỳ xuống đối với Danh Jesus. Mọi lưỡi phải xưng nhận Ngài là Chúa.
Ngài là con đời đời trong bản chất và được trao cho uy quyền của Thượng Đế. "Vì chưng Đức Chúa Trời đã vui lòng khiến mọi sự đầy dẫy của mình chứa trong Ngài "(Cô 1:19)."Vì sự đầy dẫy bổn tánh của Đức Chúa Trời thảy đều ở trong Đấng ấy như vốn có hình "(2:9).
Trong Hêbơrơ đoạn một, Đấng Christ được đặt cao hơn các thiên sứ bởi sự vượt trổi cả về bổn tánh thiên thượng lẫn chức vụ vinh hiển. Vâng, chúng ta đọc "tất cả các thiên sứ của Đức Chúa Trời thờ lạy Ngài".
Đức Chúa Trời há có bao giờ phán cùng thiên sứ nào rằng: "Hãy ngồi bên hữu ta, cho đến chừng nào ta để kẻ thù địch dưới bệ chân ngươi ". Nhưng Đấng Christ sẽ cai trị cho tới khi kẻ thù cuối cùng bị hủy diệt và tất cả mọi sự phải thuận phục Ngài. Thiên sứ làm theo mệnh lệnh Ngài.
Chúng ta đọc trong Hêb 4:14 rằng Chúa Jesus "đã trải qua các tầng trời ". Một bản dịch nghĩa đen rõ nghĩa hơn là khi Ngài thăng thiên Ngài "đi ngang qua tất cả các tầng trời"
Có bao nhiêu tầng trời ở trên chúng ta? Vài người nói ba, số khác nói bảy. Mặc dù có bao nhiêu tầng trời đi chăng nữa, Đấng Christ đã trải qua hết và được đặt trên ngôi uy quyền cao nhất khắp vũ trụ.
Đó là lý do tại sao Phaolô có thể nói rằng Đức Chúa Trời đã khiến cho Đấng Christ từ kẻ chết sống lại"và cho ngồi bên hữu mình tại các nơi trên trời, cao hơn hết mọi kẻ cầm quyền, mọi thế lực (uy quyền),mọi sức mạnh, mọi thống trị và cùng mọi danh vang ra, không những chỉ đời nầy, mà còn trong đời hầu đến nữa; Ngài bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ và ban cho Ngài làm đầu tất cả mọi sự đối với Hội thánh; Hội thánh là thân thể của Ngài, tức là sự đầy đủ của Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài "(Êph 1:20-23).
Mặc dù Satan là "chúa của đời nầy" và "vua chúa quyền lực chốn không trung" nó vẫn bị đặt dưới chân của Chúa Jesus và phải phục dưới uy quyền của Đấng Christ được tôn cao. Há chẳng phải Đấng Christ, bằng sự hy sinh chuộc tội của Ngài đã truất phế các kẻ cầm quyền cùng các thế lực và nộp ra tỏ tường giữa thiên hạ sao (Cô 2:15)? Há chẳng phải Ngài đã đánh bại Satan và quỷ sứ của nó bằng sự đổ huyết của Ngài và sống lại từ kẻ chết với các chìa khóa uy quyền trong tay sao?
Cũng một Đấng Christ ngày hôm nay ngồi trên ngôi thống trị vũ trụ với tất cả uy quyền được ban cho Ngài.
Trong Côlôse 1, Phaolô đặt sự ưu việt của Đấng Christ trên tất cả tạo vật bao gồm cả những điều trông thấy và không trông thấy trên trời và dưới đất. Ngài có thẩm quyền trên mọi ngôi vua, mọi thống trị, mọi kẻ cầm quyền và mọi thế lực. Đoạn Phaolô công bố cách dạn dĩ "Ngài là đầu của thân thể, tức là Hội thánh Ngài ".
Chúng ta cũng có một bức tranh giống như vậy được chép trong Êphêsô, nhưng có một điểm nổi bật khác!
Trong Êphêsô chúng ta được bảo rằng Đấng Christ được đặt "làm đầu tất cả mọi sự đối với Hội Thánh, Hội Thánh là thân thể của Ngài". Vậy chúng ta thấy rằng Đấng Christ không chỉ có thẩm quyền "làm đầu của Hội thánh" mà Ngài còn làm đầu trên tất cả mọi sự vì lợi ích của Hội thánh.
Không phải chỉ Hội thánh bị thúc ép phải phục dưới uy quyền của Đấng Christ; mà còn là một đặc quyền để chia xẻ các kết quả thống trị của Đấng Christ trên mọi sự trên trời và dưới đất. Hội thánh dưới đất có phản ảnh được uy quyền tối thượng nầy của Đấng Christ không?
Quả là một tai họa khi nhìn thấy Hội thánh bị thất bại, vô tích sự, và bất lực trước sự tấn công dữ dội của Satan.
Hội thánh thật chính là Thân Thể trông thấy của Đấng Christ được tấn phong,là Đấng đang cầm giữ uy quyền và sự thống trị cả vũ trụ!
Chúng ta có chấp nhận sự thách thức để làm đại sứ trung thành hay đại diện thật của Vua trên muôn vua không?
Chúa Jesus công bố Ngài là Con Người có thẩm quyền trên đất để tha thứ tội lỗi. Phierơ nói rằng "Không có danh nào khác ở dưới trời ban cho loài người để chúng ta nhờ đó mà được cứu " (Công 4:12). Cũng cùng một Đấng Christ nầy có quyền đoán phạt tất cả loài người.
Các tín đồ sẽ đứng trước Ngôi Đoán Xét của Đấng Christ. Những kẻ không tin sẽ đối diện với Ngài khi Ngài ngồi trên Ngôi Trắng Vĩ đại trong lần đoán xét sau cùng.
"Vì Cha không đoán xét ai hết, nhưng đã trao trọn quyền đoán xét lại cho Con, đặng ai nấy phải tôn kính Con cũng như đã tôn kính Cha "(Giăng 5:22, 23).
Một lần nữa trong câu 27, Đức Chúa Cha "đã ban quyền thi hành sự phán xét cho Con". Hãy nghe Phaolô rao giảng ở thành Athens "vì Ngài (Đức Chúa Trời) chỉ định một ngày để Ngài lấy sự công bình đoán xét thế gian, bởi Người mà Ngài đã lập (Jesus) và Đức Chúa Trời đã khiến người từ kẻ chết sống lại để làm chứng chắc về điều đó cho thiên hạ " (Công 17:31).
Thật là một uy quyền đáng kính sợ đã được giao phó cho Con của Đức Chúa Trời!
Dàn bài năm điểm ở trên chỉ là một vài cái nhìn bao quát, một vài góc cạnh của viên kim cương lẽ thật chiếu sáng này. Như một tín lý, tất cả Cơ Đốc Nhân chấp nhận uy quyền của Đấng Christ. Theo lý trí, tất cả các tín đồ đều đồng ý về điều này. Nhưng chìa khóa không phải bằng sự hiểu biết của chúng ta về uy quyền của Đấng Christ, nhưng bằng sự mặc khải về điều này, bằng sự thuyết phục trong lòng, bằng một đức tin sốt sắng nóng cháy.
Chìa khóa đó phải chiếu sáng trong tấm lòng và trong tâm trí cũng như trong tâm linh của chúng ta nữa và cũng phải đốt cháy chúng ta với sự tận hiến nhiệt tình cho lẽ thật, và với việc hết lòng áp dụng vào trong đời sống cũng như trong sự phục vụ Chúa của chúng ta.
Đức tin của chúng ta vào uy quyền của Đấng Christ phải là một động cơ để đưa tới đời sống đắc thắng. Đức tin phải kích thích chúng ta để phục vụ thành công và làm cho các lời hứa của Đức Chúa Trời có hiệu lực trong đời sống của chúng ta. Đức tin phải thử thách Hội thánh đến sự phục hưng đắc thắng.
Chúng ta hơi ngạc nhiên về việc sứ đồ Giăng ở trên đảo Patmos khi ông viết"...ngã xuống chơn Ngài như chết ". Ông đã trông thấy sự vinh hiển của Chúa và nghe những lời thắng trận.
"Đừng sợ chi, Ta là Đấng Trước hết và là Đấng Sau cùng. Ta là Đấng sống và đã chết; Kìa nay Ta sống đời đời. Amen; cầm chìa khóa của sự chết và Âm phủ "(Khải 1:17, 18).
Nguyện uy quyền của Đấng Christ trở thành chìa khóa trong tay dân Ngài để đẩy lùi kẻ thù và phóng thích quyền năng vinh hiển của Đức Chúa Trời.
Trong liền sáu ngày, tôi và hai lãnh đạo kiêng ăn cầu nguyện tìm kiếm Chúa. Chúng tôi được mời sử dụng ngôi nhà mới xây xong một phần cách bờ biển Adelaide 20 dặm (khoảng 32 km). Chuyện nầy xảy ra vào mùa đông năm 1951.
Cả ba chúng tôi cảm nhận được nhu cầu phải xếp qua một bên các hoạt động chức vụ Mục sư của chúng tôi. Chúng tôi khao khát tìm kiếm Đức Chúa Trời với sự xức dầu mới của Đức Thánh Linh trên chức vụ của chúng tôi. Ngày qua ngày, chúng tôi chăm sóc cho nhau bằng Lời Chúa, học tập chung với nhau, cầu nguyện chung với nhau và thường đi lang thang trên đồi cát. Chúng tôi cũng tận hưởng những giây phút thông công cách cá nhân với Chúa.
Chúng tôi nhận biết nhiều phước hạnh của Chúa trong lòng chúng tôi. Chúng tôi đang gây dựng đời sống thuộc linh cho chính mình.
Đêm nay là đêm cuối cùng. Chúng tôi có thể về nhà sáng hôm sau. Tôi cảm thấy rằng tôi chưa nhận được tất cả những gì tôi đang tìm kiếm.
Chúng tôi đi ngủ. Tôi sớm phát hiện một điều, thay vì ngủ, tâm trí tôi được đánh thức bởi các lẽ thật trong Lời của Đức Chúa Trời. Lần lượt toàn bộ sách Êphêsô hiện ra trong ký ức của tôi. Những lẽ thật vĩ đại trong quyển sách ly kỳ đó ghi khắc mạnh mẽ trong tâm trí tôi.
Tôi biết rất rõ sách Êphêsô và thích giảng trong sách đó. Nhưng lần nầy các lẽ thật cũ đến với một ý nghĩa mới. Những lẽ thật mới nầy chui vào trong lòng và tâm trí tôi dưới sự hà hơi của Đức Thánh Linh.
Sáng hôm sau, các bạn tôi ngủ phòng kế bên hỏi tôi có gì xảy ra với tôi trong đêm qua vậy. Rõ ràng là những lời cầu nguyện và ngợi khen của tôi đã quấy rầy họ!
Chúa nhật kế tiếp, khi chúng tôi đi nhóm, tôi nói với mọi người rằng: "Có nhiều anh em biết chúng tôi đi xa để tìm kiếm Đức Chúa Trời trong vài tuần qua. Các bạn mong muốn tôi mở túi xách ra và mang ra một sự phục hưng! Điều đó hoàn toàn đúng với những gì tôi dự định!"
Tôi đưa chiếc túi xách lên, mở và kéo quyển Kinh Thánh ra và công bố: "Tất cả là ở đây. Đây là bí quyết của sự phục hưng, sự đắc thắng và quyền năng với Đức Chúa Trời. Tất cả điều cần làm là tiếp nhận, tin và làm theo Kinh Thánh. Chúng ta cần biết chúng ta là ai, Đức Chúa Trời nói gì về chúng ta, và uy quyền của chúng ta là gì trong Đấng Christ".
Chúng ta hãy xem qua những lẽ thật quí báu mà Đức Chúa Trời đã đốt cháy linh hồn tôi vào đêm đó. Những lẽ thật nầy đã xác định rõ tính chất chức vụ của tôi kể từ lúc đó, chứng minh là có chìa khóa khác nữa để đi đến sự phục hưng và sự đắc thắng của Cơ Đốc Nhân.
Thư tín của sứ đồ Phaolô gởi cho Hội thánh Êphêsô gồm có hai phần: phần đầu là ba đoạn đầu trình bày tích cực về vị trí của tín đồ trong Đấng Christ. Phần nầy bao gồm lời hứa về phước hạnh được hà hơi...
"Vả Đức Chúa Trời, bởi quyền lực cảm động trong chúng ta, có thể làm trổi hơn vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng, nguyện Ngài được vinh hiển trong Hội thánh, và trong Chúa Jesus Christ, trải qua các thời đại, đời đời vô cùng. Amen! "(Êph 3:20, 21).
Phần thứ hai là ba đoạn kế tiếp nói về sự cân nhắc thực tế trong đời sống của tín đồ.
Chúng ta có thể nói ba đoạn đầu đặt nền cho chỗ đứng hợp pháp của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời, ba đoạn kế tiếp là tình trạng (điều kiện) thực tại của đời sống Cơ Đốc chúng ta.
Phần đầu nói về sự giàu có của chúng ta, phần thứ nhì nói về sự ăn ở của chúng ta.
Phần đầu chỉ cho chúng ta các quyền của chúng ta, phần nhì nói về trách nhiệm của chúng ta. Phần đầu là tín lý phần sau là thực hành.
Thật quan trọng khi chúng ta quan sát trật tự thiên thượng nầy: trước nhất là chỗ đứng của chúng ta, rồi kế tiếp là tình trạng của chúng ta.
Rất nhiều Cơ Đốc Nhân đang cố gắng hoàn chỉnh tình trạng của mình để đạt một chỗ đứng đúng với Đức Chúa Trời. Điều nầy trái nghịch lại với phương pháp của Đức Chúa Trời. Đầu tiên Ngài ban cho chúng ta một chỗ đứng đúng và đòi hỏi chúng ta tin điều đó, đoạn Ngài ban cho chúng ta năng lực để sống sao cho phù hợp.
Chỗ đứng của chúng ta, vị trí của chúng ta, sự giàu có, và các đặc quyền của chúng ta trong Đấng Christ là bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Tất cả những điều đó thể hiện sự ưu đãi của Đức Chúa Trời đối với tất cả các tín hữu.
Nếu chúng ta quan tâm đến tình trạng, sự ăn ở và trách nhiệm của chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Trước tiên, chúng ta phải chấp nhận chúng ta đã trở thành gì trong Đấng Christ khi chúng ta được đặt vào trong Đấng Christ.
Chúng ta phải thực sự tin cậy vào sự mặc khải thiên thượng nầy, như đã sắp đặt trong ba đoạn đầu trong Êphêsô. Điều nầy sẽ cho chúng ta năng lực để "ăn ở một cách xứng đáng với chức phận mà Chúa đã gọi chúng ta" (4:1) theo như sự đòi hỏi nơi chúng ta ở trong ba đoạn kế tiếp.
Các bạn ơi, đây là đường lối mà Đức Chúa Trời luôn luôn khích lệ và giúp đỡ chúng ta. Trước nhất Ngài chỉ cho chúng ta biết chúng ta là ai trong Đấng Christ. Ngài cho chúng ta sự công bố dạn dĩ về ân điển của Ngài (ban cho quyền năng). Kế đó Ngài bảo chúng ta "nếu ngươi tin, thì điều gì Ta công bố sẽ trở thành hiện thực trong đời sống của các ngươi". Đây là cách mà đức tin hành động. Chúng ta tin trước khi thấy.
Sự thánh hóa và nếp sống thánh khiết trở thành luật tự nhiên trong các công việc. Ngay cả những công việc thiện của xác thịt cũng là xác thịt. Chỉ duy những công việc có thể làm hài lòng Đức Chúa Trời là những công việc phát sinh từ kết quả của ân điển Ngài (năng lực thiên thượng) vận hành qua đức tin của chúng ta nơi Lời của Ngài.
Chúng ta hãy xem lẽ thật nầy chiếu sáng trong Êphêsô như thế nào.
Eph1:3 là câu được nhiều người mến chuộng:
"Ngợi khen Đức Chúa Trời là Cha của Chúa Jesus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thuộc linh ở các nơi trên trời ".
Có một lẽ thật sâu xa ẩn kín trong câu nầy. Chữ "xuống phước" và "phước hạnh" đến từ chữ "eulogy" của Hy lạp.
Cũng cùng chữ nầy ở trong Rô 15:29 Phaolô nói rằng "Tôi sang với anh em bằng ơn phước dồi dào của tin lành Đấng Christ" hay theo nghĩa đen là "sự đầy dẫy lời nói tốt lành của Tin lành Đấng Christ".
Trong Ro 16:18 chúng ta thấy cũng từ nầy được dùng nhưng lần nầy bằng sự không chân thật. Phaolô nói với những người mà "bằng những công việc thiện và các lời lẽ đầy hứa hẹn dối gạt lòng của kẻ thật thà".
Tuy nhiên, "lời lẽ đầy hứa hẹn" của Đức Chúa Trời đối với chúng ta là thật và chân thật.
Bây giờ hãy đọc Êph 1:3 với bản dịch nghĩa hay hơn...
"Đức Chúa Trời, là Cha của Chúa Jesus Christ chúng ta nói những lời nói tốt lành cho chúng ta trong các nơi trên thiên đàng trong Chúa Jesus Christ "
Vâng, thưa các bạn, đây là lẽ thật đáng ngạc nhiên! Đức Chúa Trời tán dương chúng ta khi Ngài thấy chúng ta trong Đấng Christ. Ngài khen chúng ta. Ngài nói tốt cho chúng ta.
Đức Chúa Trời không tán dương chúng ta trong tình trạng chưa được tái tạo, tìng trạng Adam, nhưng bởi vì chúng ta đã tiếp nhận Đấng Christ, Đức Chúa Trời thấy chúng ta trong Con của Ngài và nói tốt cho chúng ta.
Ngài công bố rằng bản chất Ađam đã chết, bị đóng đinh trên cây gỗ với Đấng Christ (Rô 6:6-11).
Ngài công bố rằng chúng ta là các tạo vật mới trong Đấng Christ. Mọi sự cũ đã qua, và tất cả mọi sự đã trở nên mới (IICôr 5:17).
Ngài công bố chúng ta được sống lại với Đấng Christ, và ngồi trên ngôi với Ngài trên các tầng trời (Êph 2:6).
Tất cả mọi việc Đấng Christ đã làm không phải dành cho Ngài, nhưng cho chúng ta. Bây giờ, Đức Chúa Trời trông thấy chúng ta trọn vẹn (hoàn hảo, không tì vết) trong Đấng Christ.
Đây là phương pháp Đức Chúa Trời khích lệ và giúp đỡ chúng ta. Lúc nào cũng vậy. Ngài ban cho chúng ta Lời của Ngài và kêu gọi chúng ta tin nhận và làm theo những lời đó.
Ma quỷ mượn phương pháp nầy. Chúng ta thấy nó dùng cách nầy trong Sáng thế ký đoạn 3. Khi nó đưa lời dối gạt đến với Eva, nó cám dỗ bà tin và làm theo những lời nói dối đó.
Nếu Eva tin Lời của Đức Chúa Trời và làm theo, thì chắc chắn bà đã không bị sa ngã hay lôi kéo loài người đến sự hư mất.
Đức Chúa Trời vẫn tiếp cận loài người bằng cách nầy:
1) Ngài ban cho chúng ta Lời tốt lành của Ngài; và
2) Kêu gọi chúng ta tin nhận với tất cả tấm lòng; và
3) Hành động sao cho phù hợp.
Sự thật, nếu chúng ta tin chắc Lời của Đức Chúa Trời một cách chân thành, Ngài ban cho chúng ta năng lực để có thể hành động sao cho phù hợp. Lời của Đức Chúa Trời chứa đựng sự sống và có năng lực để cụ thể hóa (những lời nói ra trở thành hiện thực).
Một hạt giống gieo xuống đất sẽ lớn lên thành cây theo như thiết kế của Đức Chúa Trời. Hạt giống lời của Đức Chúa Trời gieo vào lòng chúng ta sẽ mọc lên và hình thành trong chúng ta.
Đó là lý do tại sao Ngài tán dương chúng ta khi Ngài thấy chúng ta trong Đấng Christ. Ngài biết rằng nếu chúng ta sẽ chấp nhận và tin Lời của Ngài, thì lời đó sẽ cụ thể hóa (sẽ được trông thấy) trong đời sống chúng ta. Đó là công thức thiêng liêng cho sự đắc thắng của Cơ Đốc Nhân.
Tách rời khỏi Đấng Christ chúng ta sẽ chết trong sự quá phạm và tội lỗi. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta để có thể hình dung chúng ta đang ở trong Con của Ngài.
Đoạn Ngài kêu gọi chúng ta tin rằng chúng ta bị đóng đinh với Ngài, chôn chung với Ngài, và sống lại với Ngài. Sự hiệp một giữa tín đồ với Đấng Christ được thấy trong hai phương diện: vị trí hợp pháp (như là thân nhân của Ngài) và sự sống ở bên trong chúng ta.
Đây là chỗ đứng hợp pháp của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời. Giây phút mà chúng ta tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của chúng ta, chúng ta được xưng công bình. Chúng ta được ban cho một vị trí pháp lý, một chỗ đứng hợp pháp trước mặt Đức Chúa Trời.
Trong Êph 1:15-23, Phaolô cầu nguyện rằng tâm linh của chúng ta được soi sáng để chúng ta hiểu biết chỗ đứng hợp pháp trong Chúa Jesus:
"Tôi cầu nguyện để anh em sẽ bắt đầu hiểu quyền năng vĩ đại của Ngài lạ thường dường nào hầu giúp đỡ những ai tin Ngài.
"Cũng quyền năng đó đã khiến cho Đấng Christ từ kẻ chết sống lại và làm cho ngồi bên hữu mình trong các nơi trên trời, cao hơn hết mọi vua, mọi kẻ cầm quyền, mọi kẻ độc tài, mọi lãnh tụ.
"Vâng, sự vinh hiển của Ngài vinh hiển hơn bất cứ ai trong đời nầy hoặc trong đời hầu đến ".
Kế đến trong đoạn 2 Phaolô công bố rằng Đức Chúa Trời đã "làm cho chúng ta sống lại với Đấng Christ, đem chúng ta lên trời và đặt chúng ta chung với nhau trong tầng trời cao nhất với Đấng Christ "(câu 4-6).
Trong tâm trí và mục đích của Đức Chúa Trời, khi Đấng Christ chết, chúng ta chết trong Ngài; Khi Ngài sống lại, chúng ta được sống lại trong Ngài; và khi Ngài thăng thiên ngồi bên hữu Đức Chúa Cha, chúng ta cũng thăng thiên và ngồi trên ngai với Ngài bên hữu Đức Chúa Trời là Cha.
Đây là những "lời chúc phước" của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta mà đại diện cho lời công bố thiêng liêng về sự hiệp một và đặc ân hợp pháp với Chúa Jesus Christ.
Phaolô thúc giục chúng ta "xem như chúng ta đã chết thật sự bởi tội lỗi, nhưng bởi Đức Chúa Trời chúng ta được sống qua Chúa Jesus Christ Chúa chúng ta "(Rô 6:11).
Tâm trí tự nhiên nổi nghịch với sự mặc khải siêu nhiên như vậy. Chỉ khi nào chúng ta dự phần tâm trí của Đấng Christ chúng ta mới nắm được những lẽ thật nầy.
Và những lẽ thật này mới trở thành đường lối để có quyền năng và chiến thắng trên các nan đề, tội lỗi, bệnh tật và ma quỷ.
Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta một chỗ đứng hợp pháp trong Đấng Christ (chúng ta phải chấp nhận điều nầy bởi đức tin). Đồng thời Ngài cũng đã ban cho một kinh nghiệm sống trong chúng ta bởi Thánh Linh của Ngài.
Khi viết cho Hội thánh ở Galati, Phaolô nói rằng:
"Vì anh em là con, nên Đức Chúa Trời sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta, kêu rằng A-ba! Cha! "(Ga 4:6).
Bản chất Ađam của chúng ta chết đối với Đức Chúa Trời. Nhưng từ lúc tái sanh chúng ta được Thánh Linh của con Ngài ngự vào. Phaolô nói rằng "còn ai kết hợp với Chúa thì trở nên một linh cùng Ngài "(ICôr 6:17).
Một lần nữa Phaolô chứng thực trong Ga 2:20"Tôi bị đóng đinh với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, Đấng yêu tôi và đã phó mình Ngài vì tôi ".
Phaolô không sống một cuộc sống ngày qua ngày hoặc làm chức vụ phi thường của ông bằng năng lực và khôn ngoan cá nhân. Ông thi hành chức vụ theo khái niệm được hà hơi từ Thiên thượng mà Thánh Linh của Đấng Christ đang sống trong ông.
Sứ đồ Giăng cũng hiểu lẽ thật nầy: "Vì Đấng ở trong các con là lớn hơn kẻ ở trong thế gian "(IGiăng 4:4). Cũng chính sứ đồ Giăng đã viết lời này trong Giăng 1:16 "Bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều đã nhận được, ơn càng thêm ơn". Có nghĩa là chúng ta là các tín đồ sống với sự sống đầy năng lực của Đấng Christ. Ngài đặt tình yêu, sự vui mừng, sự bình an, nhịn nhục, dịu dàng, nhơn từ, đức tin, nhu mì, và tiết độ của Ngài bên trong chúng ta (Ga 5:22). Tất cả là bông trái của Thánh Linh Ngài ngự bên trong chúng ta.
Bởi đức tin, chúng ta chấp nhận một chỗ đứng hợp pháp mà Đức Chúa Trời kể cho chúng ta (đó là chỗ đứng hợp pháp trong Đấng Christ). Thánh Linh của Đấng Christ nội trú bên trong hưởng ứng với Đức tin của chúng ta và sinh ra bản tính của Đấng Christ trong chúng ta.
Trong hai phương diện - (1) đức tin của chúng ta và (2) năng lực của Thánh Linh: Chúng ta hành động phối hợp với Đấng Christ trong sự hiệp một. Điều này đem lại năng lực cho chúng ta để sống một đời sống tốt lành hầu cho kẻ khác thấy Đấng Christ trong đời sống của chúng ta.
Giữa thế giới đầy áp lực và xáo trộn nầy, chúng ta đừng bao giờ quên rằng chúng ta có trong mình một "nơi thánh". Nơi mà Đấng Christ ngự. Từ nơi Ngài chúng ta có thể thu nhận được các nguồn cung ứng dư dật để giải quyết mọi nhu cầu và mọi hoàn cảnh của chúng ta "trong mọi sự, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần" (Rô 8:37).
Bởi vì Đức Chúa Trời đã công bố chúng ta ở trong Đấng Christ, tất cả những gì thuộc về Chúa Jesus Christ cũng thuộc về chúng ta.
Khi tán dương Đấng Christ, Đức Chúa Cha tán dương chúng ta trong Đấng Christ.
Đấng Christ có tất cả uy quyền (Mat 28:18) vì vậy chúng ta có uy quyền (Lu 10:19) "Nầy Ta ban quyền cho các ngươi giày đạp rắn, bò cạp và mọi quyền của kẻ nghịch dưới chân ngươi; không gì làm hại các ngươi được ".
Satan bị giày đạp (trí mạng) dưới chân của Đấng Christ (Sáng 3:15). Satan cũng bị giày đạp dưới chân của chúng ta. "Đức Chúa Trời bình an kíp giày đạp Satan dưới chân anh em... "(Rô 16:20).
Satan bị đặt dưới chân của Đấng Christ, đó là phục dưới uy quyền của Ngài (Êph 1:22). Và Satan cũng bị đặt dưới chân anh em một cách hợp pháp. Tác giả Thi thiên công bố: "Ngươi sẽ bước đi trên sư tử và rắn hổ mang; còn sư tử tơ và rắn (rồng) ngươi sẽ giày đạp dưới chân "(Thi 91:13).
Vì Đấng Christ đã được sai đến thế gian, chúng ta cũng vậy. Chúa Jesus nói với Đức Chúa Cha:"Như Cha đã sai con trong thế gian thể nào, thì con cũng sai họ trong thế gian thể ấy. "(Giăng 17:18).
Vậy chúng ta là những đại sứ của Đấng Christ, bằng uy quyền của Ngài mà ra đi, nhơn danh Ngài để nói và làm (IICôr 5:20).
Ngài cũng ban cho chúng ta quyền ủy thác, đó là uy quyền để hành động thay mặt Chúa Jesus Christ. Với uy quyền của Ngài chúng ta rao giảng tin lành. Với uy quyền của Ngài chúng ta đặt tay lên kẻ đau. Với uy quyền của Ngài chúng ta đuổi quỷ.
Chúa Jesus là Đấng kế tự của mọi sự và chúng ta cũng là "kẻ kế tự của Đức Chúa Trời và cùng làm người kế tự với Đấng Christ "(Rô 8:17). Chúng ta chia xẻ quyền hành trên ngôi của Ngài ở đây và bây giờ, và chúng ta sẽ cai trị với Ngài trong vương quốc của Ngài trong thời hầu đến.
Đây là chìa khóa an toàn để bạn có thể biến cải đời sống của Bạn. Hãy tin điều nầy. Nó sẽ mở cho các bạn các nguồn mạch vô tận của vương quốc Đức Chúa Trời.
Trong chương 1, chúng ta xem xét chìa khóa dẫn đến uy quyền của Đấng Christ. Còn đây là chìa khóa thứ hai. Đó là uy quyền của chúng ta trong Đấng Christ hay có thể nói uy quyền của Đấng Christ trong tín đồ.
Chúng ta hãy ngừng biện hộ cho những thất bại và hãy biến những lời bào chữa thành những bài làm chứng. Chúng ta hãy giữ lấy chìa khóa đã được trao cho chúng ta, tin nó, dùng nó và chứng minh nó.
Kể từ lúc mà những chiếc chìa khóa này gây ấn tượng sâu đậm trong tôi vào một đêm của năm 1951, tôi chưa bao giờ ngưng cảm tạ ơn Chúa vì chiếc chìa khóa uy quyền này. Tôi đã tiếp tục thúc giục mỗi một tín hữu dám nhận lấy lời của Đức Chúa Trời y theo lời Ngài và sử dụng đặc ân được là một người có liên hệ với Đấng Christ.
Đây là đặc ân của bạn. Hãy sử dụng đặc ân ấy.
Làm thế nào để Lời của Đức Chúa Trời được ứng nghiệm? Làm thế nào để Lời ấy có thể VẬN HÀNH? Đó là nan đề đè nặng lên tấm lòng và tâm trí của tôi trong những tháng mùa đông năm 1953.
Như chúng tôi đã đề cập trong những chương trước, chúng tôi đã kinh nghiệm những ngày tháng đầy phước hạnh trong chức vụ. Tuy vậy tôi cũng phải đối diện với những khủng hoảng khác, lại thêm một giai đoạn không thỏa lòng và những cảm giác thiếu thốn đầy chán nản.
Lại một lần nữa, tôi muốn đọc lại các lời hứa đầy ngạc nhiên và các lời công bố trong Lời của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta là những tín đồ, nào là vị trí của chúng ta trong Đấng Christ, sự đắc thắng của chúng ta, quyền năng của chúng ta, sự tự do của chúng ta khỏi bản chất xác thịt, những lời hứa chữa lành bệnh, giải cứu và cung cấp tất cả các nhu cầu vật chất cho chúng ta.
Nhưng những điều đó có đang xảy ra trong đời sống tôi hay không?
Nói chung Tân ước mô tả một đời sống vinh hiển thật sự trong Đấng Christ. Cá nhân tôi luôn bị đặt trước sự thiếu quyền năng siêu nhiên trong nhiều mặt của đời sống và chức vụ.
Là một Mục sư, tôi biết rất rõ sự bất lực của mình trong việc đáp ứng các nhu cầu đầy thách thức trong đời sống của nhiều người trong hội chúng.
Giá mà những lẽ thật đầy quyền năng của Lời Đức Chúa Trời được vận hành thì tất cả đã được thay đổi.
Trong nhiều tuần, sự tranh luận nầy cứ diễn ra trong lòng và tâm trí tôi. Tôi muốn ngưng ngay điều này và cầm quyển Tân Ước lên, và đọc, đọc tới đọc lui. Đoạn tôi hướng lòng lên Chúa và cầu hỏi Ngài "Tại sao không làm được?"
Tôi trằn trọc cả đêm, cầm quyển Kinh Thánh lên và đọc lại những lời hứa và các lời công bố tuyệt vời dành cho mọi tín đồ và cho Hội thánh Cơ đốc nói chung. Đoạn tôi đưa quyển Kinh Thánh lên trời và hỏi Ngài tại sao Lời của Ngài không vận hành trong đời sống tôi và đời sống của nhiều người trong hội chúng.
Rồi một đêm kia, sau khi ra khỏi giường và đi tới đi lui trong phòng với quyển Kinh Thánh mở ra để trên bàn viết. Tôi cũng đang hỏi Ngài với câu hỏi thắc mắc lâu nay "Tại sao, Tại sao, TẠI SAO?"
Thình lình, một điều gì đó thay đổi trong tôi. Dòng sông đức tin và sự bảo đảm dường như đang tuôn chảy ở trong tận trong sâu thẳm của lòng tôi. Bức màn dường như bị xé toạc ra trước sự hiểu biết của tôi. Môi tôi mấp máy, không phải là câu hỏi cũ của sự vô tín, nhưng là sự bày tỏ của đức tin và sự tin chắc.
"Lời Chúa hành động! Lời Chúa hành động bởi đức tin, và TÔI PHẢI CÓ đức tin! Điều Kinh Thánh nói về Đức Chúa Trời là THẬT! Điều Kinh Thánh nói về TÔI là thật! Điều Lời Chúa nói tôi ở trong Đấng Christ, CHÍNH LÀ TÔI! Điều gì Lời Chúa nói tôi có thể LÀM qua Đấng Christ, thì TÔI CÓ THỂ LÀM!"
Và trong cách diễn đạt tương tự như vậy, lòng tôi tuôn tràn sự tin chắc sâu sắc nhất. Tôi tin và TÔI BIẾT. Tôi tin Đức Chúa Trời đã ban cho tôi Ân tứ của Đức tin (ICôr 12:9).
Bây giờ là lúc phải giảng một điều khác! Tôi muốn mở Kinh Thánh và la to lên. Tôi có thể nói với dân sự một cách mạnh mẽ:
"Điều gì Đức Chúa Trời nói về bạn là đúng, bạn được sinh ra bởi Đức Chúa Trời, một tạo vật mới trong Đấng Christ, Đấng Christ sống trong bạn và bạn có thể làm mọi sự qua Đấng Christ!
"Cảm giác của bạn có thể nói với bạn rằng bạn thất bại, thất vọng, đang vật lộn chống lại những điều kỳ quặc đang áp đảo bạn. Nhưng LỜI CHÚA nói rằng bạn hơn kẻ chiến thắng, kẻ đánh bại ma quỷ, làm chủ của mọi hoàn cảnh, và đứng trên đồn lũy của mọi khả năng bị hạn chế, trong Đấng Christ và qua đức tin trong Lời của Ngài.
Thay vì nhìn vào bản chất Ađam cũ với sự thất vọng vô ích và nản lòng và hỏi rằng "TẠI SAO Lời Chúa không vận hành?". Bây giờ tôi đã có một bức tranh trong đầu tôi như là một tạo vật mới trong Đấng Christ. Nắm vững sự công bố mạnh mẽ đầy uy quyền không sao diễn tả được của Đức Chúa Trời, tôi khóc to lên: "AMEN! Lời Ngài là THẬT! Halelugia!
Và đúng như vậy "đức tin đến bởi sự nghe Lời của Đức Chúa Trời "(Rô 10:17), vì việc giảng những lẽ thật tích cực của Lời Đức Chúa Trời đem lại những kết quả mạnh mẽ trong đời sống của những ai nghe những lẽ thật ấy.
Bây giờ tôi xin đưa ra vài yếu tố nền tảng chính có liên quan đến Lời của Đức Chúa Trời và làm thế nào để điều đó vận hành cho những ai quyết lòng tin nhận lấy.
Trong Sáng 1:1-31, Đức Chúa Trời phán những lời có uy quyền "Hãy có" và "có". Trái đất của chúng ta là sản phẩm của Lời nói uy quyền của Đức Chúa Trời. Học thuyết tiến hóa không phải là học thuyết đầy thách thức với uy quyền và khả năng của Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời dựng nên con người và lập tức đặt họ dưới uy quyền của Lời Ngài "và Giê-hô-va Đức Chúa Trời truyền lịnh cho con người... "(2:16).
Trong thời hầu đến, Đấng Christ sẽ cai trị bằng uy quyền của Lời Chúa "có một lưỡi gươm bén ở miệng Ngài ra, Ngài sẽ lấy nó mà đánh các dân... "(Khải 19:15)và "Ngài sẽ đánh thế gian bằng cây gậy của miệng mình và lấy hơi thở nơi miệng mình mà giết kẻ ác "(Ês 11:4).
Giữa Eden và Thời hoàng kim (ngàn năm trị vì của Đấng Christ trên đất) sẽ có một cuộc tranh chiến dữ dội trên uy quyền của Lời Đức Chúa Trời. Satan chất vấn Eva "Đức Chúa Trời há có phán "(Sáng 3:1).Ngày hôm nay trong giờ phút mà trái đất đang ở trong sự tối tăm thuộc linh sâu xa nhất, câu hỏi đó được củng cố trong tâm trí của đa số dân chúng. Đó là sự thách thức tinh vi của Satan đối với uy quyền của Lời Đức Chúa Trời.
Nhưng uy quyền của Lời Đức Chúa Trời được hỗ trợ bằng chính Ngài, chính đặc tính của Ngài, và ngôi đời đời của Ngài. Uy quyền đó đứng vững và không rúng động bởi các cuộc tấn công của ma quỷ hay con người. Mặc dù trời và đất có thể qua đi, nhưng Lời của Đức Chúa Trời sẽ chiến thắng qua các thời đại (Lu 21:33). Ha-lê-lu-gia!
Không chỉ các nguyên tử hợp lại với nhau do mạng lịnh đầy uy quyền của Đức Chúa Trời, nhưng mà chúng dính với nhau bằng quyền năng của Lời đó. "Muôn vật cốt ở tại Ngài (gắn bó với)..."(Cô 1:17).
Các nhà khoa học phân tử đã xác nhận rằng hạt nguyên tử nhỏ nhất không có nguyên tố âm, dương. Đây là điều cần thiết để giữ cho muôn vật dính lại với nhau. Từ một quan điểm khoa học, toàn thể tạo vật lẽ ra phải bị bắn tung ra từng phần. Kinh Thánh nói rằng Chúa Jesus giữ chúng lại với nhau!
Đằng sau tất cả tạo vật đều có tâm trí, tư tưởng, lời nói, uy quyền và sự sống của Đức Chúa Trời.
Hãy lưu ý tới những lời mà thiên sứ nói với Mari (Lu 1:37) "Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được "hay nói một cách khác "không có Lời nào của Đức Chúa Trời sẽ bị mất hiệu lực".
Không ngạc nhiên gì khi Mari đáp lời "xin sự ấy xảy ra cho tôi như LỜI người truyền ". Thiên sứ đã công bố một lời hứa đòi hỏi sự ứng nghiệm siêu nhiên nhưng chính trong "Lời của Đức Chúa Trời" có quyền năng siêu nhiên để cụ thể hóa (đó là đem vào hiện thực) những lời đã phán.
Khi Chúa Jesus đuổi tà linh ra khỏi một người trong nhà hội, dân chúng rất ngạc nhiên và la lên: Lời ấy có nghĩa gì? Người lấy phép và quyền đuổi tà ma và chúng nó liền ra" (4:36).
Những Lời của Chúa Jesus không chỉ chứa đựng uy quyền của Đức Chúa Trời mà còn có quyền năng, sự sống, năng lực và khả năng của Đức Chúa Trời. Chúng ta thấy uy quyền thiên thượng của Lời Ngài khi Ngài quở cây vả, cây ấy liền vâng lời và chết khô. Một lần nữa, khi Ngài ra lệnh cho sóng và gió phải im lặng, chúng vâng lời và trả lại sự bình yên.
Kế tiếp chúng ta thấy quyền năng của Lời Ngài khi Ngài lấy năm ổ bánh và hai con cá, chỉ đủ cho buổi ăn trưa của một em bé trai, và nói với các môn đồ rằng "chính các ngươi hãy cho họ ăn" (9:13). Làm theo những lời nầy, với đầy năng quyền và thực tế với năng lực sáng tạo, bánh và cá nhân lên vạn bội, và các môn đồ có đủ để nuôi 5000 người. Sau đó, họ gom góp được mười hai giỏ đầy bánh thừa lại.
Chúa Jesus đã công bố cả uy quyền và năng quyền. Khi Ngài trông thấy kẻ bại, Ngài phán rằng: "Tội ngươi đã được tha (uy quyền) hay là bảo ngươi rằng: Hãy đứng dậy vác giường mà đi (quyền năng) hai điều ấy điều nào dễ hơn? "(Mác 2:9).
Vâng Chúa Jesus đã nhân cách hóa Lời thiêng liêng của uy quyền và quyền năng.
Chúa Jesus nói Lời của Đức Chúa Trời: "Những lời ta nói với các ngươi, chẳng phải tự ta nói; ấy là Cha ở trong ta, chính Ngài làm công việc của Ngài "(Giăng 14:10).
Hơn thế nữa Chúa Jesus đã ban những lời đầy uy quyền và quyền năng của Đức Chúa Trời cho chúng ta "Vì con đã truyền cho họ những lời Cha đã truyền cho con "(17:8).
Chúng ta nói lời gì?
Chúa Jesus phán: "Con người sống không chỉ nhờ bánh mà thôi, nhưng bằng mọi lời của Đức Chúa Trời nữa "(Mat 4:4).
Vua Salomon nói rằng: "Bụng người sẽ được no nê bông trái của miệng mình. Huê lợi của môi mình sẽ làm cho người no đủ. Sống chết ở nơi quyền của lưỡi. Kẻ ái mộ nó sẽ ăn bông trái của nó "(Châm 18:20, 21).
Chúa Jesus lại phán rằng "Vì bởi lời nói mà ngươi được xưng công bình và cũng bởi lời nói mà ngươi bị kết tội "(Mat 12:37).
Chúa Jesus đã sống và phục vụ bằng quyền năng và uy quyền của Lời Đức Chúa Cha đã ban cho Ngài. Không ngạc nhiên gì khi người ta lấy làm lạ "Lời ấy là gì vậy!". Một số quan chức của thấy tế lễ và của người Pharasi được sai tới để bắt Chúa Jesus, họ đã trở về trong hoang mang và lo sợ nói rằng "chẳng hề có người nào đã nói như người nầy "(Giăng 7:46).
Các bạn của tôi ơi, những lời đó của Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng có thể nói những lời đó. Chúng ta cũng có thể sống bằng uy quyền và quyền năng của lời đó.
Khi những Lời của Đức Chúa Trời ở trong lòng chúng ta và môi mình miệng mình nói ra, thì sẽ trở thành bánh và bông trái cho chúng ta. Chúng ta sẽ được đầy dẫy quyền năng và sẽ được thay đổi và biến cải bởi những lời đó. Những lời đó sẽ làm cho chúng ta công bình, chữa lành bệnh tật, trang bị quyền năng và ban cho chúng ta đắc thắng.
Tại sao Lời của Đức Chúa Trời không hành động?
Dĩ nhiên câu hỏi bây giờ nên là: "Lời của Đức Chúa Trời hành động như thế nào?" Chữ "tại sao" có vẻ không thích hợp. Giống như tiếng dội từ vườn Eden "Đức Chúa Trời há có phán".
Đêm ấy, khi tôi đi tới đi lui trong phòng với quyển Kinh Thánh đã mở ra, dường như Đức Chúa Trời đang phán với tôi rằng: "Ngay giây phút ngươi chấp nhận uy quyền của Lời Ta cách không dè dặt, ngươi sẽ kinh nghiệm quyền năng đó".
Theo tâm trí, tôi đã chấp nhận uy quyền của Lời Chúa, nhưng lòng tôi tranh chiến và lôi kéo trước sự thách thức của uy quyền đó.
Nhưng bây giờ tôi biết rằng giây phút mà lòng chúng ta chấp nhận uy quyền của Lời Chúa một cách cởi mở, thì uy quyền đó sẽ vận hành! Uy quyền đó không thể cụ thể hóa lập tức, nhưng nhanh chóng trở thành yếu tố sáng tạo và phong phú trong đời sống chúng ta.
Đức Chúa Trời là Đấng có uy quyền và quyền năng đã phán "Hãy có sự sáng, thì có sự sáng... " Ngài cũng phán: "Nếu ai ở trong Đấng Christ, thì người ấy được dựng nên mới "(IICôr 5:17). Tôi ở trong Đấng Christ, vì vậy tôi là "một tạo vật mới!" "Những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới "(5:18)tôi chấp nhận lời Chúa và tôi kinh nghiệm điều ấy.
"Tôi đã bị đóng đinh với Đấng Christ... Đấng Christ sống trong tôi "(Ga 2:20).Tôi chấp nhận Lời của Đức Chúa Trời dành cho tôi và tôi kinh nghiệm điều ấy!
"Vả những kẻ thuộc về Chúa Jesus đã đóng đinh xác thịt với tình dục và dâm dục mình lên thập tự giá rồi "(5:24).Tôi chấp nhận uy quyền của Lời Đức Chúa Trời và tôi kinh nghiệm quyền năng đó!
Phải, các bạn của tôi, Đức Chúa Trời phán: "Phải có một khoảng không... và có như vậy "(Sáng 1:6, 7). Ngài cũng phán "Sự cầu nguyện bởi đức tin sẽ cứu kẻ bệnh, Chúa sẽ đỡ kẻ ấy dậy... "(Gia 5:14, 15).
"Họ đặt tay trên kẻ đau thì kẻ đau sẽ được lành "(Mác 16:18).
"Ta là Giê-hô-va Đấng chữa lành cho các ngươi "(Xuất 15:26).
Và Chúa tiếp tục phán: "Đất phải sanh cây cỏ... và có như vậy "(Sáng 1:11) đồng thời Ngài phán:
"Đức Chúa Trời bình an sẽ kíp giày đạp quỷ Satan dưới chân anh em "(Rô 16:20).
"Chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần "(8:37).
"Tôi cầu nguyện cho anh em được thạnh vượng trong mọi sự, được khỏe mạnh về phần xác cũng như được thạnh vượng về phần hồn "(IIIGi 3Ga 1:2).
Tiếp tục và tiếp tục như thế, hết lời hứa này đến lời hứa khác, hết lời công bố này đến lời công bố khác, hết lời bảo đảm này đến lời bảo đảm khác, hết lẽ thật này đến lẽ thật khác, mặc khải này đến mặc khải khác!
Hãy sấp mình cách khiêm nhường trước uy quyền của Lời Chúa. Đoạn chổi dậy và ra đi trong quyền năng của lời đó. Đức Chúa Trời phán rằng "con người cũ" của bạn, là bản chất tội lỗi cũ, với tất cả sự trói buộc, giới hạn, lừa dối và thất bại của nó, "đã chết, đã bị đóng đinh trên thập tự giá với Đấng Christ rồi".
Hãy tin điều đó! Thì sẽ có như vậy!
Đức Chúa Trời công bố rằng các bạn đã được sống lại đời sống mới trong Đấng Christ, hoàn toàn trong Đấng Christ, và Đấng Christ ở trong bạn. Hãy tin điều đó! Thì sẽ có như vậy.
Đức Chúa Trời công bố rằng bạn có thể làm mọi sự bởi quyền năng đã được tôi luyện của Đấng Christ. Hãy tin điều đó! Thì sẽ được như vậy.
Hàng ngàn ý nghĩ có thể nổi lên nghịch cùng uy quyền của Lời Đức Chúa Trời...nhưng Đức Chúa Trời phán..... và sẽ có như vậy!
Đây là chìa khóa để đắc thắng, chữa lành bệnh tật, giải cứu, đáp ứng cho tất cả nhu cầu của bạn.
Đừng hỏi "Tại sao Lời Chúa không hành động?".
Hãy hết lòng chấp nhận uy quyền nầy. "Và Chúa đã phán... "
Chắc chắn Bạn sẽ chứng minh được quyền năng của Lời Chúa - "THÌ SẼ ĐƯỢC NHƯ VẬY! ".
Chúng ta đã xem xét ba chìa khóa uy quyền quan trọng có tên là:
Những chìa khóa nầy đại diện cho uy quyền tiếp cận đến sự chu cấp dư dật của Đức Chúa Trời cho tất cả những người tin và uy quyền của chúng ta trên Satan và những công việc đen tối của nó. Chúng ta có thể giải phóng những phu tù khỏi những công việc của ma quỷ.
Tất cả tín đồ trong Đấng Christ đều có đặc quyền để sử dụng ba chìa khóa uy quyền nầy. Tuy nhiên, có một số người được Chúa kêu gọi riêng biệt và được trang bị vì một chức vụ đặc biệt, cho cả Hội thánh và cho những người chưa được cứu.
Sự kêu gọi vào chức vụ ân tứ thì hơn là một lời chứng cá nhân. Đó là chức vụ của Đấng Christ qua các ống dẫn được lựa chọn. Qua những người nầy, Chúa Jesus tiếp tục xây dựng Hội thánh của Ngài và sửa soạn một dân trong ngày Chúa trở lại.
Mỗi người được Đức Chúa Trời kêu gọi vào chức vụ ân tứ sớm muộn gì cũng phải biết điều nầy: "Tôi cần được trang bị bằng quyền năng siêu nhiên từ trên trời để hoàn thành sứ mạng của tôi và mục đích của Đức Chúa Trời qua chức vụ của tôi".
Đối diện với những thách thức, những người lãnh đạo Hội thánh sẽ không cứng lòng hoặc bịt lỗ tai để khỏi nghe những tiếng kêu la của những người bị giam cầm hay tìm kiếm khả năng siêu nhiên của Đức Chúa Trời mà người đó cần sản sinh lại chức vụ của Đấng Christ và để giải phóng những phu tù.
Vào năm 1955 sự thách thức như vậy đã xảy ra cho đời sống của chính tôi.
Tôi đã từng chứng kiến những kết quả đáng khích lệ trong chức vụ. Nhiều chứng cớ về quyền năng chữa lành của Đức Chúa Trời trong hiện thực. Một số người được giải cứu khỏi quyền lực của ma quỷ đã ảnh hưởng trên thể xác và chế ngự tâm trí họ.
Tuy nhiên dù có xoay xở cách nào chúng tôi đều phải đối diện với những con người mà những nan đề của họ dường như không có giải pháp. Vì muốn giải cứu họ, chúng tôi thấy mình thiếu đi quyền năng cần phải có.
Trong những ngày đó, chúng tôi ở chung với một vài người trong ngôi nhà thuê nhỏ để có thể giúp đỡ họ. Dần dần, tôi không thể nào trốn tránh sự thách thức. Tôi phải đối mặt với sự thách thức ngày này qua ngày khác. Tôi gặp nó trong bữa ăn, khi đời sống của những người đang ngồi chung bàn ăn với tôi đang bị trói buộc.
Đó là thời kỳ 1955, Đức Chúa Trời đã cung cấp cách kỳ diệu để chúng tôi mua một ngôi nhà to hơn, có đủ chỗ để điều hành công việc và nới rộng phạm vi của chức vụ.
Tuy nhiên, bất chấp những phước hạnh và sự chu cấp kỳ diệu của Đức Chúa Trời cho công việc, tôi vẫn tiếp tục sống mỗi ngày dưới áp lực của nhu cầu con người. Dần dần tôi ý thức được sự thiếu thốn của chức vụ tôi.
Nhìn lại lúc bấy giờ, dường như hơn một năm tôi đã dành thì giờ của nhiều bữa ăn mà vào trong "phòng riêng" để tìm kiếm Chúa, tôi cũng đã dành nhiều đêm trong "phòng riêng" cũng như tại giường ngủ để tìm kiếm Chúa.
Vấn đề không phải là bỏ những bữa ăn, hay bỏ ra nhiều đêm trong sự cầu nguyện, nhưng vấn đề là làm thế nào để sống với gánh nặng. Đó là gánh nặng mà tôi không tìm kiếm hay ao ước, nhưng dường như nó cứ đè nặng lên tôi bởi Thánh Linh của Chúa.
Nói một cách rõ ràng là tôi không thể sống trong áp lực không rõ ràng như vậy. Công việc hết sức cần thiết phải hoàn tất bị bỏ quên. Các yêu cầu cứ đè trên tôi vì cớ công việc của nhà Chúa phát triển cách nhanh chóng mà tôi cứ phải phớt lờ đi một cách có cân nhắc.
Rõ ràng đây là một cơn khủng hoảng nữa trong chức vụ của tôi. Nhìn lại những năm qua, tôi thấy cách rõ ràng Đức Chúa Trời đang chuẩn bị tôi như thế nào để nhận một chìa khóa uy quyền khác. Chìa khóa nầy không chỉ dành cho tôi mà thôi, song phải chia sẻ lại với anh em khác trong công việc của Đức Chúa Trời nữa.
Những lẽ thật đời đời của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ cho tôi và ghi khắc sâu đậm trong tâm linh tôi trong những ngày và giờ mà tôi ở một mình trong "phòng riêng", đã trở thành một phần trong chức vụ của tôi kể từ lúc đó.
Không có đủ chổ để nói cách chi tiết của tất cả những viên ngọc lẽ thật này. Dù không có thể nói những bài tập dò tìm và chính xác mà tôi được kêu gọi để ôm ấp lấy. Tôi không thể nói với bạn những lời hứa bừa mà tôi đã hứa với Chúa với hy vọng Ngài sẽ tôn trọng chức vụ mà Ngài đã ban cho tôi. Tôi nài xin Chúa khiến chức vụ đó trở nên hiệu quả cho sự vinh hiển của Ngài.
Rất tiếc là không đủ chỗ để tôi kể lại cuộc xung đột thực sự giữa các thế lực đen tối và các thế lực đắc thắng vinh hiển. Chúng ta thắng sự xung đột bởi đức tin nơi Lời của Đức Chúa Trời, bởi sự xức dầu của Đức Thánh Linh. Nhưng có một điều mà tôi muốn chia xẻ cho các bạn ở đây là: Uy quyền thiêng thượng của chức vụ.
Tôi không muốn ám chỉ đến một chức vụ chuyên nghiệp, hoặc một chức vụ tự phong, hoặc chỉ đơn thuần rao giảng khéo léo hoặc của những diễn giả lớn. Tôi đang nói về uy quyền của chức vụ, được Đấng Christ bổ nhiệm vào Hội Thánh của Ngài hôm nay.
Khái niệm về uy quyền thiên thượng của mỗi một chức vụ được Đức Chúa Trời kêu gọi đã gây ấn tượng sâu sắc trên tôi trong suốt những ngày giờ mà tôi ở riêng một mình với Chúa.
Sau đây là một phần trong sự mặc khải về uy quyền được Chúa giao phó qua các ân tứ chức vụ. Những điều này chỉ có thể bày tỏ cho những đầy tớ thật của Đức Chúa Trời trong Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus Christ.
Đây không phải là quyền hành trên đời sống của người khác, hoặc uy quyền của một chức viên trong một tổ chức, nhưng là uy quyền của Đấng Christ trên ma quỷ và trên mọi công việc của nó. Đây là uy quyền để làm việc của Đấng Christ, để xây dựng Hội thánh của Ngài, để kiện toàn các thánh đồ và chuẩn bị để họ trình diện Chúa trong ngày hầu đến.
Đây là uy quyền làm cho chức vụ có hiệu quả và phong phú. Đây là uy quyền làm cho mọi chức vụ khác nhau có bông trái trong lãnh vực của mình.
Những chức vụ được Đấng Christ ban cho được liệt kê trong Êph 4:11 "Và chính Ngài cho người nầy làm sứ đồ, kẻ kia làm tiên tri, những người khác làm mục sư và giáo sư, kẻ khác làm người giảng tin lành ". Chúng ta có toàn bộ bản liệt kê các ân tứ chức vụ mà Đấng Christ ban cho một số người trong Hội thánh. Còn có nhiều ân tứ khác được ban cho các lãnh đạo để trang bị thêm cho họ. Nhưng bản liệt kê này bao gồm những chức vụ chính xuất phát từ chính mình Chúa vì lợi ích của Hội Thánh Ngài. Chúng ta hãy xem xét từng chức vụ một cách chi tiết:
Chữ nầy có nghĩa là "Sứ giả đặc biệt", là người tiên phong, được Đức Chúa Trời kêu gọi để phục hồi một vài khía cạnh của lẽ thật, để truyền đạt một khải tượng mới, để thiết lập và trông nom những Hội Thánh Cơ Đốc địa phương.
Chức vụ nầy truyền đạt tâm trí của Đức Chúa Trời cho Hội thánh để đáp ứng các nhu cầu trong những trường hợp đặc biệt, thực hành các ân tứ của Lời Khôn ngoan và Lời Tri thức và thúc đẩy Hội Thánh bằng lời nói được linh cảm.
Những ai có ân tứ chức vụ nầy được gọi là những người giảng phúc âm của Đấng Christ, đem sự cứu rỗi của Đấng Christ đến cho mọi người, với những sứ điệp luôn luôn được kèm theo các dấu kỳ phép lạ siêu nhiên.
Những ân tứ chức vụ nầy thường có liên quan mật thiết với nhau, đến nỗi người ta xem như là một. Những chức vụ nầy có hiệu quả trong công tác chăn bầy và dạy dỗ các hội thánh địa phương.
Những chức vụ nầy có thể trùng lắp lên nhau và ăn khớp với nhau, tuy vậy mỗi chức vụ vẫn có bản chất riêng biệt và truyền đạt khả năng thiêng liêng của Đấng Christ hằng sống bởi quyền năng của Đức Thánh Linh.
Những ân tứ chức vụ tiêu biểu một quỹ đạo tròn khép kín của chức vụ Đấng Christ, để các công việc của Ngài có thể tiếp tục và sự đắc thắng mua bằng huyết của Ngài được tăng cường chống lại Satan và tất cả quyền lực quỉ sứ của nó.
Đó là điều mà chúng ta đọc trong Êph 4:8-10 "Vậy nên chép rằng: Ngài đã lên nơi cao dẫn muôn vàn kẻ phu tù, và ban các ơn cho loài người. "
"Và bây giờ Ngài đã lên, há chẳng phải là Ngài đã xuống trong các miền thấp ở dưới đất. Đấng đã xuống tức là Đấng đã lên trên hết các tầng trời để làm cho đầy dẫy mọi sự ".
Vậy, bởi sự chết và sự chôn của Ngài, bởi sự đột nhập lãnh địa Satan của Ngài và bởi sự sống lại của Ngài với các chìa khóa của sự chết và Âm phủ, Đấng Christ đã giành được chiến thắng.
Bây giờ Ngài chia xẻ lại chiến thắng đó cho loài người bằng phương tiện ân tứ chức vụ. Ngài phân phát các ân tứ nầy cho những ai được Ngài chọn và kêu gọi vào chức vụ.
Câu 8 là sự trưng dẫn từ Thi 68:18, mổ xẻ câu nầy ra chúng ta sẽ hiểu hơn về lẽ thật trên.
Đây là một hình ảnh của một vị vua có tài thao lược, người đã đại thắng, trở về dự lễ khải hoàn tại núi Si-ôn.
Người đang kéo sau xe của mình nhiều tù binh, kẻ bị xiềng, kẻ bị cột vào chiến xa; tất cả những điều trông thấy là chứng cớ thê thảm và đầy sợ hãi của kẻ thất trận.
Bây giờ, ngồi trên ngôi chiến thắng, vị vua chinh chiến cho gọi tất cả những ai đã chia xẻ đau đớn trong chiến trận đẫm máu đến cùng người để ban phát chiến lợi phẩm.
Tất cả những điều này được áp dụng cho Vị vua chinh chiến của chúng ta, là Chúa Jesus Christ. Ngài đã phiêu lưu vào lãnh thổ tội lỗi, bệnh hoạn, rủa sả và chết chóc của kẻ thù. Ngài đổ huyết cho đến chết, nhưng rồi sống lại, phán rằng: "Ta là Đấng sống, ta đã chết, kìa nay ta sống đời đời cầm chìa khóa của sự chết và Âm phủ "(Khải 1:18).
Các thiên sứ trên trời tập trung lại hàng vạn để nghinh đón vị vua chiến trận trở lại Ngôi thiên đàng.
Satan và đồng bọn quỉ sứ của nó cùng tất cả những công việc hủy phá của chúng bị cột trói bằng các sợi dây uy quyền "mua bằng huyết" của Đấng Christ. Satan và đồng bọn quỷ sứ của nó bị thất trận bởi Đấng đã trả một giá rất lớn để giành chiến thắng.
Nhưng Ngài sẽ chia những thành quả chiến thắng cho ai? Không phải cho các thiên sứ vì họ không dự phần đánh trận. Chiến lợi phẩm không chia cho ai ngoài những người bởi đức tin mà công bố trước mọi người Jesus là Chúa của họ (Rô 10:9,10). Ngài chia chiến lợi phẩm cho những người tham gia đánh trận đức tin với Ngài.
Nhưng chúng ta không có mặt lúc đó! Chúng ta đã không dự phần chia xẻ sự đau đớn hoặc chiến thắng của Ngài. Chỉ bởi ân điển mà Đức Chúa Trời đã đặt chúng ta trong chỗ của Con Ngài. Đây là sự kỳ diệu của ân điển thiêng thượng!
Tất cả những gì đã xảy ra không phải Đấng Christ làm cho bản thân Ngài, nhưng cho chúng ta. Nhơn danh chúng ta mà Ngài đã chết. Nhơn danh chúng ta Ngài bị chôn và sống lại.
Vì danh chúng ta mà Ngài thắng trận. Ngài đã đại diện cho con người đi ra và thay chúng ta đánh bại kẻ thù của chúng ta.
Vì cớ đó, Ngài gọi chúng ta đến để chia xẻ chiến lợi phẩm, cùng ngồi với Ngài trên Ngôi chiến thắng và là người dự phần uy quyền của Ngài trên kẻ thù và các thế lực của nó.
Một số người cho rằng câu "Ngài dẫn tù nhân bị giam cầm" có nghĩa là Ngài đã dẫn những linh hồn tội nhân từ âm phủ lên thiên đàng khi Ngài sống lại.
Dầu sự thực có là như thế hay không thì đây là một câu Kinh Thánh khó hiểu. Bản Tân ước diễn ý nói như sau: "Như lời đã phán, khi Ngài lên trên nơi cao, Ngài dẫn tù nhân bị giam cầm - Ngài dẫn một đoàn kẻ tù chiến bại, và ban phát các ân tứ cho loài người".
Bản Tân ước diễn ý có trích dẫn lời ghi chú cuối trang nầy của Mathew Henry: "Ngài đã chiến thắng những kẻ thắng chúng ta, đó là tội lỗi, ma quỷ và sự chết".
Câu trích dẫn nầy cũng gồm lời nói bóng gió được trình bầy trong Thi 68:1-35. Như vậy những ai được ban cho ân tứ là được chia phần đắc thắng với Đấng Christ. Họ là những người sở hữu uy quyền được ban cho trên mọi kẻ thù của loài người, tức là ma quỷ, các tà ma, và tất cả các hành động gian ác của chúng.
Đó là uy quyền để phóng thích loài người ra khỏi tội lỗi và bệnh hoạn. Chúa Jesus ban cho những lãnh đạo của Hội thánh uy quyền nầy để phóng thích những ai ở trong cảnh phu tù hay nô lệ của các thế lực tà ma, chúng đã cầm giữ họ một cách bất hợp pháp.
Đó là chìa khóa để mở các cửa ngục, và tuyên bố tự do cho những người đã làm nô lệ cho kẻ thù.
Đó là đặc ân của sự báo trước về tin lành giải cứu trên khắp đất.
Ma quỷ ghen ghét và sợ hãi uy quyền của chức vụ.
Đây là lúc để mọi kẻ mang ân tứ chức vụ của Đấng Christ, mọi sứ đồ, tiên tri, mục sư và giáo sư, người truyền giảng Tin lành phải nhận biết uy quyền của chức vụ mình và đi ra như là một đại sứ của Vua đắc thắng.
Không những người sở hữu ân tứ chức vụ được vui mừng trong uy quyền. Nhưng đây còn là một thước đo, được chia sẻ bởi tất cả các thánh đồ của Đức Chúa Trời.
Êph 4:12 cho chúng ta biết các ân tứ chức vụ của Đấng Christ là:"để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng thân thể Đấng Christ ".
Các bản dịch mới trình bày rõ ràng hơn để hiểu câu nầy: "vì sự kiện toàn của các thánh đồ, vì công việc của chức dịch... "
Nói một cách rõ ràng là các ân tứ chức vụ không phải được ban cho với mục đích độc quyền, mà có lẽ là để cho chức vụ được sanh sôi nẩy nở ra nhiều.
Họ phải huấn luyện và trang bị các thành viên hầu việc Đức Chúa Trời.
Các sĩ quan quân đội được lựa chọn và huấn luyện để sau nầy họ huấn luyện lại binh sĩ của họ. Cũng một phương cách ấy Đức Chúa Trời đã lựa chọn nhân sự và truyền đạt mọi mặt của chức vụ siêu nhiên của Đấng Christ, để những người nầy đến phiên họ có thể chuẩn bị và trang bị cho các thánh đồ của Đức Chúa Trời để làm công việc của chức vụ.
Vậy uy quyền của Đấng Christ được chuyển qua các ân tứ chức vụ đến toàn Hội thánh của Đấng Christ.
Hỡi những người nam người nữ của Đức Chúa Trời, chúng ta hãy đứng dậy bằng đức tin. Chúng ta hãy nắm bắt lấy quan niệm về uy quyền của chức vụ. Chúng ta hãy giữ trong tay chìa khóa đã được ban cho từ tay Đấng Christ. Chúng ta hãy đi ra để tăng cường chiến thắng "mua bằng huyết" và mang sự giải cứu đến cho mọi người đang bị Satan cầm giữ.
Thật là một chìa khóa uy quyền tuyệt vời! Qua các ân tứ chức vụ mà Hội thánh được ban cho. Nguyện Đức Chúa Trời làm trỗi dậy một chức vụ đầy quyền năng và uy quyền để đến lượt nó sẽ sinh sản ra một Hội thánh đắc thắng.
Dường như đã đến kỳ khó khăn và thử luyện để Đức Chúa Trời dạy chúng ta hiểu về quan niệm mới nầy. Chúng ta sẽ tiếp nhận một tầm nhìn mới trên lẽ thật đã quen thuộc. Áp lực của các nan đề và những hoàn cảnh khó khăn khiến chúng ta phải phơi bày tấm lòng chúng ta ra trước mặt Đức Chúa Trời.
Trong những thời kỳ như thế, Thánh Linh của Đức Chúa Trời mới có dịp truyền đạt đến chúng ta sự hiểu biết sâu nhiệm hơn về chương trình và mục đích của Đức Chúa Trời.
Trong nhiều năm tôi đã nắm lấy sự mặc khải của Tân ước về Hội Thánh. Tôi tin rằng trong những Hội thánh tư gia với sự tự quản trị và tự truyền bá là một tổ chức mang tính toàn cầu và là một cơ chế sống động.
Đức Chúa Trời đã dùng những hoàn cảnh không thuận lợi để vực dậy công việc của Ngài tại Adelaide, Nam Australia lúc bấy giờ trong sự lãnh đạo của tôi, để Đức Chúa Trời chỉ cho tôi uy quyền của Đấng Christ trong các hội thánh tư gia.
Chúa chỉ cho tôi làm cách nào để hội thánh trong một địa phương có thể sử dụng chìa khóa phục hưng.
Ao ước của cá nhân tôi là đi ra làm giáo sĩ ở Australia và hải ngoại. Nhưng thay vào đó, Đức Chúa Trời bắt tôi tiếp tục công việc của Ngài để thành lập nguyên tắc lớn lao nầy của Hội thánh Tân ước: mỗi một hội thánh tư gia phải là một trung tâm phục hưng tự trị. Không độc lập hẳn, nhưng có sự phụ thuộc lẫn nhau, nên sử dụng quyền tự do của nó để cống hiến sự hiệp một và hợp tác trong các mặt sinh hoạt.
Đó là thời kỳ mà tôi đã nhận năm quy luật phục hưng cho một hội thánh tư gia. Chương trình năm điểm nầy trở thành sự thôi thúc cho nhiều hội thánh tư gia kể từ lúc đó.
Trong Khải 1:1-19, sứ đồ Giăng ghi nhận lại khải tượng của ông về bảy chơn đèn bằng vàng và Đấng Christ đứng ở giữa những chơn đèn đó. Như chúng ta đã biết, bảy chơn đèn vàng nầy biểu tượng cho bảy hội thánh tư gia ở Tiểu Á.
Hơn nữa, số bảy là số biểu trưng cho sự trọn vẹn hoàn toàn. Những chơn đèn nầy cũng giới thiệu toàn bộ Hội thánh trên đất.
Trong Xuất 25:1-40, chúng ta đọc rằng Môise được lệnh phải làm một chơn đèn có bảy nhánh trát vàng ròng. Việc nầy tiêu biểu cho chứng cớ của một nước Israel trong Cựu Ước. Quốc gia Israel được chọn làm một quốc gia có chủ quyền và thống nhất, một chơn đèn có bảy nhánh bằng kim loại.
Trong Tân ước, Hội thánh Cơ Đốc được biểu tượng bằng bảy chơn đèn riêng biệt. Đức Chúa Trời không bao giờ muốn cho tất cả Hội Thánh trên toàn thế giới đều ở dưới quyền lãnh đạo của một người hay của một nhóm người nào đó. Nhưng Đức Chúa Trời có chương trình cho Hội thánh là đoàn thể hội chúng tự quản trị tại địa phương.
Trong Khải 2:1-3:22 chúng ta đọc các sứ điệp của Chúa cho bảy hội thánh, và chúng ta thấy Ngài đã trực tiếp xử lý với từng hội thánh qua sự chỉ đạo, khích lệ, quở trách, cảnh cáo và khen thưởng. Và ngày hôm nay cũng vậy.
Chúa không xử lý với Hội thánh như là tổ chức giáo phái hoặc như là một tổ chức Hội thánh phổ thông. Ngài thấy thân thể của Ngài bao gồm tất cả những tín đồ được sanh bởi Thánh Linh, được thể hiện qua hình thức những Hội thánh tư gia.
Trong Hội Thánh tư gia Ngài thiết lập sự quản trị, các chức vụ, sự thông công anh em và kỷ luật.
Hội thánh phổ thông giống như trong Tân ước là một tòa nhà mà trong đó chúng ta như những "viên đá sống" được xây dựng nên. Nó được mô tả như là một gia đình mà chúng ta có đặc ân phải lẽ của những người làm con. Nó được gọi là thân thể Đấng Christ, mà chúng ta là các chi thể riêng biệt.
Nhưng làm cách nào để một người thụ hưởng các đặc ân của mình và mang trọng trách như là một hội viên của Hội thánh phổ thông khi họ nhận vị trí của họ trong hội thánh tư gia?
Trong Mat 16:18, Chúa Jesus phán "Ta sẽ xây hội thánh của ta ", ám chỉ Hội thánh phổ thông. Hội thánh "khắp thế giới" gồm có tất cả những ai như Phierơ, tin và xưng nhận Jesus là Đấng Christ, Con của Đức Chúa Trời hằng sống.
Tương phản với điều nầy, Chúa Jesus đã dạy trong 18:15-17 rằng nếu một người nghịch với anh em mình, chúng ta phải tìm cách giải hòa riêng với người ấy trước. Nếu việc ấy không thành công, thì mời thêm một người nữa. Nếu tiếp tục không thành công thì phải đem vấn đề đến "hội thánh".
Nhưng hội thánh nào đây? Chắc chắn không phải là Hội thánh phổ thông và chắc chắn cũng không phải là giáo phái nào, nhưng rõ ràng ở đây là hội thánh tư gia. Chỉ nơi đây chúng ta mới thấy có sự gắn bó anh em và các hình thức kỷ luật cần thiết để duy trì sự hài hòa trong anh em.
Vì vậy chúng ta thấy lần đầu tiên Tân Ước đề cập đến Hội thánh, thì đó chính là Hội thánh phổ thông mà Đấng Christ đang xây dựng.
Nhưng trong lần thứ nhì Tân ước đề cập đến hội thánh như là một hội chúng tư gia.
Và chỉ có hai phương thức duy nhất để giải thích chữ "Hội thánh" được dùng trong Kinh Thánh: một là Hội thánh phổ thông cho tất cả các tín đồ tái sanh, hai là Hội thánh tư gia là nơi được tổ chức giành cho loại tín đồ trên.
Xem lại Khải 1:1-20, khi Giăng trông thấy bảy chân đèn bằng vàng, đoạn ông lấy bốn câu để mô tả một cách hùng biện sự vinh hiển của "một người giống như Con Người" đứng giữa bảy chơn đèn.
Không phải sự sáng chói của vàng làm cho ông có ấn tượng, nhưng chính là sự vinh hiển không thể tả được của Đấng Christ, tức là Thầy Tế lễ Thượng phẩm đang đi giữa vòng các chơn đèn.
Và vì vậy ngày hôm nay, Chúa Jesus, là Đầu của sự vinh hiển của Hội thánh phổ thông đang đi giữa các hội thánh tư gia, dạy dỗ, chỉ đạo, quở trách, sửa chữa và ban phước.
Và Đấng Christ đi lại giữa vòng các Hội thánh tư gia cũng là Đấng đã phán với Giăng ở đảo Patmô ngày nào: "Đừng sợ chi, Ta là Đấng trước hết và là Đấng Sau cùng, là Đấng Sống, ta đã chết, kìa nay ta sống đời đời cầm chìa khóa của âm phủ và sự chết "(Khải 1:17, 18).
Mỗi hội thánh tư gia có giá trị như là một nhân chứng về sự sống lại, chiến thắng và vinh hiển của Đấng Christ.
Ngài đã chết và sống lại từ âm phủ. Ngài thăng thiên về Trời.
Tất cả uy quyền trên trời và dưới đất đều trao cho Ngài. Ngài đã đánh bại ma quỷ ngay trong lãnh địa của nó. Ngài giành lại các chìa khóa của âm phủ và sự chết trong tay ma quỷ và bây giờ Đấng Christ đang ngự trên ngôi chiến thắng. Uy quyền của Ngài là tối thượng.
Ngài là Đấng nhìn lại mỗi chơn đèn, có nghĩa là mỗi hội thánh tư gia. Giống như các thầy tế lễ trong đền thờ, Chúa Jesus sẵn sàng để đổ dầu mới, để tẩy rửa và gọt tỉa tim đèn, hầu cho từng ngọn đèn được rực rỡ liên tục, chiếu sáng sự đắc thắng vinh hiển và uy quyền tối thượng của Chúa Jesus Christ.
Mỗi Hội thánh tư gia có thể đắc thắng. Mỗi hội thánh tư gia có thể phục hưng. Đấng Christ biết mỗi hội thánh tư gia, giảng dạy và giúp đỡ từng hội thánh một.
Chúng ta hãy hình dung thế giới nầy được đánh dấu rải rác bằng các chơn đèn bằng vàng, với Thầy Tế Thượng phẩm sống lại, là Jesus Christ đang đi giữa các chơn đèn. Đó là cái nhìn của Thiên đàng hướng về các hội thánh tư gia.
Có bốn đường lối để hội thánh tư gia có thể làm chứng một cách trung tín về sự chiến thắng của Đấng Christ.
Sự hiệp một được xem là điều quan trọng nhất trong Tân Ước. Chúa Jesus phán: "Ấy vậy khi ngươi đem dâng của lễ nơi bàn thờ, mà nhớ lại anh em nào có điều gì nghịch cùng mình thì hãy để của lễ trước bàn thờ, trở về giảng hòa với anh em trước đã; rồi hãy đến dâng của lễ "(Mat 5:23, 24).
Trong 18:15-17, Chúa Jesus phán với các hội thánh (hội thánh tư gia) những điều cần thiết trước nhất là phải giải hòa giữa vòng anh em và môn đồ đối với những ai từ chối sự hòa giải.
Sứ đồ Phaolô nói với các hội thánh tư gia ở Rôma "đồng lòng ăn ở với nhau theo Chúa Jesus Christ để anh em lấy một lòng một miệng mà ngợi khen Đức Chúa Trời là Cha của Chúa Jesus Christ chúng ta "(Rô 15:5, 6).
Với Hội thánh Philíp ông viết:"Anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với tin lành của Đấng Christ "(Phil 1:27).
Và cứ như thế trong suốt Tân ước, chúng ta thấy sự khích lệ được lập lại nhiều lần để duy trì sự hiệp một trong hội thánh tư gia. Nếu không có sự hiệp một, Đức Thánh Linh sẽ buồn lòng, và sự đắc thắng vinh hiển của Đấng Christ không thể được tìm thấy hay được bày tỏ.
Chữ yêu thương theo tiếng Hy lạp có nghĩa là tình yêu thiên thượng, tình yêu được truyền đạt một cách siêu nhiên.
Và như thế chúng ta tìm thấy trong bài viết của Phierơ có những câu sau đây: "Rốt lại, hết thảy anh em phải đồng lòng đầy thương xót và tình yêu thương anh em, có lòng nhơn từ và khiêm nhường. Đừng lấy ác trả ác, cũng đừng lấy rủa sả trả rủa sả, trái lại phải chúc phước, ấy vì điều đó mà anh em được gọi để hưởng phước "(IPhi 3:8, 9).
Trong Hội thánh tư gia chúng ta tìm thấy dịp tiện để bày tỏ tình yêu của Đức Chúa Trời. Điều nầy chúng ta ít thấy trong Hội thánh phổ thông. Chúng ta bị bơ vơ trong một hội chúng quá rộng lớn. Đó là vị trí khác biệt của cộng đồng Hội thánh tư gia.
IGiăng 3:14 nói rằng: "Chúng ta biết rằng mình đã vượt khỏi sự chết qua sự sống, vì chúng ta yêu anh em mình, còn ai chẳng yêu anh em thì ở trong sự chết ".Nhiều người trong chúng ta có thể đọc những dòng chữ nầy và nói "Amen". Chúng ta yêu anh em. Anh em càng đông chúng ta càng vui sướng. Chúng ta vui hưởng tình anh em!
Nhưng chúng ta chấm dứt câu nầy bằng "còn ai chẳng yêu anh em thì ở trong sự chết". Bạn thấy không, nếu chúng ta thất bại trong việc yêu một anh em cụ thể nào đó, là chúng ta đã không yêu anh em mình. Và hầu như chúng ta sẽ gặp người anh em đó trong Hội thánh tư gia!
Chúng ta có thể quên người anh em ấy đi nếu người ở phần bên kia của trái đất hoặc bên kia thành phố. Nhưng chúng ta phải học cách yêu thương người anh em đó bằng tình yêu thiên thượng của Đức Chúa Trời trong lòng nếu chúng ta phải gặp người ấy mỗi tuần trong Hội thánh tư gia.
Tình yêu thương của Đức Chúa Trời trải rộng trong tấm lòng tín đồ, tràn ra ngoài bầu không khí của Hội thánh tư gia, quyền năng của Đấng Christ được bày tỏ, và sự đắc thắng vinh hiển của Đấng Christ được chứng minh giữa vòng Hội thánh.
Tôi không bao giờ quên thời gian khi tôi tìm thấy lẽ thật trong Mat 18:19, 20. Nó in sâu vào tâm trí tôi một cách mạnh mẽ. Chúa Jesus phán: "Quả thật, Ta lại nói cùng các ngươi, nếu hai người trong các ngươi thuận nhau ở dưới đất mà cầu xin không cứ việc chi, thì Cha ta ở trên trời sẽ cho họ. Vì nơi nào có hai ba người nhơn danh Ta nhóm nhau lại thì Ta ở giữa họ. "
Chúa Jesus không nói đến một việc tầm thường, một sự thỏa thuận hời hợt giữa anh em để thực hiện một điều nào đó hoặc đáp ứng một nhu cầu đặc biệt nào đó.
Nhiều khi người ta đến gặp tôi và hỏi: "Ông có đồng ý với tôi rằng điều nầy hay điều kia phải được thực hiện không?"
Tôi luôn luôn trả lời rằng tôi sẽ không thể đồng ý với họ trừ khi tôi cũng có cùng một sự thôi thúc sâu xa và hiệp một với họ trong đức tin.
Chữ "đồng ý" theo tiếng Hy lạp sumphoneo có nghĩa là hòa âm, hay là các tư tưởng, tấm lòng và mục đích hòa hợp với nhau hoàn toàn.
Gần đây có một người bạn kể với tôi rằng có một lần anh chơi trong một ban nhạc giao hưởng (symphony orchestra) của một thành phố tại Tân Tây Lan.
Vị nhạc trưởng ra hiệu ngừng chơi nhạc và lưu ý một nhạc công vĩ cầm chơi không đúng nốt nhạc. Anh nhạc công vĩ cầm chống đối và cho rằng anh đã chơi theo đúng bản nhạc.
Lại một lần nữa nhạc trưởng ngừng ban nhạc và lưu ý đến nhạc công vĩ cầm ấy. Cuối cùng, nhạc trưởng xem lại và thấy bản in khúc nhạc của nhạc công nầy sai. Mặc dầu anh nhạc công vĩ cầm chơi đúng theo bản nhạc, nhưng nó không có sự hòa âm của toàn ban nhạc, phải có một lỗ tai nhạy bén như nhạc trưởng thì mới nghe được âm thanh "chỏi" ấy.
Lỗ tai của Cha thiên thượng còn nhạy bén gấp nhiều lần hơn, chẳng những Ngài nghe mọi lời của chúng ta nói, mà còn biết cả những động cơ của tấm lòng chúng ta.
Chúa Jesus phán nếu có hai người trở lên tìm thấy sự hòa hợp hoàn toàn trong tâm linh và tâm trí, nguyện vọng, động cơ và mục đích, thì Cha Thiên đàng sẽ đáp ứng một cách không giới hạn.
Nhưng làm thế nào để việc nầy thành tựu? Câu 20 nói với chúng ta: "Vì nơi nào có hai ba người nhơn danh ta nhóm nhau lại, thì ta ở giữa họ ".
Đây là điều mà một số người gọi là trí tuệ bậc thầy của Đấng Christ. Khi tâm trí của hai, ba hay nhiều người hơn nữa cùng hòa hợp chung với nhau phù hợp với tâm trí của Đấng Christ, câu giải đáp cho đòi hỏi của họ sẽ chắc chắn xảy ra.
Đây là sự kín nhiệm của uy quyền, lời cầu nguyện đầy quyền năng và sự thành đạt thuộc linh, phải được khám phá ra và thực hành trong Hội thánh tư gia. Đây là chìa khóa được trao cho các lãnh đạo và hội viên của mỗi hội chúng tư gia.