Back to Top
Bìa 04 - SỬ DỤNG VÀ LẠM DỤNG UY QUYỀN - PHẦN A3
Danh mục: Cây Gậy Của Người Chăn Bầy
Thư viện: Định dạng văn bản

Viết bởi Nguyễn Thiên Ý

MỤC LỤC

  1. A3.1 SỰ LẠM DỤNG UY QUYỀN
  2. Dẫn nhập
  3. A. BA MỨC ĐỘ UY QUYỀN CHỈ DÀNH RIÊNG CHO ĐỨC CHÚA TRỜI
    1. 1. Uy Quyền Tể Trị.
      1. a. Chúa Jêsus Christ, Đấng Tể Trị Duy Nhất, Đầu Của Hội Thánh.
      2. b. Hãy Cẩn Thận Đối Với Những Kẻ "Chiếm Vị Trí Của Đấng Christ".
    2. 2. Uy Quyền Của Lẽ Thật
      1. a. Lẽ Thật Có Uy Quyền.
        1. 1) Đức Chúa Cha Phán Sự Thật.
        2. 2) Đức Chúa Con (Chúa Jêsus) Phán Lẽ Thật.
        3. 3) Đức Thánh Linh Bày Tỏ Lẽ Thật.
      2. b. Kinh Thánh Có Uy Quyền.
        1. 1) Được Đức Thánh Linh Hà Hơi
        2. 2) Ba Sự Hướng Dẫn Về Uy Quyền Của Kinh Thánh.
        3. 3) Gương Của Những Tín Hữu Tại Bêrê.
        4. 4) Uy Quyền Tối Hậu Của Kinh Thánh.
    3. 3. Uy Quyền Của Lương Tâm.
      1. a. Các Sứ Đồ Dạy Về Lương Tâm.
        1. 1) Không Xúc Phạm Lương Tâm.
          1. a) Người Khác.
          2. b) Chính Chúng Ta.
          3. 2) Người Ngoại Đạo Sẽ Bị Xét Đoán Bởi Lương Tâm.
        2. 3) Chúng Ta Phải Vâng Phục Lương Tâm.
        3. 4) Mỗi Người Đều Phải Chịu Trách Nhiệm.
    4. 4. Tóm Tắt
  4. A3.2 GIỚI HẠN CỦA UY QUYỀN
  5. Dẫn nhập
  6. A. BỐN MỨC ĐỘ UY QUYỀN ĐƯỢC BAN CHO LOÀI NGƯỜI
    1. 1. Uy Quyền Được Ủy Thác.
      1. a. Giới Hạn Của Uy Quyền Được Ủy Thác.
      2. b. Những Người Lãnh Đạo Hội Thánh Có Trách Nhiệm Được Ủy Thác.
    2. 2. Uy Quyền Theo Điều Kiện.
    3. 3. Uy Quyền Của Thông Lệ Hoặc Truyền Thống.
    4. 4. Uy Quyền Của Chức Năng.
      1. a. Phát Xuất Từ Năng Lực.
      2. b. Được Thừa Nhận Trong Kinh Thánh.
  7. B. NHỮNG NAN ĐỀ VỚI UY QUYỀN CỦA CON NGƯỜI.
      1. 1. Nan đề 1: Con Người Sử Dụng Uy quyền Chỉ Thuộc Riêng Về Một Mình Đức Chúa Trời.
      2. 2. Nan Đề 2: Uy Quyền Tôn Giáo và Kinh Thánh Mâu Thuẫn Nhau.
      3. 3. Nan đề 3: Đặt Thông Lệ Và Truyền Thống Lên Trên Uy Quyền Của Kinh Thánh.
  8. A3.3 NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO XỨNG ĐÁNG NOI THEO
  9. Dẫn nhập
  10. A. CHÚNG TA CÓ TRÁCH NHIỆM PHẢI PHÂN BIỆT NGƯỜI LÃNH ĐẠO CHÂN THẬT
    1. 1. Một Hội Thánh Hoặc Một Quốc Gia Dấy Lên Hay Sụp Đổ Là Do Người Lãnh Đạo.
    2. 2. Sự Tăng Trưởng Tâm Linh Bị Hạn Chế Bởi Người Lãnh Đạo.
      1. a. Dân Ysơraên Bị Hình Phạt Lang Thang Trong Đồng Vắng.
  11. B. LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÂN BIỆT NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO TIN KÍNH VÀ NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO GIAN ÁC
    1. 1. Họ Vươn Đến Trách Nhiệm Hay Uy Quyền.
      1. a. Người Lãnh Đạo Tin Kính Tìm Kiếm Trách Nhiệm.
      2. b. Những Người Lãnh Đạo Gian Ác Tìm Kiếm Uy Quyền.
      3. c. Hai Tấm Gương.
        1. 1) Điôtrép:
        2. 2) Đêmêtriu:
    2. 2. Họ Nuôi Dưỡng Bầy Hay Hớt Lông Bầy?
      1. a. Những Người Lãnh Đạo Tin Kính Nuôi Dưỡng Bầy.
      2. b. Những Người Lãnh Đạo Gian Ác Hớt Lông Bầy.
      3. d. Satan Cám Dỗ Những Người Lãnh Đạo.
    3. 3. Họ Tập Họp Hay Làm Tản Lạc Bầy?
      1. a. Những Người Lãnh Đạo Tin Kính Tập Họp Bầy.
      2. b. Những Người Lãnh Đạo Gian Ác Làm Tản Lạc Bầy.
    4. 4. Họ Có Thừa Nhận Quyền Của Đức Chúa Trời Trên Chiên Hay Không?
      1. a. Những người lãnh đạo gian ác tuyên bố chiên thuộc về họ.
      2. b. Những Người Lãnh Đạo Tin Kính Nhận Biết Chiên Thuộc Về Đức Chúa Trời.
      3. c. Đức Chúa Trời Lập Những Người Chăn Thứ.
      4. d. Chiên Phải Theo Đấng Chăn Chiên Trưởng Của Chúng.
  12. C. CHÚNG TA LÀ CHIÊN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
    1. 1. Bầy Phải Được Nhóm Hiệp Lại.
    2. 2. Đức Chúa Trời Ban Phước Khi Có Sự Hiệp Một.


A3.1 SỰ LẠM DỤNG UY QUYỀN

Dẫn nhập

Một người lãnh đạo Hội Thánh rất nổi tiếng đã trích quan điểm nguy hiểm này rằng: "Khi một người được Đức Chúa Trời ủy thác cho một uy quyền nào đó hay người có uy quyền thuộc linh đưa ra một lời khuyên nào đó, thì người đó nói ra trong uy quyền của Đức Chúa Trời. Và bất cứ khi nào uy quyền của Đức Chúa Trời đã ủy thác đụng đến đời sống của chúng ta, Ngài đòi hỏi chúng ta phải thừa nhận và vâng phục uy quyền đó, NHƯ CHÚNG TA VÂNG PHỤC CHÍNH NGÀI VẬY!

Lại có một người lãnh đạo Hội Thánh nữa đã bộc lộ quan điểm không cân đối này khi ông nói rằng: "Bạn sẽ được Đức Thánh Linh dạy dỗ những gì liên hệ đến...chức vụ sứ đồ, hoặc là bạn sẽ bị bỏ lại ở Babylôn. Không có điểm trung dung. Sự lựa chọn duy nhất của bạn là hoặc là sự thuận phục thuộc linh đối với những mệnh lệnh thần thượng, hoặc là Babylôn."

Tôi xin làm sáng tỏ những quan điểm này. Tôi nghĩ tôi là một người tôn trọng tất cả những uy quyền hợp pháp. Tuy nhiên tôi rất chú trọng đến những tác động của những quan điểm của những thầy giáo trên các "môn đồ" của họ.

Trong phần nghiên cứu này, chúng ta sẽ quan sát sự lạm dụng uy quyền trong Hội Thánh, một chủ đề luôn làm cho các Cơ Đốc Nhân vô cùng bối rối.

Khi những lẽ thật của Kinh Thánh được áp dụng cách cực đoan và sai lầm, chúng có thể hủy diệt những cuộc đời. Tại Jonestown, Guyyana, một đám đông hơn 900 người đã tự tử theo Jim Jones chứng minh điều này. Ông ta là một người lãnh đạo Hội Thánh người Mỹ, ông luôn luôn đòi hỏi mọi người phải vâng phục mệnh lệnh của ông cách tuyệt đối.

Trong Rô 13:1 lời Chúa dạy rằng: Mọi người phải vâng phục các bậc cầm quyền, vì chẳng có quyền nào mà không đến bởi Đức Chúa Trời, các quyền đều bởi Đức Chúa Trời chỉ định "

Những nhóm người Công giáo cũng như Tin Lành đã dùng câu Kinh Thánh này để nhấn mạnh giáo lý về sự thuận phục. Những giáo lý này thường vượt quá những ý niệm về sự thuận phục trong Kinh Thánh. Đó là những quan điểm không theo Kinh Thánh mà chúng ta phải mạnh dạn ngăn chận.

"...lẽ thật (được bày tỏ) trong Chúa Jêsus " luôn luôn là sự tự do (Êph 4:21). Lẽ thật đó đem đến cho bạn sự tự do để bạn làm tất cả những gì Chúa muốn bạn làm. Lẽ thật đó không mang bạn đến sự nô lệ cho hệ thống cấp bậc tôn giáo nào mà nó ngăn cản ý muốn Đức Chúa Trời thực hiện qua đời sống bạn.

Khi Kinh Thánh nói về uy quyền CAO HƠN, điều đó có nghĩa là có những mức độ hợp pháp hoặc sự phân cấp uy quyền mà chúng ta phải vâng phục. Điều đó cũng ngụ ý rằng có những khi uy quyền cao hơn (thần thượng) và uy quyền thấp hơn (con người) mâu thuẫn nhau, và khi đó chúng ta phải chọn sự vâng lời Đức Chúa Trời hơn là vâng lời những bậc lãnh đạo tôn giáo (Công 5:49).

Trong số bảy mức độ uy quyền được nói đến trong Kinh Thánh, có ba mức độ không thuộc về con người. Đây là ba mức độ chỉ thuộc riêng về một mình Đức Chúa Trời. Đó là uy quyền tể trị, uy quyền của lẽ thật và uy quyền của lương tâm. Chúng ta sẽ giải thích những uy quyền này sau.

Đáng buồn thay lịch sử đầy những gương của những người lãnh đạo tôn giáo và chính trị nắm giữ địa vị, uy quyền và danh hiệu mà lẽ ra chỉ được Kinh Thánh dùng cho riêng một mình Đức Chúa Trời mà thôi.

Để ngăn chận những người lãnh đạo Hội Thánh chiếm giữ những uy quyền không theo Kinh Thánh, và sự thuận phục sai lầm của những thành viên trong Hội Thánh đối với uy quyền của con người, nên tôi muốn trình bày về những lời dạy dỗ này.

A. BA MỨC ĐỘ UY QUYỀN CHỈ DÀNH RIÊNG CHO ĐỨC CHÚA TRỜI

1. Uy Quyền Tể Trị.

Uy quyền cao nhất là UY QUYỀN TỂ TRỊ. Đây là uy quyền tuyệt đối của ba ngôi Đức Chúa Trời: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh.

Một vài giáo phái đã ngạo mạn nắm giữ chức vụ cao trọng mà Kinh Thánh chỉ dành riêng CHO MỘT MÌNH ĐỨC CHÚA TRỜI. HOÀN TOÀN KHÔNG CÓ NỀN TẢNG KINH THÁNH NÀO CHO NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO HỘI THÁNH (Hoặc bất cứ con người nào) NẮM GIỮ UY QUYỀN TỂ TRỊ.

Kinh Thánh cảnh cáo rằng những người nào làm như vậy đã rơi vào chính loại tội lỗi đã làm cho Satan sa ngã. Lucifer (Satan) đã ngạo mạng khi muốn mặc lấy quyền tể trị tuyệt đối chỉ thuộc về MỘT MÌNH ĐỨC CHÚA TRỜI.

"Hỡi sao mai con trai của sáng sớm kia... ngươi vẫn bụng bảo dạ rằng: Ta sẽ lên trời, ta sẽ nhấc ngai ta lên trên các ngôi sao Đức Chúa Trời... ta sẽ... làm ra mình bằng Đấng rất cao "(Ês 14:12-14).Sự sa ngã của Satan là kết quả của việc chiếm đoạt quyền tể trị tuyệt đối chỉ dành riêng cho Đức Chúa Trời. Đây cũng là sự cảnh cáo cho các lãnh đạo Hội Thánh. Bạn có thể rơi vào chiếc bẫy mà Satan đã rơi vào.

a. Chúa Jêsus Christ, Đấng Tể Trị Duy Nhất, Đầu Của Hội Thánh.

Trong thư tín gởi cho Hội Thánh Êphêsô, PhaoLô nói rằng chỉ một mình Chúa Jêsus mới nắm giữ uy quyền tể trị trong Hội Thánh.

"Tôi... thường nhắc đến anh em trong khi cầu nguyện, tôi cầu Đức Chúa Trời ban thần trí của sự thông sáng và sự tỏ ra cho anh em, ĐỂ NHẬN BIẾT NGÀI, lại soi sáng con mắt lòng của anh em, hầu cho... biết quyền vô hạn của Ngài, đối với chúng ta có lòng tin,... y theo phép tối thượng của năng lực mình, mà Ngài đã tỏ ra trong Đấng Christ, khi khiến Đấng Christ từ kẻ chết sống lại và làm cho ngồi bên hữu mình tại các nơi trên trời, cao hơn hết mọi quyền, mọi phép, mọi thế lực, mọi quân chủ cùng mọi danh vang ra... Ngài đã bắt muôn vật phục dưới chơn Đấng Christ (và chỉ một mình Đấng Christ),và ban cho ĐẤNG CHRIST LÀM ĐẦU HỘI THÁNH... "(Êph 1:16-22).

Chúa Jêsus là Đấng duy nhất nắm quyền tể trị trên Cơ Đốc Nhân. Ngài là Đấng ngồi trên ngai cao hơn hết thảy mọi uy quyền.

Ngài được tôn vinh rằng: "Cao hơn hết mọi... quân chủ cùng mọi danh vang ra, không những trong đời này mà cũng trong đời hầu đến nữa... muôn vật phục dưới chơn Ngài... NGÀI LÀM ĐẦU HỘI THÁNH "(1:22-23).

Hêbêrơ chương một cũng dạy chúng ta rằng chỉ có Chúa Jêsus Christ là đầu Hội Thánh.

"Đức Chúa Trời... những ngày sau rốt này, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự (thừa kế hợp pháp) muôn vật... Nhưng nói về Con (Chúa Jêsus) thì (Đức Chúa Cha) phán rằng: Hỡi Đức Chúa Trời ngôi Chúa còn mãi mãi đời nọ qua đời kia.

"...Đức Chúa Trời của Chúa lấy dầu vui mừng xức cho, khiến Chúa trổi hơn kẻ đồng loại mình "(Hêb 1:1-9).

Điều này đặt Chúa Jêsus lên trên hết mọi người trong Hội Thánh. Không người nào, bất kể địa vị hay chức vụ như thế nào, có thể kể rằng mình có một địa vị ngang bằng với uy quyền của Chúa chúng ta. Chỉ một mình Chúa Jêsus có địa vị ưu việt này. Ngài được tôn cao trên tất cả các thiên sứ, trên mọi ngôi mọi nước cho đến đời đời. Ngài được ban cho quyền tể trị trong đời này cũng như trong đời hầu đến nữa.

b. Hãy Cẩn Thận Đối Với Những Kẻ "Chiếm Vị Trí Của Đấng Christ".

Bất cứ ai hoặc bất cứ Hội thánh nào đang cố gắng vươn lên mức độ uy quyền này bằng cách đưa ra những chức vụ bằng hoặc lớn hơn Chúa Jêsus, người đó hoặc giáo hội đó đang ở về phe của AntiChrist.

Chữ "AntiChrist " trong Tân ước không chỉ có nghĩa là "chống lại Đấng Christ ". Nó cũng còn có nghĩa là "ở trong vị trí của Đấng Christ ". (Trong tiếng Hylạp = antee có nghĩa là: thay cho, trong cương vị của. Nó chỉ về vật thay thế hay sự thay thế).

Ví dụ như bất cứ tôn giáo nào như Công giáo là tôn giáo thừa nhận một người nào đó "ở trong cương vị của Chúa Jêsus Christ ", đó là tôn giáo đang chiếm đoạt vị trí của Đấng Christ.

Trong thần học Công giáo thì Giáo hoàng là "linh mục của Đấng Christ trên đất ".(Chữ linh mục này là "Vicar" xuất phát từ chữ "Vicarious" có nghĩa là "thay thế, thay cho".

Đây là một thần học nguy hiểm, đặt biệt kể từ khi các người lãnh đạo Hội Thánh Công giáo xem những lời tuyên bố của Giáo Hoàng là vô ngộ (Không hề sai phạm)

Đây là điều mà Chúa Jêsus cảnh cáo sẽ xảy ra. Ngài phán rằng: "Nhiều người sẽ mạo DANH TA đến mà nói rằng: Ta là Đấng Christ; và sẽ dỗ dành nhiều người "(Mat 24:5).

Trong Khải 19:1-21, Đức Thánh Linh nhấn mạnh rằng Chúa Jêsus nắm giữ một vị trí độc nhất trong mục đích của Đức Chúa Trời. Trong câu 16, Ngài được mô tả rằng trên áo Ngài được viết những chữ: "VUA CỦA CÁC VUA VÀ CHÚA CỦA CÁC CHÚA ".

Ngài là Vua của muôn vua, là Chúa của muôn chúa. Chỉ một mình Ngài được ban cho uy quyền tể trị tuyệt đối. Không có một uy quyền nào trong Hội Thánh mà Cơ Đốc Nhân phải vâng phục nó một cách vô điều kiện hơn là Chúa Jêsus Christ của chúng ta.

Cũng phải lưu ý rằng nhiều người trong Hội Thánh gán uy quyền tể trị cho những người thống trị và lãnh đạo của họ. Làm như vậy không những không theo Kinh Thánh nhưng còn là chống lại Kinh Thánh nữa, như chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết hơn trong những chương kế tiếp.

2. Uy Quyền Của Lẽ Thật

Từ ngữ "Lẽ thật hay chân lý " có nghĩa là sự thật, hoặc điều gì đó luôn luôn thật không một chút nghi ngờ. Ví dụ như khi bạn còn ở trường, bạn được dạy một sự thật đơn giản là: "2+2=4". Thầy giáo của bạn nói điều đó với uy quyền của sự thật.

Công thức số học đơn giản này là một sự kiện không cần phải suy xét, bàn cãi hoặc chứng minh. Nó là sự thật, nó là một chân lý không thể bác bỏ của toán học.

Cũng như ví dụ trên, bất cứ điều gì là chân lý đều có uy quyền bởi bản chất chân thật của nó. Sứ đồ PhaoLô thừa nhận điều này:"Vì chúng tôi chẳng có thể nghịch cùng lẽ thật... " (IICôr 13:8). Lẽ thật có uy quyền.

a. Lẽ Thật Có Uy Quyền.

Bác bỏ sự thật là gánh lấy sự phán xét."Hết thảy những người không tin lẽ thật điều bị phục dưới sự phán xét của Ngài. "(IITê 2:12).

1) Đức Chúa Cha Phán Sự Thật.

Đức Chúa Trời luôn luôn phán sự thật; vì vậy, lời của Ngài có uy quyền của Lẽ thật.

"Đức Chúa Trời chẳng phải là người nói dối... Điều Ngài đã nói Ngài há chẳng sẽ làm ư? Điều Ngài đã phán há chẳng làm cho ứng nghiệm sao? "(Dân 23:19).

"Ta sẽ không hề bội giao ước ta, cũng chẳng đổi lời đã ra khỏi miệng ta. Ta đã chỉ sự thánh ta mà thề... sẽ không hề nói dối... "(Thi 89:34, 35).

2) Đức Chúa Con (Chúa Jêsus) Phán Lẽ Thật.

"Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là... lẽ thật "(Giăng 14:6).Bởi vì Ngài là lẽ thật nên mọi điều Ngài nói ra điều là sự thật: "...chúng tôi biết Ngài là người thật... dạy đạo Đức Chúa Trời theo mọi lẽ thật ".(Mác 12:14)."Vì... lẽ thật bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà đến "(Giăng 1:17).

Vì vậy để được cứu chúng ta phải tin những gì Ngài đã phán. "...ai không chịu tin Con thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó "(3:36).

3) Đức Thánh Linh Bày Tỏ Lẽ Thật.

Đức Chúa Jêsus đã ba lần mô tả Đức Thánh Linh là "...thần lẽ thật "(14:17; 15:26; 16:13). Chúng ta cũng đọc thấy trong IGiăng 5:7 rằng: "Đức Thánh Linh tức là lẽ thật ". Vì vậy Đức Thánh Linh là sự bày tỏ uy quyền của lẽ thật trong Đức Chúa Trời.

b. Kinh Thánh Có Uy Quyền.

Kinh Thánh được Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh viết ra như một sự bày tỏ chân lý, vì vậy Kinh Thánh có uy quyền của chân lý. Uy quyền này sống động trong mỗi đời sống của mỗi người, ngay cả đối với những người từ chối thừa nhận nó.

Chúng ta có Lời của Đức Chúa Trời không chỉ qua con người Jêsus tức lời thành nhục thể (Xem Giăng 1:1, 14). Nhưng chúng ta cũng có lời đó qua Kinh Thánh (Lời được viết ra của Đức Chúa Trời).

1) Được Đức Thánh Linh Hà Hơi

Kinh Thánh được viết ra do sự tác động của Linh Đức Chúa Trời trên con người. Đức Thánh Linh hà hơi trên tư tưởng và lời của họ. Đavít đã diễn đạt hiện tượng này bằng những lời sau: "Thần của Đức Giê-hô-va đã cậy miệng ta mà phán, và lời của Ngài ở nơi lưỡi miệng ta "(IISa 23:2).

"...Bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời "(IIPhi 1:21).Những người này được Đức Thánh Linh hà hơi để chép lại Lời của Đức Chúa Trời cho chúng ta.

"Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn... "(IITi 3:16).Kinh Thánh là công việc của Đức Thánh Linh đem lẽ thật của Đức Chúa Trời đến cho con người.

Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một cuốn sách được Đức Thánh Linh hà hơi gọi là Kinh Thánh. Ngài đã nói về quyển sách đó rằng:

"...Luật pháp Chúa là chơn thật... điều răn Chúa là chơn thật "(Thi 119:151).

Vì vậy đối với Cơ Đốc nhân (và cả loài người) Kinh Thánh có Uy quyền của CHÂN LÝ. Chúng ta phải suy xét điều gì đúng điều gì sai dựa trên những gì Kinh Thánh dạy.

2) Ba Sự Hướng Dẫn Về Uy Quyền Của Kinh Thánh.

Chúng ta đang sống trong những ngày mà con người luôn luôn chống đối Kinh Thánh từ bên trong cũng như bên ngoài Hội Thánh. Vì vậy chúng ta cần phải khẳng định lại những gì mà các Giáo Hội Nghị (công đồng) trước đây đã đưa ra.

Hàng trăm năm trước đây, những nhà lãnh đạo Hội Thánh phải giải quyết những nan đề hủy hoại đức tin của Cơ Đốc Nhân. Trong bài công bố được đưa ra sau một kỳ hội nghị, có ba nguyên tắc được dùng như một sự hướng dẫn để những người lãnh đạo Hội Thánh hiểu rõ UY QUYỀN VỀ LẼ THẬT CỦA KINH THÁNH. Đó là:

  • "Điều gì trái với Kinh Thánh không thể là chân lý"
  • "Không được thêm bất cứ điều gì vào Kinh Thánh"
  • "Mỗi tín hữu phải chịu trách nhiệm với Đức Chúa Trời trong việc tra xem Kinh Thánh để biết những gì người lãnh đạo Hội Thánh dạy là thật chăng."

3) Gương Của Những Tín Hữu Tại Bêrê.

Bảng công bố của Westminster Confession đặt nền tảng trên Công 17:10, 11 "Tức thì trong ban đêm, anh em khiến PhaoLô và SiLa đến thành Bêrê. Đến nơi rồi thì vào nhà hội người Giuđa. Những người này (tại Bêrê) có ý hẳn hoi hơn những người Têsalônica, đều sẵn lòng chịu lấy đạo, ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh để xét xem lời giảng có thật chăng".

Sứ đồ Phaolô và Sila đem sứ điệp của Đấng Christ đến cho những người Giuđa tại thành Bêrê. Đến nơi rồi, thì vào nhà hội người Giuđa tại thành Bêrê (những người này lúc đó chỉ có Kinh Thánh Cựu ước). Những tín hữu tại Bêrê đã để lại hai bài học này:

Họ thừa nhận uy quyền của Kinh Thánh là lớn hơn uy quyền của những người lãnh đạo (sứ đồ).

Họ tra xem Kinh Thánh hằng ngày để xét xem lời dạy của những người lãnh đạo (sứ đồ PhaoLô và Sila) có thật không.

Những tín hữu Bêrê không nghe lời giảng của các sứ đồ với thái độ chống đối, nhưng họ muốn chắc chắn rằng những gì các sứ đồ dạy dỗ là hợp với Kinh Thánh.

Họ được Đức Thánh Linh ban cho đủ sự khôn ngoan để nhận ra rằng Đức Chúa Trời đã ban một cuốn sách mà họ có thể dùng để suy xét bất cứ người nào cùng sự dạy dỗ của họ cho dù người đó là một sứ đồ hay một thiên sứ từ trời đến.

Nếu "...Thiên sứ trên trời truyền cho anh em một Tin Lành nào khác với Tin Lành chúng tôi đã truyền cho anh em thì đáng bị anathem (rủa sả)(Ga 1:8).

Ngay cả nếu có núi lửa phun, lửa và khói, tiếng kèn và âm điệu của các thiên sứ đi kèm với một cuộc truyền giảng Tin Lành, nhưng nếu lời giảng đó trái với Kinh Thánh, thì điều đó không có giá trị gì hết.

4) Uy Quyền Tối Hậu Của Kinh Thánh.

Đức Chúa Trời phán qua Êsai rằng:"Hãy theo luật pháp và lời chứng! Nếu dân chẳng nói như vậy, chắc sẽ chẳng có rạng đông cho nó "(Ês 8:20)

Đức Chúa Trời đã dùng Êsai để phán cùng chúng ta rằng Kinh Thánh sẽ là uy quyền tối hậu cho đức tin và cuộc sống của chúng ta. Không có người làm phép lạ nào, người lãnh đạo nào, hay thiên sứ nào có uy quyền ngang bằng với uy quyền của Kinh Thánh.

Kinh Thánh là uy vquyền tối hậu cho đức tin và cuộc sống của con người đã được thiết lập cách đây hơn bốn ngàn năm khi Đức Chúa Trời ban Ngũ Kinh (năm sách đầu tiên của Kinh Thánh) cho Giôsuê, người kế tiếp Môise lãnh đạo dân Ysơraên.

Đức Chúa Trời phán cùng Giôsuê rằng:"Quyển sách luật pháp này chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong... "(Giô 1:8).

Đức Chúa Trời phán cùng ông rằng: "Nếu ngươi muốn được thành công và thịnh vượng, hãy Đọc quyển sách này và làm theo những gì ngươi đã đọc. "

Đó cũng là mạng lịnh của Đức Chúa Trời cho những ai muốn được thành công và thạnh vượng ngày hôm nay. Hãy đọc Kinh Thánh, sống theo những gì đã dạy dỗ ở trong và suy xét mọi việc Kinh Thánh nói đến.

Kinh Thánh là UY QUYỀN CỦA LẼ THẬT. Đó là uy quyền cao hơn bất cứ chức vụ nào trong Hội Thánh. Kinh Thánh cao trọng hơn bất cứ người nào trong Hội Thánh, dầu người đó là Sứ đồ, Giáo hoàng, Tiên tri, Hồng y, Giáo chủ, Giáo sĩ, Giám mục, Mục sư, trưởng lão, giáo sư hoặc chấp sự.

Giáo Hội Công giáo La mã cũng công nhận uy quyền chân lý của Kinh Thánh bởi vì ngay cả Giáo hoàng cũng không muốn dạy những giáo lý chống lại Kinh Thánh.

Đavít nói "Vì Chúa đã làm cho lời Chúa được tôn cao hơn cả danh thinh Chúa "(Thi 138:2).Hãy suy nghĩ điều này. Đức Chúa Trời ban cho Đấng Christ một danh cao hơn hết mọi danh (Phil 2:9), nhưng Ngài lại tôn cao lời Ngài hơn cả danh của Ngài. Điều này làm cho Kinh Thánh cao trọng hơn hết thảy mọi uy quyền thuộc về con người, cho dù đó là tôn giáo, chính trị hay là quân sự.

Mọi tín hữu đều phải tra xem Kinh Thánh để xét xem lời dạy của những người lãnh đạo có phù hợp với Kinh Thánh không. Chúng ta sẽ không bao giờ tin hoặc làm theo bất cứ điều gì trái với Kinh Thánh, lời của Đức Chúa Trời.

Không có một chỗ nào trong Kinh Thánh hay sự dạy dỗ của các giáo phụ Hội Thánh đầu tiên làm bằng chứng cho chúng ta rằng những người lãnh đạo Hội Thánh (Hay bất cứ con người nào) nói ra có uy quyền của chân lý. Đây là một mức độ cao hơn uy quyền của con người.

3. Uy Quyền Của Lương Tâm.

Mức độ thứ ba của uy quyền mà Kinh Thánh dạy chúng ta là uy quyền của LƯƠNG TÂM.

Một số người nói rằng họ không thể phân biệt điều đúng và điều sai. Tuy nhiên, một người với đầu óc bình thường sẽ phân biệt điều đúng hoặc sai. Vậy thì làm thế nào một người có thể phân biệt được như thế?

Tất cả chúng ta đều biết những gì chúng ta KHÔNG muốn người khác làm cho mình. Chúng ta không muốn người khác đối xử cách bất công với chúng ta, chúng ta không muốn người nào làm tổn thương chúng ta. Chúng ta không muốn người khác lẻn vào nhà chúng ta khuân đi hết thảy mọi đồ đạc. Chúng ta không muốn bị giết hoặc vợ và con gái chúng ta bị hiếp dâm hay các con của chúng ta phạm tội tà dâm hoặc ngoại tình.

Vì vậy, hết thảy chúng ta đều biết điều nào đúng, điều nào sai, ngay cả khi mà chúng ta không được Kinh Thánh dạy bảo. Chúng ta biết những điều mà chúng ta không muốn những người khác làm cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta biết những điều mà chúng ta không nên làm cho người khác.

Đây là nền tảng của mười điều răn trong Kinh Thánh. Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta không nên làm những điều đó bởi vì Ngài biết nó sẽ làm tổn thương chúng ta hoặc người khác.

Biết chúng ta không muốn người khác làm cho mình những điều nào, và biết chúng ta không nên làm cho họ những điều nào, Kinh Thánh gọi đó là LƯƠNG TÂM.

a. Các Sứ Đồ Dạy Về Lương Tâm.

1) Không Xúc Phạm Lương Tâm.

Sứ đồ PhaoLô thiết lập Uy quyền của lương tâm trong các thư tín của ông. Trong thời Kinh Thánh có rất nhiều quan niệm tôn giáo về các loại thức ăn khác nhau. Ông cảnh cáo chúng ta cẩn thận khi ăn để không xúc phạm lương tâm của:

a) Người Khác.

"Khi nào mình phạm tội cùng em như vậy, làm cho lương tâm yếu đuối của họ bị thương, thì phạm tội cùng Đấng Christ "(ICôr 8:12)

b) Chính Chúng Ta.

"Chớ vì một thức ăn mà làm hủy hoại việc Đức Chúa Trời. Thật mọi vật là thanh sạch; nhưng ăn lấy mà làm dịp cho kẻ khác vấp phạm thì là ác "(Rô 14:20)."Nhưng ai đó có lòng nghi ngại về thức ăn nào, thì bị định tội rồi, vì chẳng bởi đức tin mà làm; vả, phàm làm điều chi không bởi đức tin thì điều đó là tội lỗi "(14:23).

2) Người Ngoại Đạo Sẽ Bị Xét Đoán Bởi Lương Tâm.

Trong Tân Ước, lương tâm mang một uy quyền vô cùng quan trọng. Nhiều người đã hỏi tôi rằng: "Này anh Ralph ơi! Điều gì xảy đến cho người chưa hề nghe Tin Lành".

Sứ đồ Phao Lô đã trả lời cho câu hỏi này: "Phàm những kẻ không luật pháp mà phạm tội, cũng sẽ không luật pháp mà hư mất... Vả, dân ngoại vốn không có luật pháp, khi họ tự nhiên làm những việc luật pháp dạy biểu, thì những người ấy dầu không có luật pháp, cũng tự nhiên nên luật pháp cho mình. "

"Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ: CHÍNH LƯƠNG TÂM LÀM CHỨNG CHO LUẬT PHÁP, còn ý tưởng mình, khi thì cáo giác mình khi thì binh vực mình... trong ngày Đức Chúa Trời bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà xét đoán những việc kín nhiệm của loài người y theo Tin lành tôi "(Rô 2:12, 14-16).

Đức Chúa Trời sẽ phán xét dân ngoại bởi sự phản ứng của họ với lương tâm của họ. Lương tâm là luật pháp của Đức Chúa Trời viết trên lòng và tâm trí con người.

Hãy nhớ rằng, đối với Đức Chúa Trời, lương tâm có một uy quyền vô cùng quan trọng. Vì vậy, chúng ta phải vâng phục nó.

3) Chúng Ta Phải Vâng Phục Lương Tâm.

Sứ đồ PhaoLô đã trả lời cho nhiều câu hỏi về lương tâm, như chúng ta ăn gì hoặc uống gì, chúng ta thờ phượng Chúa ngày nào.

Ông viết: Người này tưởng ngày này hơn ngày khác, kẻ kia tưởng mọi ngày đều bằng nhau; ai nấy hãy tin chắc ở trí mình (lương tâm mình).

"Kẻ giữ ngày là giữ vì Chúa, kẻ ăn cũng là ăn vì Chúa, vì họ tạ ơn Đức Chúa Trời; kẻ chẳng ăn cũng chẳng ăn vì Chúa, họ cũng tạ ơn Đức Chúa Trời "(14:5, 6).

Vậy thì con người phản ứng lại lương tâm của mình như thế nào? Đối với một số người xem một số ngày nào đó là rất quan trọng. Ví dụ như ở Do Thái, người Hồi giáo giữ ngày thứ sáu, người Do Thái chính thống giáo giữ ngày thứ bảy, và những Cơ Đốc nhân giữ ngày Chúa nhật.

Xúc phạm đến ngày thiêng liêng của họ là xúc phạm đến lương tâm của họ. Tôi không gợi ý cho bạn nên giữ một ngày đặc biệt nào, tôi đang nói những gì Phao Lô nói: "Lương tâm bạn bảo bạn làm điều gì bạn hãy làm điều đó ".

Phao Lô tiếp tục: "Vậy chúng ta chớ xét đoán nhau; nhưng thà nhất định đừng để hòn đá vấp chơn trước mặt anh em mình, và đừng làm dịp cho người vấp ngã "(14:13).

Cũng như phải cẩn thận đối với lương tâm của kẻ khác, Phao Lô nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta phải cẩn thận đối với lương tâm của chính chúng ta: "Chớ vì một thức ăn mà hủy hoại công việc của Đức Chúa Trời. Thật vậy, mọi vật là thanh sạch, nhưng ăn lấy mà làm dịp cho kẻ khác vấp phạm (với một lương tâm tội lỗi),thì là ác "(14:20).

Nếu bạn có một quan niệm rằng bạn nên kiêng ăn một vài thức ăn nào đó và bạn bỏ qua lương tâm của bạn, PhaoLô gọi đó là điều sai (điều ác). Nếu bạn ăn thịt heo và điều đó trái với lương tâm của bạn, thì đó là điều sai và bạn đang chống lại uy quyền lương tâm của chính bạn.

Sứ đồ PhaoLô giải thích rằng mỗi người chúng ta phải khai trình chính mình với Đức Chúa Trời. Cách mà chúng ta đáp lại với lương tâm của chúng ta sẽ quyết định chúng ta được khen thưởng hay bị đoán phạt. Nếu chúng ta xúc phạm lương tâm của chính mình, lương tâm sẽ trở thành tội lỗi cho chúng ta.

PhaoLô dạy chúng ta phải vâng phục uy quyền lương tâm của chính chúng ta. Mặc dù lương tâm chúng ta không cho phép chúng ta làm những gì người khác có thể làm, chúng ta phải vâng phục.

4) Mỗi Người Đều Phải Chịu Trách Nhiệm.

Phao Lô cũng dạy chúng ta không được ép buộc người khác phải noi theo những gì mà chúng ta còn nghi ngại vì cớ lương tâm chúng ta. Chúng ta không xem họ là kém thuộc linh hơn chúng ta bởi vì họ có những sự tự do trái với quan niệm cá nhân của chúng ta.

Có những trường hợp mà uy quyền của lương tâm không được những người lãnh đạo Hội Thánh kính trọng. Một số người dạy rằng người vợ phải vâng phục chồng mình ngay cả khi họ bị đòi hỏi phải làm điều gì đó xúc phạm đến lương tâm của họ.

Điều này là sai lầm! Tất cả chúng ta hoặc nam, hoặc nữ, đều phải chịu trách nhiệm về công việc mình trước mặt Đức Chúa Trời.

Saphira phải chịu trách nhiệm cho sự đồng lỏa của mình trong việc lừa dối Đức Thánh Linh. "Phierơ bèn nói rằng: Sao các ngươi dám đồng mưu để thử Thánh Linh của Chúa? Kìa, chơn những kẻ chôn chồng ngươi đang ở ngoài cửa, họ sẽ đem ngươi đi luôn". Saphira đã bị chết do sự phán xét bởi vì bà ta đã đồng mưu với chồng để lừa dối Thánh Linh.

4. Tóm Tắt

Uy quyền tể trị của Đức Chúa Trời, uy quyền lẽ thật của Kinh Thánh và uy quyền của lương tâm chúng ta cao trọng hơn bất cứ con người nào, bất kể người đó mang chức vụ hay địa vị nào.

Không có ai trên thế gian này được Đức Chúa Trời ban quyền để đòi hỏi bạn không vâng theo lương tâm của bạn, Kinh Thánh hoặc Đức Chúa Trời. Đây là những điều cao trọng hơn bất cứ chức vụ hoặc uy quyền nào, hoặc Hội Thánh quốc gia hay một điều gì khác.

Lương tâm là đối tượng của Kinh Thánh và Kinh Thánh đến từ Đức Chúa Trời. Vì vậy, chúng ta phải là đối tượng của những uy quyền CAO HƠN này, ngay cả khi những uy quyền này mâu thuẫn với những uy quyền THẤP HƠN mà Đức Chúa Trời ban cho con người.

A3.2 GIỚI HẠN CỦA UY QUYỀN

 

Dẫn nhập

"Vì có một con trẻ sinh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng lạ lùng, là Đấng mưu luận, là Đức Chúa Trời quyền năng là Cha đời đời là Chúa bình an. QUYỀN CAI TRỊ và SỰ BÌNH AN Ngài cứ thêm mãi không thôi "(Ês 9:5, 6).

Gần 2.800 năm trước, Êsai đã nói tiên tri về một Đấng sẽ đến và được xưng là "Chúa Bình An". Lời tiên tri này đã được ứng nghiệm trong Chúa Jêsus.

Nói về quyền tể trị của Chúa Jêsus, sứ đồ PhaoLô cho chúng ta biết rằng sự công bình, bình an và vui mừng là dấu hiệu của những người chấp nhận quyền tể trị của Chúa Jesus trên đời sống họ. (Rô 14:17).

Điều gì mô tả sự tể trị của Đấng Christ? Và đó là sự tể trị gì?

Đó không phải là sự tể trị của con người mà trong đó mỗi người tự do làm những điều mình "cảm thấy là đúng hoặc là tốt", cho dù điều đó không ảnh hưởng gì đến họ. Đây là điều những kẻ suy đồi, những triết gia theo chủ nghĩa khoái lạc ủng hộ.

Đó không phải là sự tự do sống trong tội lỗi, trong sự đồng tính luyến ái trái tự nhiên, hoặc là mối quan hệ đồng dục nữ mà những thành viên trong phong trào "tự do của phụ nữ" ở Phương tây đưa ra.

Sự tể trị của Chúa Jêsus Christ chúng ta là sự tể trị của tình yêu, phước hạnh và vui mừng, làm cho con người càng gần hơn trong mối tương giao với Đức Chúa Trời và với nhau.

Đây là mục đích của chương này và nó sẽ giúp cho chúng ta làm quen với sự tể trị công bình, bình an và vui mừng trong Đức Thánh Linh là sự tể trị mà Chúa Jêsus muốn dùng để cai trị chúng ta trong Hội Thánh của Ngài.

A. BỐN MỨC ĐỘ UY QUYỀN ĐƯỢC BAN CHO LOÀI NGƯỜI

Bốn mức độ của uy quyền dành cho loài người sẽ được đề cập sau đây. Khi được sử dụng cách thích hợp, chúng sẽ đem lại sự công bình, sự bình an và sự vui mừng trong Thánh Linh. Đó là:

1. Uy Quyền Được Ủy Thác.

Sứ đồ Phao Lô dạy chúng ta vâng phục năm ân tứ chức vụ, đó là: Sứ đồ, Tiên tri, người giảng Tin Lành, Mục sư và Giáo sư. (Êph 4:11) "Hãy vâng lời những kẻ dẫn dắt anh em và chịu phục các người ấy, bởi các người ấy tỉnh thức về linh hồn anh em... "(Hêb 13:17).

Chữ "dẫn dắt " ở đây không có nghĩa là người lãnh đạo thuộc linh sẽ cai trị bằng những cử chỉ độc đoán, nhưng là bày tỏ ý muốn của mình cho những người khác. Hơn nữa, nó còn có nghĩa là làm "chức vụ lãnh đạo của người chăn chiên "đối với những người khác.

Theo nghĩa của Kinh Thánh, một người chăn chiên là người phó sự sống mình cho bầy chiên, là người phục vụ, bảo vệ, và cho chiên ăn. Người chăn chiên không phải là người "cai trị ", nhưng là người "bảo vệ, chăm sóc, thương yêu và nuôi dưỡng... ""Người chăn hiền lành vì chiên mình mà phó sự sống mình "(Giăng 10:11).

Vậy thì, Hêb 13:17 nên được dịch ra rằng"Hãy vâng lời người lãnh đạo chăn chiên, và vâng phục sự bảo vệ chăm sóc, thương yêu và nuôi dưỡng của họ, bởi vì họ phải chịu trách nhiệm về linh hồn anh em với Đấng Chăn chiên trưởng là Chúa Jêsus! ".

a. Giới Hạn Của Uy Quyền Được Ủy Thác.

Chìa khóa để hiểu những giới hạn của uy quyền được ủy thác là:

1) Uy quyền được ủy thác không bao giờ đi quá trách nhiệm của người đó; và

2) Uy quyền được ủy thác không bao giờ đi quá phạm vi quyền của mình để xen vào lãnh vực trách nhiệm của người khác.

Ví dụ: Bởi vì bạn có trách nhiệm đối với vợ và con của bạn, nên bạn có uy quyền trên gia đình bạn.

Tại sao bạn không có uy quyền trên gia đình của người kế bên? Bởi vì bạn không chịu trách nhiệm về vợ và con của người đó. Uy quyền không bao giờ vượt quá trách nhiệm, nó chỉ nằm trong trách nhiệm mà thôi.

b. Những Người Lãnh Đạo Hội Thánh Có Trách Nhiệm Được Ủy Thác.

Một trong những lý do mà Đức Chúa Trời thiết lập giáo đoàn Hội Thánh địa phương đó là: Nó phát triển mối liên hệ hằng ngày, thực tế và sống động để mỗi người có thể chịu trách nhiệm cho những nhu cầu của nhau.

Khi một người chăn chiên chịu trách nhiệm cho một bầy chiên, người ấy được ban cho uy quyền để nuôi dưỡng, thăm viếng, bảo vệ, gìn giữ, chăm sóc và dùng tình yêu kỷ luật chiên của Đức Chúa Trời.

Những người lãnh đạo thuộc linh đóng vai trò như những người đại diện của Đức Chúa Trời. Như "...Khâm sai của Đấng Christ... nhơn danh Đấng Christ mà nài xin anh em... "(IICôr 5:20). PhaoLô nói: "Chúng tôi thay mặt cho Đấng Christ ở đây, làm người đại diện cho Ngài, chúng tôi là nhân viên của Ngài."

Người lãnh đạo Hội Thánh chỉ thực hiện trách nhiệm được ủy thác, làm người đại lý đại diện cho Đấng Christ đối với Hội Thánh của Ngài và đối với sự phát triển thuộc linh và đạo đức của Hội Thánh.

Có lẽ "Luật về người đại diện " sẽ là một ví dụ tốt nhất có thể giải thích cho vấn đề này.

Vài năm trước đây, một người lãnh đạo Hội Thánh bị dính líu trong một vụ tai nạn xe cộ, và một số người bị thương rất trầm trọng. Ông là người đã lái chiếc xe đó. Không chỉ một mình ông bị thưa kiện mà cả giáo phái của ông cũng bị thưa kiện nữa.

Tòa án phân xử rằng giáo phái đó phải chịu bồi thường thiệt hại, bởi vì, theo tòa án, người lãnh đạo Hội Thánh đó đã giữ vai trò như "Một người đại diện " của tổ chức đó. Không chỉ một mình ông chịu trách nhiệm mà tổ chức đó cũng phải chịu nữa.

Đây cũng là cách mà Đức Chúa Trời hành động: Ngài bổ nhiệm những người lãnh đạo Hội Thánh để làm công việc của Ngài, như là một người đại lý của Ngài trong uy quyền của người chăn chiên là uy quyền phát xuất từ trách nhiệm. Đây là uy quyền được ủy thác, uy quyền để đại diện cho một người khác làm công việc như thể người đó có mặt. Uy quyền này chỉ ở trong giới hạn của trách nhiệm mà thôi.

2. Uy Quyền Theo Điều Kiện.

Đây là uy quyền của những bản hợp đồng hay những thỏa thuận hợp pháp. Những bản hợp đồng được lập lên khi cả đôi bên cùng đồng ý sẽ thực thi những điều đã giao ước để đôi bên cùng có lợi hoặc sẽ bồi thường thiệt hại nếu vi phạm. Chúng ta sẽ triển khai vấn đề này sau.

3. Uy Quyền Của Thông Lệ Hoặc Truyền Thống.

Nơi đâu có một thông lệ được thiết lập và nó được một nền văn hóa hoặc một dân tộc chấp nhận, thì ở đó sẽ phát triển uy quyền của thông lệ hoặc truyền thống. Những truyền thống tốt được mọi người chấp nhận bởi vì nó đã tự chứng tỏ qua nhiều năm rằng nó thích hợp cho mọi người.

Trong Tân ước PhaoLô đã cho thấy uy quyền của thông lệ khi ông viết:"Bằng có ai muốn cãi lẫy thì chúng tôi không có thói quen ấy... "(ICôr 11:16).

Một sự mâu thuẫn thú vị giữa uy quyền theo điều kiện và uy quyền của thông lệ hoặc truyền thống xảy ra trong mối liên hệ thân tộc giữa GiaCốp và cậu của mình là Laban (Sáng 29:9-30).

Họ đã lập một bản "hợp đồng "rằng nếu GiaCốp làm việc cho Laban bảy năm thì ông sẽ gả con gái út của mình là Rachên cho GiaCốp.

Tuy nhiên, đến lúc giải quyết bản hợp đồng thì Laban đã thay thế sự thỏa thuận của mình với GiaCốp bằng uy quyền của thông lệ. Ông đưa đến con gái đầu của mình là Lêa, chứ không phải con gái út là Rachên.

Khi Gia cốp nhận ra rằng người mà Laban đưa đến là Lêa chứ không phải Rachên, chúng ta có thể tưởng tượng được ông giận dữ như thế nào khi ông muốn biết tại sao Laban đã lừa dối ông và vi phạm bản hợp đồng.

Nhưng Laban trả lời: "Theo thông lệ là phải gả chị trước rồi mới đến em". Nếu Giacốp vẫn còn yêu Rachên ông phải làm việc cho Laban thêm bảy năm nữa. Cuối cùng Giacốp đành phải chấp nhận uy quyền của thông lệ hay truyền thống, mà ngay lúc này nó thay thế cho "uy quyền theo điều kiện" của sự thỏa thuận ban đầu của họ.

4. Uy Quyền Của Chức Năng.

a. Phát Xuất Từ Năng Lực.

Khi nói về uy quyền chức năng, chúng ta muốn nói đến uy quyền xuất phát từ khả năng hay năng lực của một người. Tất cả chúng ta đều có năng lực đó:

1) Sự ra đời: khả năng thiên bẩm.

2) Huấn luyện: Chúng ta trưởng thành qua học vấn.

3) Ân tứ: ân tứ đến từ Đức Chúa Trời.

4) Kinh nghiệm: Kinh nghiệm có được qua một quá trình làm việc.

Vậy thì uy quyền chức năng hoạt động như thế nào? Giả sử bạn nhìn thấy quang cảnh của một tai nạn giao thông. Một người đàn ông bị một chiếc xe tải cán đang nằm dài giữa đường cùng với chiếc xe đạp bị gãy sườn. Ở đó cũng có một bác sĩ, một cảnh sát và một anh thợ máy.

Ai sẽ có quyền để ra lệnh về phương cách chữa trị cho người đang hấp hối? Bạn trả lời một cách tự nhiên là vị bác sĩ! Do sự huấn luyện và kỷ năng của ông mà vị bác sĩ này có năng lực, và tất nhiên có uy quyền để làm điều tốt nhất trong trường hợp đó.

Người thợ máy với những đồ nghề của anh ta hoặc người cảnh sát với những quân hàm chẳng có ích lợi gì cho công tác trên.

Nhưng khi đám đông tụ tập xung quanh vụ tai nạn, ai sẽ là người có uy quyền? Người cảnh sát! Tại sao? Bởi vì người đó đã được huấn luyện và được cho phép để làm việc đó.

Tuy nhiên, đến lúc phải sửa chữa chiếc xe đạp chúng ta sẽ gọi ai? Anh thợ máy. Tại sao vậy? Bởi vì khả năng của anh ta hay là uy quyền chức năng của anh ta xứng hợp với công việc đó.

Khả năng riêng biệt của họ đã khiến họ có uy quyền để thực hiện chức năng mà họ đã được huấn luyện.

Trong hầu hết các quốc gia trên thế giới, người cảnh sát đó sẽ bị khiển trách là sử dụng sai uy quyền nếu như anh ta cố gắng kiểm soát vị bác sĩ và ra lệnh phải chữa trị cho người đang hấp hối bằng cách này hoặc cách kia. Quân hàm uy quyền của anh ta chỉ đem đến cho anh ta uy quyền giới hạn mà thôi.

b. Được Thừa Nhận Trong Kinh Thánh.

Chúa Jêsus đã thừa nhận uy quyền chức năng khi Ngài phán rằng: "...Chẳng phải là kẻ khỏe mạnh cần thầy thuốc đâu, song là kẻ có bịnh "(Mat 9:12).

Trong gia đình, Phao Lô dạy rằng người chồng và người vợ phải vâng phục nhau trong sự kính sợ Đức Chúa Trời (Êph 5:21). Người vợ phải thuận phục chồng, và người chồng phải thuận phục vợ trong những khả năng hỗ tương và sự huấn luyện của họ. Cả hai phải thừa nhận uy quyền chức năng của nhau.

Sự thuận phục dựa trên tình yêu sẽ đem lại sự kính trọng nhau về khả năng của mỗi người trong hôn nhân và gia đình.

B. NHỮNG NAN ĐỀ VỚI UY QUYỀN CỦA CON NGƯỜI.

Những nan đề bắt nguồn từ đâu? Trong thế giới chúng ta đang sống, ngay cả trong Hội Thánh và gia đình, chúng ta đều gặp những nan đề với uy quyền. Điều gì đã gây nên những tình trạng phiền phức này?

Tại sao chúng ta thường chỉ có sự thỏa thuận khó chịu giữa các thành viên trong gia đình thay vì sự bình an vô tận như một số gia đình hoặc Hội Thánh khác? Có thể là do không hiểu uy quyền và chức năng của nó.

1. Nan đề 1: Con Người Sử Dụng Uy quyền Chỉ Thuộc Riêng Về Một Mình Đức Chúa Trời.

Chắc chắn nan đề sẽ xảy ra nếu như chúng ta dùng uy quyền được ủy thác, uy quyền theo điều kiện, theo tập quán hoặc uy quyền chức năng để thay thế cho uy quyền tể trị, uy quyền của chân lý, hoặc uy quyền của lương tâm.

Nếu con người cố tình nâng uy quyền giới hạn của họ lên và tỏ ra mình là bằng hoặc lớn hơn Đức Chúa Trời và lời của Ngài thì những nan đề chắc chắn sẽ cặp theo.

Thật quá dễ để những người lãnh đạo Hội Thánh"đóng vai trò của Đức Chúa Trời " khi họ làm những việc mà theo mắt họ là đúng và họ tuyên bố mình có quyền làm như vậy. Thái độ này vô cùng nguy hiểm, nhưng nó còn nguy hiểm gấp đôi khi nó lây lan vào người của Đức Chúa Trời và những người giữ vai trò lãnh đạo Hội Thánh.

Kinh Thánh cho biết rõ ràng rằng Đức Chúa Trời không cho phép bất cứ ai chiếm đoạt uy quyền tể trị của Ngài.

Chúa Jêsus phán: "...Nếu các ngươi hằng ở trong đạo ta, thì thật làm môn đồ ta... "(Giăng 8:31). Chúng ta phải đầu phục Đức Chúa Trời và lời của Ngài. Chúng ta không được xem bất cứ người lãnh đạo quân đội, chính trị hay tôn giáo nào là người có uy quyền tể trị hoặc uy quyền của chân lý.

Chúa Jêsus tuyên bố cách rõ ràng rằng chúng ta là môn đồ của Ngài (chỉ) nếu chúng ta ở trong đạo (lời) của Ngài. Kinh Thánh là uy quyền tối hậu của đức tin và công việc của chúng ta. Chúa Jêsus đã làm cho điều này thêm chắc chắn khi phán rằng: "Kinh Thánh không thể bỏ được (bất tuân) " (10:35).

2. Nan Đề 2: Uy Quyền Tôn Giáo và Kinh Thánh Mâu Thuẫn Nhau.

Điểm này được minh chứng qua cuộc diện kiến giữa thầy tế lễ thượng phẩm Anania và Sứ Đồ PhaoLô. Câu chuyện như thế này: Phao Lô đang tự bào chữa mình chống lại lời buộc tội của những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái. "...Phao Lô mắt chăm chỉ trên tòa công luận, nói rằng: Hỡi các anh em, trước mặt Đức Chúa Trời, tôi đã ăn ở trọn lương tâm tử tế cho đến ngày nay.

"Nhưng thầy tế lễ thượng phẩm là Anania biểu mấy kẻ đứng gần PhaoLô vả miệng người.

"Phao Lô bèn nói cùng người rằng: Hỡi bức tường tô trắng kia, Đức Chúa Trời sẽ đánh ông; ông ngồi để xử đoán tôi theo luật pháp mà lại không kể luật pháp, biểu người đánh tôi "(Công 23:1-3).

Phao Lô đã viện đến uy quyền của Kinh Thánh bằng cách cho Anania biết rằng Kinh Thánh có uy quyền hơn Anania cho dù ông là một quan tòa.

"Những kẻ đứng đó nói rằng: ngươi nhiếc móc thầy cả thượng phẩm của Đức Chúa Trời sao? PhaoLô (xin lỗi và) trả lời rằng: Hỡi anh em, tôi chẳng biết là thầy cả thượng phẩm, vì có chép rằng: Chớ sỉ nhục người cai trị dân mình "(23:4, 5).

Bằng lời xin lỗi của mình đối với thầy cả thượng phẩm (dựa trên lời cảnh cáo của Kinh Thánh), Phao Lô chứng tỏ mình trong cương vị một sứ đồ cũng phải chịu lệ thuộc dưới Kinh Thánh.

Chúng ta hãy suy xét kỹ sự kiện này. PhaoLô đang bào chữa cho mình. Thầy cả thượng phẩm vô cùng tức giận và ra lệnh vả miệng PhaoLô.

PhaoLô vì không biết Anania là thầy cả thượng phẩm, nên đã gọi ông là "bức tường tô trắng ". Việc ông bị thầy cả thượng phẩm vả vào mặt là trái với Kinh Thánh. Vì vậy, trong trường hợp này PhaoLô hoàn toàn đúng vì Kinh Thánh có uy quyền hơn bất cứ chức vụ nào cho dù là trong quân đội, chính trị hoặc tôn giáo.

Tuy nhiên khi PhaoLô được cho biết rằng ông đã nhiếc móc thầy cả thượng phẩm thì ông lập tức xin lỗi.

Tại sao vậy? Bởi vì Kinh Thánh dạy rằng ông không được"...sỉ nhục người cai trị dân mình ". Vị sứ đồ đã chịu phục Kinh Thánh.

Mặc dù thầy cả thượng phẩm là người có uy quyền cao trong phòng xử án, thì uy quyền của sứ đồ hoặc uy quyền của thầy cả thượng phẩm cũng không thể bằng uy quyền của Lời Đức Chúa Trời.

Qua hành động này PhaoLô đã chứng tỏ một cách rõ ràng rằng uy quyền của Kinh Thánh cao hơn uy quyền của sứ đồ hay uy quyền của thầy tế lễ thượng phẩm.

Đức Chúa Trời không ban cho người nào uy quyền cao hơn uy quyền của Kinh Thánh hoặc bằng với chính mình Ngài. Đức Chúa Trời cũng không ban cho người nào quyền hạn để áp đặt lương tâm của kẻ khác và đòi hỏi người khác phải luôn luôn vâng phục mình.

Mọi uy quyền đều phải được xem xét trong ánh sáng của Lời Đức Chúa Trời.

3. Nan đề 3: Đặt Thông Lệ Và Truyền Thống Lên Trên Uy Quyền Của Kinh Thánh.

Thật là một lỗi lầm hết sức nghiêm trọng khi giữ một thông lệ hay một truyền thống tôn giáo trái với Lời của Đức Chúa Trời.

Tin lành Mathiơ chép rằng: "...còn các ngươi sao cũng vì cớ lời truyền khẩu mình mà phạm điều răn của Đức Chúa Trời? "(Mat 15:3).

Đức Chúa Jêsus đã chỉ ra rằng các nhà lãnh đạo tôn giáo trong thời của Ngài đã đưa ra những thông lệ và đặt nó lên trên cả Kinh Thánh. Vì vậy, Ngài gọi họ là những kẻ giả hình.

Tin lành theo Mác đã ký thuật những lời của Chúa Jêsus như sau: "...Chúng nó dạy theo những điều răn mà chỉ bởi người ta đặt ra. Các ngươi bỏ điều răn của Đức Chúa Trời, mà giữ lời truyền khẩu của loài người...

"...Các ngươi bỏ hẳn điều răn của Đức Chúa Trời, đặng giữ theo lời truyền khẩu của mình. Vì Môise có nói: Hãy tôn kính (lo lắng, nuôi nấng) cha mẹ ngươi... nhưng các ngươi nói rằng: Mọi điều tôi sẽ giúp cha mẹ được, thì đã co- ban (nghĩa là dâng cho Đức Chúa Trời).Vậy người ấy không được phép giúp cha mẹ mình gì nữa; dường ấy, các ngươi giữ lời truyền khẩu mình lập ra mà bỏ mất Lời Đức Chúa Trời... "(Mác 7:7-13).

Kinh Thánh đòi hỏi rằng:"Hãy tôn kính (lo lắng, nuôi nấng) cha mẹ ngươi... "(Xuất 20:12). Vì luật pháp theo lời truyền khẩu của người Do Thái là: "Nếu ngươi dùng số tiền để lo lắng cho cha mẹ mà dâng vào đền thờ, thì ngươi không cần phải làm theo điều răn của Kinh Thánh về việc chăm sóc cha mẹ ngươi nữa".

Bởi lời truyền khẩu họ đã lừa gạt không cung cấp nhu cầu cần dùng cho cha mẹ mình. Họ biện hộ rằng tiền thuộc về cha mẹ đã dâng vào đền thờ.

"...Sự chúng nó thờ lạy ta là vô ích, vì chúng nó dạy theo những điều răn mà chỉ bởi người ta đặt ra ".(Mat 15:1-9).

Ngày nay chúng ta vẫn đang làm như vậy khi chúng ta đặt những thông lệ hoặc truyền thống của Hội Thánh chúng ta lên trên Kinh Thánh. Chúng ta dễ quên rằng những thông lệ hoặc truyền thống chỉ có giá trị nếu chúng không trái với Kinh Thánh. Những thông lệ hoặc truyền thống (cho dù nó đã có bao nhiêu thế kỷ), nếu trái với Kinh Thánh, đều phải bị dứt bỏ.

Không được thêm bất cứ điều gì vào công cuộc cứu rỗi của Đấng Christ trên thập tự giá.

Trước đây vài năm tôi đã quay được một đoạn phim về một buổi Lễ Thương Khó Phục Sinh ở một quốc gia kia.

Những "Cơ Đốc Nhân " tự hành hạ mình đã dùng những mảnh thủy tinh nhọn để rạch lưng của họ cho đến khi máu chảy ra. Họ đội lên đầu những chiếc mão gai và lê bước hàng trăm dặm dưới ánh mặt trời nhiệt đới và dùng roi quất vào thân mình.

Buổi lễ kết thúc tại một cánh đồng rộng lớn nơi mà một số người bị đóng đinh xuyên qua bàn tay của họ vào những cây thập tự và treo lên.

Một người trong số họ dường như thuộc loại bị quỷ ám khi người ta đỡ ông ta xuống và đem vào một ngôi nhà gần đó. (Thật là một cú sốc khủng khiếp, tôi không thể nói được tiếng nào). Ông ta hét lên và đánh đập loạn xạ.

Tất cả điều này xảy ra trong sự chúc phước của những người lãnh đạo giáo hội của họ, và cũng trong sự xúc phạm Kinh Thánh cách trắng trợn.

PhaoLô đã cảnh cáo những người tự cắt thân thể mình trong Tân ước rằng:

"Nếu anh em chịu phép cắt bì (cắt thân thể),thì Đấng Christ không bổ ích chi cho anh em hết... Anh em đều đã... lìa khỏi Đấng Christ, mất ân điển rồi "(Ga 5:2-4).

Chúng ta lạc mất ân điển bởi sự cố gắng đạt được phần thưởng hoặc phước hạnh qua công việc hay sự công bình của chính chúng ta. Khi làm như vậy, chúng ta ám chỉ rằng công cuộc cứu rỗi của Đấng Christ trên thập tự giá vẫn chưa đủ và chúng ta phải thêm vào đó việc lành của chính chúng ta để được cứu hay được phước. Điều này không tôn vinh thập tự giá nhưng sỉ nhục thập tự giá.

Khi những điều này mang tính cách tôn giáo (hoặc thuộc linh), chúng đang can thiệp vào công việc của Đức Thánh Linh trong việc làm cho chúng ta nên trọn vẹn.

Tôi không nghi ngờ sự thành tâm của những người giữ thánh tích, đốt hương cầu nguyện với các vị thánh cũng như một thông lệ khác mà nó không có một uy quyền hoặc phước hạnh nào trong Kinh Thánh. Họ rất thành tâm, thành tâm như những người tự quất mình trong buỗi lễ Thương Khó Phục Sinh kia.

PhaoLô đã đưa ra lời cảnh cáo nghiêm khắc cho những người như vậy rằng:

"Nguyền cho những kẻ gieo sự rối loạn trong anh em, thà họ tự chặt mình là hơn "(5:12).

Phao Lô vô cùng bối rối bởi vì những thông lệ của người Giuđa được áp đặt cả cho những tín hữu ngoại bang. Tất cả những đầy tớ chân thật của Đức Chúa Trời phải ghi nhớ thư tín của ông gởi cho những tín hữu tại Galati và những lời cảnh cáo long trọng trong đó.

Tôi kêu gọi tất cả những người nam và những người nữ của Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi hãy từ bỏ những thông tục không theo Kinh Thánh.

Hãy thuận phục uy quyền của Đức Chúa Trời và Lời của Ngài (Kinh Thánh). Đừng để cho bất cứ uy quyền nào bắt anh em phải giữ theo những thông lệ trái với Kinh Thánh.

Đức Thánh Linh đã ở với bạn và bạn đã từng đứng đối diện với Chúa. Nhưng bây giờ, dưới áp lực của những người lãnh đạo tôn giáo, bạn đang quay lưng lại với những gì Đức Thánh Linh phán với bạn. Đừng làm như vậy. Hãy nắm lấy lẽ thật của Đức Chúa Trời và lời của Ngài và bạn sẽ được Đức Chúa Trời chúc phước và thừa nhận.

"Vậy tôi nói rằng: Hãy bước đi theo Thánh Linh... "(5:16).

A3.3 NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO XỨNG ĐÁNG NOI THEO

 

Dẫn nhập

Một quốc gia (hay một Hội Thánh) sẽ phải chịu chung một số phận với những người lãnh đạo mà họ đã chọn lựa. Cựu ước đã minh chứng điều này. Những ai không chấp nhận và đi theo sự lãnh đạo của những người được Đức Chúa Trời lập nên đều phải chịu chung một số phận với những người lãnh đạo ngu dại và phóng đảng mà họ đã lựa chọn.

Êsai đã nói rằng: "Ngài lật đổ mặt đất và làm tan lạc dân cư thầy tế lễ như chúng dân... "(Ês 24:2).

"Những kẻ tiên tri nói tiên tri dối, các thầy tế lễ bởi đó mà cầm quyền! Dân ta đều lấy làm ưa thích "(Giê 5:31).

Lưu ý rằng vấn đề này có hai phương diện. Phương diện thứ nhất là NGƯỜI LÃNH ĐẠO (tiên tri và thầy tế lễ), và phương diện thứ hai là DÂN SỰ. Không phải những người lãnh đạo mới chịu trách nhiệm với Đức Chúa Trời mà cả "những người ưa thích họ" nữa. Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt dân sự nếu họ đi theo những người lãnh đạo giả.

Đức Chúa Trời không chỉ lên án những kẻ bán trong đền thờ mà Ngài còn lên án những người mua nữa. Nếu tôi dâng tiền bạc cho những người lãnh đạo nào đó để họ cầu nguyện cho tôi, thì tôi cũng như những người đó, phải chịu trách nhiệm với Đức Chúa Trời vì nghĩ rằng tôi có thể dùng tiền bạc để mua ân tứ của Đức Chúa Trời (Công 8:18-23).

A. CHÚNG TA CÓ TRÁCH NHIỆM PHẢI PHÂN BIỆT NGƯỜI LÃNH ĐẠO CHÂN THẬT

Bởi vì hết thảy chúng ta đều phải khai trình với Đức Chúa Trời, nên chúng ta phải nhận thức được trách nhiệm của chúng ta trong việc phân biệt người lãnh đạo chân thật đáng cho chúng ta noi theo.

1. Một Hội Thánh Hoặc Một Quốc Gia Dấy Lên Hay Sụp Đổ Là Do Người Lãnh Đạo.

Tiên tri Giêrêmi chỉ ra rằng: "Nhiều kẻ chăn chiên đã phá hoại vườn nho ta, giày đạp sản nghiệp ta dưới chơn, làm cho chỗ đất vui thích của ta thành ra rừng hoang.

"Người ta đã làm cho đất ấy ra hoang vu; nó bị phá hại, than thở trước mặt ta. Cả xứ đều hoang vu, vì chẳng có ai để vào lòng "(Giê 12:10, 11).

Đức Chúa Trời đã dùng những tiên tri để nói về những người lãnh đạo tôn giáo của dân Do Thái. Họ đã ngược đãi dân sự và đem sự huỷ diệt đến cho đất nước.

Người lãnh đạo mà bạn theo sẽ cai trị bạn. Bạn sẽ được dấy lên hay vấp ngã tùy thuộc vào người lãnh đạo mà bạn theo.

2. Sự Tăng Trưởng Tâm Linh Bị Hạn Chế Bởi Người Lãnh Đạo.

Hỡi những người lãnh đạo Hội Thánh! Hầu hết Cơ Đốc Nhân sẽ không tăng trưởng tâm linh vượt quá mức độ trưởng thành thuộc linh của các bạn. Đức Chúa Trời ban cho bạn vai trò lãnh đạo để làm gương cho họ noi theo.

Bàn về trách nhiệm của người lãnh đạo với Timôthê, PhaoLô viết: "Người cày ruộng đã khó nhọc thì trước nhất được thâu hoa lợi "(ITi 2:6).

Điều này có nghĩa là trước khi người lãnh đạo kêu gọi tín hữu cầu nguyện, họ phải cầu thay cho tín hữu trước. Nếu họ muốn tín hữu tận tâm cho công việc Chúa, họ phải tận tâm trước nhất. Họ phải trước nhất có được trái mà họ muốn tín hữu tham gia.

a. Dân Ysơraên Bị Hình Phạt Lang Thang Trong Đồng Vắng.

Bạn có nhớ dân Ysơraên đã ở trong đồng vắng không? Chính người lãnh đạo đã ngăn cản dân sự được vào đất hứa.

Khi Đức Chúa Trời kêu gọi họ ra khỏi Ai Cập, Ngài định rằng họ sẽ vào Canaan sau bốn mươi ngày. Một người đi bộ nhanh có thể đi bộ từ Ai cập vào đất hứa trong một tuần, nhưng họ phải đi mất bốn mươi năm. Tại sao? Đó là bởi vì những người lãnh đạo.

Mỗi người lãnh đạo được chọn ra từ mười hai chi phái sẽ đi do thám miền đất hứa và đem về bản báo cáo (Dân 13:2-17).

Trong mười hai người chỉ có Giôsuê và Calép trở về với bản báo cáo tốt lành. Mười người kia không tin rằng Đức Chúa Trời sẽ làm điều Ngài đã hứa. Bởi vì khiếp sợ những người giềnh giàng trong xứ Canaan, mười người lãnh đạo này đã đem về bản báo cáo gian ác, bản báo cáo phá hủy lời hứa Đức Chúa Trời.

Điều gì đã xảy ra cho 2.500.000 người đã nghe theo sự từ chối lời hứa của Đức Chúa Trời họ?

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng: "Trong mọi người đã thấy sự vinh quang ta, phép lạ ta đã làm tại xứ Êdíptô và nơi đồng vắng, là các ngươi đã thử ta mười lần và đã không nghe lời ta, thì chẳng một ai sẽ thấy xứ mà ta đã thề hứa cho tổ phụ chúng nó. Chẳng ai mà đã khinh ta sẽ thấy xứ đó đâu "(Dân 14:22, 23).

Những người lãnh đạo này đã định đoạt số phận của hai triệu rưỡi người. Họ bị trừng phạt phải đi lang thang trong đồng vắng bốn mươi năm. Kế hoạch của Đức Chúa Trời là đem họ vào những phước hạnh mới đã bị phá hủy.

Bạn có thấy chức vụ lãnh đạo rất quan trọng không? Bây giờ bạn đã nhận ra rằng việc chọn lựa một người lãnh đạo xứng đáng là hết sức cần thiết chưa?

B. LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÂN BIỆT NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO TIN KÍNH VÀ NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO GIAN ÁC

1. Họ Vươn Đến Trách Nhiệm Hay Uy Quyền.

Một người lãnh đạo tin kính là người tìm kiếm trách nhiệm. Một người lãnh đạo gian ác là người tìm kiếm uy quyền.

a. Người Lãnh Đạo Tin Kính Tìm Kiếm Trách Nhiệm.

Sứ đồ Phao Lô viết: "Vả, tôi mong rằng nhờ ơn Đức Chúa Jêsus, kíp sai Timôthê đến cùng anh em, để tới phiên tôi, tôi nghe tin anh em mà được yên lòng. Thật vậy tôi không có ai như người đồng tình với tôi để thật lòng lo về việc anh em.

"Ai nấy đều tìm lợi riêng của mình, chớ không tìm lợi của Đức Chúa Jêsus Christ. Nhưng anh em đã biết trước sự trung tín từng trãi của người; và biết người trung thành với tôi về việc Tin Lành, như con ở với cha vậy "(Phil 2:19-23).

Timôthê mang trách nhiệm là lo lắng cho Hội Thánh. Ông không tìm kiếm lợi riêng cho mình nhưng tìm kiếm những người hư mất. Ông không tìm kiếm địa vị phù phiếm hay thanh thế cho mình, nhưng tìm kiếm cơ hội để phục vụ và gánh lấy trách nhiệm cho công việc của Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài.

Phao Lô đã nói lên những lời đáng buồn này: "Tôi không có ai như người đồng tình với tôi để thật lòng lo về việc anh em. Ai nấy điều tìm lợi riêng mình, chớ không tìm lợi của Đức Chúa Jêsus Christ". Đáng buồn làm sao, PhaoLô chỉ có một người lãnh đạo Hội Thánh mà ông có thể tin cậy giao phó công việc Hội Thánh, là người đặt công việc Chúa lên trên lợi riêng mình.

b. Những Người Lãnh Đạo Gian Ác Tìm Kiếm Uy Quyền.

Sứ đồ Phierơ cảnh cáo những người lãnh đạo có thể bị cám dỗ vươn đến uy quyền rằng: "Chẳng phải quản trị phần trách nhiệm chia cho anh em, song để làm gương tốt cho cả bầy "(IPhi 5:2, 3).

Sứ điệp của Phierơ rất rõ ràng. Chức vụ lãnh đạo không phải là cai trị. Người lãnh đạo thuộc linh phải tự ý gánh lấy trách nhiệm chăm lo cho bầy của Đức Chúa Trời như người chăn chiên lo cho bầy chiên."Hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời đã giao phó cho anh em, làm việc đó chẳng phải bởi ép tình, bèn là bởi vui lòng, chẳng phải vì lợi dơ bẩn, bèn là hết lòng mà làm "(5:2, 3)

Đức Chúa Trời không lập những người lãnh đạo Hội Thánh lên để họ sử dụng uy quyền trên Hội Thánh.

c. Hai Tấm Gương.

1) Điôtrép:

Người Lãnh Đạo Tồi. Sứ đồ Giăng viết rằng:"Tôi đã viết mấy chữ cho Hội Thánh rồi, nhưng Điôtrép là kẻ ưng đứng đầu Hội Thánh không muốn tiếp rước chúng ta ". Đây là người lãnh đạo đang muốn vươn đến uy quyền bởi vì thanh thế thường đi kèm với uy quyền. Vì vậy sứ đồ Giăng cảnh cáo rằng: "Cho nên, nếu tôi đến, tôi sẽ bới việc xấu người làm, là lấy lời luận độc ác mà nghịch cùng chúng ta. Điều đó còn chưa đủ, người lại không tiếp rước anh em nữa, mà ai muốn tiếp rước thì người lại ngăn trở và đuổi ra khỏi Hội Thánh... "(IIIGi 3Ga 1:8,10).

Bạn đã bao giờ bị cấm đoán không được có mối quan hệ với anh em ở những Hội Thánh khác, và nếu bạn làm như vậy thì bạn bị bảo là không trung thành chưa?

Nên nhớ rằng sự trung thành của chúng ta trước nhất là đối với Đức Chúa Trời và lời của Ngài (Kinh Thánh). Sau đó, chúng ta trung thành với tất cả những tín hữu đã được tái sanh, cho dù người đó là người Công giáo, Tin Lành hay Ngũ tuần. Chúng ta cũng phải trung thành với người lãnh đạo Hội Thánh của chúng ta. Nếu họ không đòi hỏi chúng ta trái mạng lịnh của Chúa, hoặc lời của Ngài, hoặc giảm đi mối thông công, giúp đỡ với anh em trong đức tin, chúng ta có thể theo họ.

Nếu một người lãnh đạo bảo bạn không thể có mối thông công với anh em ngoài Hội Thánh của bạn, bạn đang đối đầu với "linh Điôtrép ". Đây là linh không tiếp rước anh em. Nếu bạn vi phạm sự hạn chế của họ, thì loại người lãnh đạo này sẽ tìm cách dứt phép thông công bạn khỏi Hội Thánh.

Giăng đã khuyên bảo những Cơ Đốc nhân làm gì với vấn đề này? "HỠI KẺ RẤT YÊU DẤU, CHỚ BẮT CHƯỚC ĐIỀU DỮ NHƯNG HÃY BẮT CHƯỚC ĐIỀU LÀNH... "

Bạn không bị bắt buộc phải theo một người lãnh đạo dữ. Khi một người lãnh đạo bắt đầu giành giựt uy quyền thì hãy cắt đứt mối liên hệ với người đó. Hãy cầu xin Đức Chúa Trời khiển trách người đó ăn năn.

Một trong những cách mà Đức Chúa Trời sửa trị một người lãnh đạo lầm lỗi là khi những tín hữu khác không còn theo người đó nữa. "NHƯNG BẮT CHƯỚC ĐIỀU LÀNH, ai làm điều lành là thuộc về Đức Chúa Trời; còn kẻ làm dữ chẳng hề thấy Đức Chúa Trời "(1:12).

2) Đêmêtriu:

Người Lãnh Đạo Tốt. Đức Chúa Trời cho chúng ta một sự lựa chọn người lãnh đạo trong thân thể của Đấng Christ. Sứ đồ Giăng đã ca ngợi Đêmêtriu là một người lãnh đạo đáng theo. "Mọi người đều làm chứng tốt cho Đêmêtriu, và chính lẽ thật cũng chứng cho... "(1:12).

Chúng ta được quyền chọn lựa để theo người lãnh đạo tốt và từ bỏ người lãnh đạo tồi. Đừng theo những người lãnh đạo đang vươn đến uy quyền và tìm cách cai trị những người xung quanh họ.

2. Họ Nuôi Dưỡng Bầy Hay Hớt Lông Bầy?

Một người lãnh đạo tốt quan tâm đến việc NUÔI DƯỠNG bầy. Còn người lãnh đạo tồi thì quan tâm đến việc hớt lông bầy.

a. Những Người Lãnh Đạo Tin Kính Nuôi Dưỡng Bầy.

Giêrêmi là một tiên tri cho các người lãnh đạo Hội Thánh. Ông biết rằng Đức Chúa Trời đã phán hứa: "...Ta sẽ ban các kẻ chăn giữ vừa lòng ta cho các ngươi, các kẻ ấy sẽ lấy sự sáng suốt khôn ngoan mà chăn nuôi các ngươi "(Giê 3:15).Nếu bạn đúng là người lãnh đạo vừa lòng Đức Chúa Trời, điều quan tâm trước nhứt của bạn sẽ là nuôi dưỡng bầy.

Đức Chúa Trời tiếp tục hứa rằng: "Ta sẽ nhóm những con sót lại của bầy ta, từ các nước mà ta đã đuổi chúng nó đến. Ta sẽ đem chúng nó trở về trong chuồng mình; chúng nó sẽ sanh đẻ thêm nhiều. Ta sẽ lập lên những kẻ chăn nuôi chúng nó; thì sẽ chẳng sợ hãi nữa, và không thiếu một con nào, Đức Giê-hô-va phán vậy "(23:3, 4).

Những người lãnh đạo nuôi dưỡng bầy là những người lãnh đạo mà chúng ta muốn đi theo.

b. Những Người Lãnh Đạo Gian Ác Hớt Lông Bầy.

Giêrêmi xem đây là công việc của những lãnh đạo chạy việc, ông đã quở trách họ. Chúng ta được hướng dẫn tránh xa những người lãnh đạo ngược đãi bầy.

"Vì không có kẻ chăn thì chúng nó tan lạc; đã tan lạc thì chúng nó trở nên mồi cho hết thảy loài thú ngoài đồng. "

"Những chiên ta đi lạc trên mọi núi và mọi đồi cao, những chiên ta tan tác trên cả mặt đất, chẳng có ai kiếm, chẳng có ai tìm.

"Vậy nên, hởi kẻ chăn, hãy nghe lời Đức Giê-hô-va phán rằng: Thật như ta hằng sống, vì tại không có kẻ chăn, nên những chiên ta đã làm mồi, và đã trở nên đồ ăn của mọi loài thú ngoài đồng, những kẻ chăn của ta cũng không tìm kiếm chiên ta, nhưng chúng nó chỉ nuôi mình mà không chăn nuôi chiên ta. Vì cớ đó, hỡi kẻ chăn, hãy nghe lời Đức Giê-hô-va: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta nghịch cùng những kẻ chăn đó, ta sẽ đòi lại chiên của ta nơi tay chúng nó, ta không để cho chúng nó chăn chiên ta nữa, và chúng nó cũng không thể tự chăn nuôi lấy mình nữa; nhưng ta sẽ móc chiên ta ra khỏi miệng chúng nó, hầu cho chiên không làm đồ ăn cho chúng nó "(Êxê 34:1-10).

Vài năm trước đây, tôi đã nghe một người lãnh đạo tôn giáo nổi tiếng giảng về mối liên hệ tương xứng giữa Mục sư và tín đồ.

Ông tin rằng người tín hữu tồn tại là để phục vụ người lãnh đạo. Tôi nhớ chính xác lời của ông rằng: "khi tôi cần quét vôi lại ngôi nhà, tôi chỉ cần gọi một vài người trong bầy của tôi đến và họ quét vôi ngôi nhà cho tôi. Khi tôi cần thu hoạch mùa màng, tôi chỉ cần gọi một vài người trong bầy của tôi và họ đến thu hoạch lúa cho tôi ".

Tôi thật khó thể tin rằng một người biết rõ đường lối của Đức Chúa Trời và bước đi trong nẻo của Ngài như ông lại có thể nói rằng bầy tồn tại là để phục vụ ông hơn là ông tồn tại để phục vụ bầy.

Đức Chúa Trời phán lớn và rõ ràng rằng: "HÃY TRÁNH XA NHỮNG LOẠI NGƯỜI LÃNH ĐẠO NHƯ VẬY... những người đó chỉ hớt lông chiên, dùng chiên để phục vụ cho những nhu cầu của chính họ.

Tiên tri MiChê đã cho thấy cả những người lãnh đạo chính trị lẫn những người lãnh đạo thuộc linh đã đồi bại như thế nào:"Các ngươi lấy huyết xây thành Siôn, và lấy sự gian ác xây thành Giêrusalem. Các quan trưởng xét đoán vì của hối lộ, các thầy tế lễ dạy dỗ vì tiền công, còn các kẻ tiên tri nói tiên tri vì bạc "(Mi 3:10, 11).

Những người lãnh đạo trong thời Michê chỉ phục vụ cho một điều, tiền bạc. Hãy coi chừng tiền bạc trở thành động cơ và nỗi bận tâm của người lãnh đạo. Lòng tham tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác và bất cứ khi nào tiền bạc trở thành động cơ của mong muốn nắm giữ vai trò lãnh đạo, thì sự hủy diệt sẽ lập tức theo sau.

Tiên tri Michê còn cho biết thêm: "...rồi chúng nó nương cậy Đức Giê-hô-va mà rằng: Đức Giê-hô-va há chẳng ở giữa chúng ta sao? Tai vạ sẽ chẳng đến trên chúng ta. Vậy nên, vì cớ các ngươi, Siôn sẽ bị cày như ruộng, Giêrusalem sẽ trở nên như đống đổ nát "(câu 11,12)

Đức Chúa Trời phán rằng nếu chúng ta cho phép những người lãnh đạo giả dối cứ ở trong quyền lực thì cả những người lãnh đạo và dân sự sẽ bị ném vào sự hủy diệt. Đức Chúa Trời sẽ phán xét cả quốc gia bởi vì lỗi lầm của những người lãnh đạo.

Chúng ta phải từ chối không theo những người lãnh đạo hớt lông chiên. "Hỡi những kẻ rất yêu dấu, chớ bắt chước (theo: follow) điều dữ... "(IIIGi 3Ga 1:11)

Chúa Jêsus Thiết Lập Sự Thẩm Định Phẩm Chất. Chúa Jêsus thiết lập sự thẩm định phẩm chất cho những người lãnh đạo khi Ngài phán rằng:

"Kẻ chăn thuê chẳng phải là người chăn, và chiên không thuộc về nó, nếu thấy muông sói đến, thì nó bỏ chiên chạy trốn, muông sói cướp lấy chiên và làm cho tản lạc. Ấy vì nó là kẻ chăn thuê, chẳng lo lắng chi đến chiên "(Giăng 10:12-13).

Kẻ chăn thuê lo lắng về điều gì? Tiền công (tiền bạc). Đó là động cơ duy nhất của kẻ chăn thuê. Kẻ chăn thuê không chăm lo cho chiên. Họ chỉ quan tâm đến việc kiếm lợi từ những con "chiên câm ". Đó là thái độ của kẻ chăn thuê.

Người chăn thật thì lo lắng cho chiên, bỏ sự sống mình vì chiên, và nếu cần thiết, họ có thể chịu đói, khát để nhìn thấy bầy chiên được no đủ. Họ không bao giờ căn cứ trên việc lương nhiều hay ít, chức vụ cao hay thấp.

Điều này không có nghĩa là người chăn chiên thật và trung tín không có quyền hưởng sự tài trợ về tài chánh.

Kinh Thánh đã dùng một hình ảnh ngụ ngôn để dạy chúng ta phải có bổn phận lo về mặt tài chánh cho người chăn thật."Chớ khớp miệng con bò đang đạp lúa, " Kinh Thánh cho phép nó có quyền ăn những bông lúa nó đang đạp.

Bằng cách này, Đức Chúa Trời dạy chúng ta rằng những người lãnh đạo Hội Thánh phải được lo về mặt tài chánh. Tuy nhiên, nếu con bò ăn hết thảy mọi thứ nó đang đạp, thì sự chọn lựa duy nhất của người nông dân là khớp miệng nó hoặc thay con bò khác.

d. Satan Cám Dỗ Những Người Lãnh Đạo.

Đây là những điều khó nói, nhưng chúng ta sẽ vô cùng xao lãng nếu không chỉ ra bốn điều mà SaTan dùng để cám dỗ những người lãnh đạo:

1) Tham mê tiền bạc

2) Tham mê địa vị.

3) Tham mê quyền lực (kiêu ngạo), và

4) Tham mê đàn bà (tà dâm).

Chỉ có ân điển của Đức Chúa Trời mới giữ người lãnh đạo không trở thành nạn nhân của một hoặc hơn trong bốn tội này.

Người lãnh đạo phải thường xuyên cầu nguyện và kiểm tra cẩn thận động cơ của mình, rồi hãy để cho Đức Thánh Linh chiếu rọi vào những chỗ cần phải ăn năn. Kết quả là người đó sẽ chiến thắng mọi cám dỗ.

Satan sẽ vào bằng những cánh cửa của những động cơ sai lầm bất khiết, và bắt giam người lãnh đạo. Điều này càng nhấn mạnh sự cần thiết của việc bảo vệ người lãnh đạo bằng sự cầu nguyện và cầu thay.

Chúng ta được hướng dẫn phải cầu nguyện cho hết thảy mọi uy quyền, bao gồm cả uy quyền thuộc linh và uy quyền của đời này."Vậy trước hết mọi sự ta dặn rằng: Phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho... hết thảy các bậc cầm quyền... "(ITi 2:1, 2).

3. Họ Tập Họp Hay Làm Tản Lạc Bầy?

Hãy theo những người lãnh đạo tập họp bầy. Hãy tránh những người lãnh đạo làm tản lạc bầy.

a. Những Người Lãnh Đạo Tin Kính Tập Họp Bầy.

"Nầy Đức Giê-hô-va đã lấy quyền năng mà đến... Ngài sẽ chăn bầy mình như người chăn chiên, THÂU (tập họp) các con chiên con vào cánh tay mình và ẵm vào lòng, từ từ (nhẹ nhàng) dắt các con chiên cái đang cho bú "(Ês 40:10, 11).

Đó là hình ảnh của người chăn thật - là người tập họp các con chiên. Đức Chúa Trời muốn chúng ta theo những người lãnh đạo quên mình để tập họp bầy. Hãy lưu ý rằng: Thái độ của những người đó là tập hợp cách nhẹ nhàng. Những người lãnh đạo thật của Đức Chúa Trời là những người hiền từ.

Đavít, người chăn chiên vĩ đại của Ysơraên nói rằng: "Sự hiền từ Chúa đã làm tôi sang trọng "(Thi 18:35). Hiền từ và khiêm tốn không phải là sự yếu đuối.

Người ta nói về Chúa Jêsus của chúng ta rằng: "Người chẳng bẻ cây gậy đã dập và chẳng dụt tim đèn còn hơi cháy... "(Ês 42:3). Tại sao vậy?

Ngài là một người chăn chiên hiền lành. Nếu Ngài thấy một người đang bị thương tích, Ngài sẽ chữa lành. Nếu Ngài thấy một người đang chiến đấu cho chức vụ của mình, Ngài sẽ đến để quạt lên tim đèn còn hơi cháy (là kết quả của những cố gắng thật tâm) cho đến khi nó cháy sáng lên trong lẽ thật và sự thánh khiết.

Chúa Jêsus làm cho những cố gắng yếu ớt của chúng ta trong chức vụ trở nên mạnh mẽ.

Nhiều người đang thành tâm chiến đấu để bộc lộ ân tứ của họ. Họ là những tim đèn còn hơi cháy. Người lãnh đạo không nên dập tắt họ, nhưng phải thổi lên để họ trở thành những ngọn lửa bùng cháy. Đó là ý nghĩa của chức vụ lãnh đạo hiền lành. Đây là loại người chăn tập họp bầy chiên.

b. Những Người Lãnh Đạo Gian Ác Làm Tản Lạc Bầy.

Nói theo cách khác có những người lãnh đạo tồi chỉ làm tản lạc bầy. Chúa phán về họ rằng: "Khốn thay cho những kẻ chăn (Mục sư) hủy diệt và làm tan lạc bầy chiên của đồng cỏ ta. Vậy nên, về những kẻ chăn giữ dân Ngài (Mục sư),thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của dân Ysơraên phán như vầy: Các ngươi làm tan lạc bầy chiên ta, đã đuổi đi và không thăm nom đến; nầy ta sẽ thăm phạt các ngươi về những việc dữ mình làm, Đức Giê-hô-va phán vậy. (Giê 23:1, 2).

Người chăn chiên thật tập họp bầy, còn những người chăn giả thì làm cho tản lạc, gây xáo trộn và chia rẽ, chúng ta phải tránh xa loại người lãnh đạo này.

4. Họ Có Thừa Nhận Quyền Của Đức Chúa Trời Trên Chiên Hay Không?

Người lãnh đạo tốt sẽ thừa nhận uy quyền của Đức Chúa Trời đối với chiên.

Người lãnh đạo tồi sẽ tuyên bố rằng chiên thuộc về mình.

a. Những người lãnh đạo gian ác tuyên bố chiên thuộc về họ.

Người chăn giả tuyên bố rằng chiên thuộc về họ và đưa ra quyền đòi hỏi trên chiên. Kinh Thánh không hề nói đến điều này, nhưng ngược lại, Kinh Thánh tuyên bố rõ ràng rằng chiên chỉ thuộc về một mình Đức Chúa Trời, chứ không thuộc về một người chăn chiên thứ (under shepher) nào cả.

b. Những Người Lãnh Đạo Tin Kính Nhận Biết Chiên Thuộc Về Đức Chúa Trời.

Kinh Thánh tuyên bố:"...chúng tôi (chúng ta) là dân sự (CỦA) NGÀI, là bầy chiên (CỦA) đồng cỏ NGÀI "(Thi 100:3),và Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ CỦA tôi... "(Thi 23:1).

Chúng ta đọc thấy lời tiên tri liên quan đến Chúa Jêsus rằng: "Ta sẽ lập trên chúng nó chỉ một kẻ chăn, người sẽ chăn chúng nó, tức là Đavít, tôi tớ ta... chúng nó sẽ biết ta, Đức Giê-hô-va là Đức CHúa Trời chúng nó, ở cùng chúng nó, và biết nhà Ysơraên chúng nó là dân (CỦA) TA, Chúa Giê-hô-va phán vậy. Các ngươi là chiên CỦA TA, là chiên CỦA đồng cỏ TA; các ngươi là loài người, và ta là Đức Chúa Trời các ngươi, Chúa Giê-hô-va phán vậy... "(Êxê 34:23, 30, 31).

Đức Chúa Trời có quyền trên chiên, chúng thuộc về một mình Ngài và Ngài muốn chúng ta biết điều đó. Họ không thuộc về bất cứ người lãnh đạo Hội Thánh nào hay giáo phái nào, họ chỉ thuộc về Đức Chúa Trời.

PhaoLô nhắc nhở chúng ta: "Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời "(ICôr 6:20). Chúa Jêsus đã mua chuộc chúng ta, chúng ta không còn thuộc riêng về mình nữa, nhưng chúng ta thuộc về Ngài; Vì vậy chúng ta phải làm sáng danh Ngài bằng thân thể đang thuộc về Ngài của chúng ta.

Ngài đặt quyền của Ngài trên chúng ta và đánh dấu của Ngài trên chúng ta. Không ai có quyền đánh dấu trên những con chiên đã được đánh dấu.

PhaoLô viết: "Trong mình tôi có đốt dấu vết của Đức Chúa Jêsus vậy "(Ga 6:17). Phaolô vui mừng vì ông không mang dấu của ai ngoại trừ dấu của Đức Chúa Jêsus. Ông muốn được tự do đối với hết thảy mọi người, để ông có thể trở thành tôi tớ của hết thảy mọi người (ICôr 9:19). Đó là cách mà Đức Chúa Trời muốn dân sự Ngài làm như vậy.

Người chăn thật là người nhận biết quyền của Đức Chúa Trời. Còn những ai mong muốn cầm quyền trên chiên của Đức Chúa Trời là những người chăn giả.

c. Đức Chúa Trời Lập Những Người Chăn Thứ.

Hãy nhớ rằng: ý muốn của Đức Chúa Trời là muốn chúng ta ở trong một Hội Thánh và có một người lãnh đạo Hội Thánh tốt. Hơn nữa, chúng ta phải trung tín tham gia thờ phượng và cầu nguyện, phục vụ và dâng hiến cho những mục đích và mục tiêu của cộng đồng đó.

Đức Chúa Trời lập lên những người chăn chiên thứ (under-shepher) nhưng chúng ta không thuộc về họ, chúng ta thuộc về Đấng chăn chiên trưởng. Sứ đồ Phierơ viết: "Khi ĐẤNG LÀM ĐẦU CÁC KẺ CHĂN CHIÊN hiện ra, anh em sẽ được mão triều thiên vinh hiển chẳng hề tàn héo "(IPhi 5:4).

d. Chiên Phải Theo Đấng Chăn Chiên Trưởng Của Chúng.

Như đã đề cập ở trên, nan đề không chỉ liên quan đến người chăn, mà còn liên quan đến chiên. Chiên thường tìm kiếm sự vinh hiển cho chúng bằng cách chạy theo những người lãnh đạo có chức vụ nổi bậc. Thái độ kiêu ngạo này sanh ra tư tưởng bè phái và sự chia rẽ.

Phao Lô đã quở mắng những tín hữu tại Côrinhtô về điều này: "...Trong anh em có sự tranh cạnh... anh em mỗi người nói như vầy: Ta là môn đồ của PhaoLô, ta là của Apôlô, ta là của Shêpha (phierơ)...Đấng Christ bị phân rẽ ra sao? Có phải PhaoLô đã chịu đóng đinh trên cây thập tự thế cho anh em hay là anh em đã nhơn danh PhaoLô mà chịu báptem sao? "(ICôr 1:11-13).

PhaoLô đã nghiêm khắc nhắc nhở Hội Thánh Côrinhtô rằng họ chỉ thuộc về một Đấng đã trả giá cho họ. "...có phải PhaoLô đã chịu đóng đinh trên thập tự giá cho anh em? ". Câu trả lời hoàn toàn rõ ràng, KHÔNG! Phaolô không chết thế cho họ mà là Đấng Christ. Vì vậy, họ chỉ thuộc về Ngài và chỉ nên theo một mình Ngài.

Thật là đáng buồn cho những ai lìa bỏ Đấng Christ để chạy theo những người chăn thứ.

PhaoLô đã nói với Hội Thánh Côrinhtô rằng: "Tôi lấy sữa nuôi anh em chớ chẳng lấy đồ ăn cứng, vì anh em không chịu nỗi; đến bây giờ cũng chưa chịu được, vì anh em hãy còn thuộc về xác thịt.

"Thật bởi trong anh em có sự ghen ghét tranh cạnh, anh em há chẳng phải là tánh xác thịt ăn ở như người thế gian sao? Có người thì nói rằng: Ta là môn đồ của Phaolô, kẻ thì nói rằng: Ta là của Apôlô, vậy anh em há chẳng phải là người cũng như kẻ khác sao?

"Thế thì, Apôlô là ai? Phaolô là ai? Ấy là kẻ tôi tớ mà bởi kẻ đó anh em đã tin cậy, y theo Chúa đã ban cho mọi người. Vậy, người trồng kẻ tưới đều không ra gì, song Đức Chúa Trời là Đấng làm cho lớn lên "(ICôr 3:2-5, 7).

C. CHÚNG TA LÀ CHIÊN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Hình ảnh ngụ ngôn sau cho chúng ta thấy mối liên hệ giữa người chăn chiên trưởng và chiên. Chúa Jêsus là Đấng chăn chiên trưởng và chúng ta là chiên của Ngài. (Phải nhớ rằng chúng ta phải lánh xa những người tuyên bố rằng chiên là của họ).

1. Bầy Phải Được Nhóm Hiệp Lại.

Chúng ta đọc về câu chuyện của GiaCốp lần đầu tiên gặp Rachên, con gái của Laban trong Sáng thế ký.

"Giacốp hỏi mấy tay chăn chiên rằng: Hỡi các anh, các anh ở đâu đây? Bọn đó đáp rằng: Chúng tôi ở Charan đến. Người hỏi: Các anh có biết Laban con trai Nacô chăng? Đáp rằng: chúng tôi biết. Lại hỏi: Người có được mạnh giỏi chăng? Đáp rằng người vẫn được mạnh giỏi, và nầy Rachên, con gái người đang đi đến cùng bầy chiên kia.

"Người nói: Nầy, trời hãy còn sớm, chưa phải là giờ nhóm hiệp các súc vật, vậy các anh hãy cho bầy chiên uống nước, rồi thả đi ăn lại đi. Đáp rằng chúng tôi làm như vậy chẳng được, phải đợi các bầy hiệp lại đủ hết rồi, bấy giờ mới lăn hòn đá trên miệng giếng ra, cho bầy uống nước được. Vả, đương lúc người còn nói chuyện cùng bọn đó, thì Rachên dắt bầy chiên của cha nàng đến, vì nàng vốn là người chăn chiên "(Sáng 29:4-9).

Đây là câu chuyện về cuộc hành trình đầu tiên của GiaCốp khi ông gặp những người chăn chiên và con gái của LaBan đang dẫn chiên đến. GiaCốp đề nghị giúp đỡ nhưng họ nói rằng trước hết các bầy phải được nhóm hiệp lại rồi mới cho uống nước.

Bạn có biết điều gì đang ngăn cản chiên của Đức Chúa Trời được cho uống nước không? Bởi vì các kẻ chăn chiên thứ không đem bầy chiên lại với nhau. Họ giữ chiên lại cho họ. Theo câu chuyện này họ không thừa nhận quyền của Laban trên bầy chiên.

Rachên giữ chiên cho cha nàng. Mặc dầu nàng là một người chăn chiên, nàng vẫn thừa nhận chiên thuộc về cha mình. Những người lãnh đạo phải làm như vậy.

Bạn sẽ không thấy nước được đổ ra cho đến khi những người chăn chiên thứ mang bầy chiên lại với nhau trong sự thừa nhận quyền của Đức Chúa Trời trên chiên.

2. Đức Chúa Trời Ban Phước Khi Có Sự Hiệp Một.

Bất cứ khi nào bạn nhận thấy rằng bầy của Đức Chúa Trời được mang lại cùng nhau bạn sẽ thấy phước hạnh của Đức Chúa Trời được đổ xuống. Khi bạn đi dự những cuộc họp do nhiều Hội Thánh tổ chức, đó là những cuộc hội họp dưới sự lãnh đạo của Đức Chúa Trời, và bạn sẽ thấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời tại đó.

Đức Chúa Trời bắt đầu tuôn đổ một sự tươi mới của Thánh Linh Ngài vào năm 1966-67, đặc điểm của buổi nhóm là người Tin Lành và người Công giáo tiến đến cùng nhau. Trong những buổi nhóm như vậy tại những nơi mà họ có thể tập trung cả hai. Đức Chúa Trời đã tuôn đổ phước hạnh của Ngài như mưa dào.

Nhưng về sau, điều này không còn xảy ra mạnh mẽ nữa. Bức tường của sự chia rẽ bị xây cao lên lại, và giữa các tín hữu có sự xa lánh nhau bởi vì những người lãnh đạo e ngại rằng các tín hữu của họ sẽ làm việc với những người ở ngoài giáo phái của họ.

Chỉ khi nào chúng ta ăn năn và từ bỏ khuynh hướng tôn sùng giáo phái của mình thì Đức Chúa Trời sẽ tuôn đổ một phong trào phục hưng, còn nếu không chúng ta sẽ thấy Đức Chúa Trời hoàn toàn cất phước hạnh đó khỏi các Hội Thánh. Đức Chúa Trời sẽ lại tuôn đổ phước hạnh của Ngài nếu chúng ta ăn năn khuynh hướng xác thịt, kém trưởng thành và phân rẽ (thần tượng giáo phái của mình). Đức Chúa Trời sẽ dấy những người khác lên nếu chúng ta không hòa hiệp nhau trong sự hiệp một và tình yêu thương. Ngài muốn đem chiên lại với nhau và lăn hòn đá đi để chiên uống nước.

Hãy thừa nhận quyền của Đức Chúa Trời trên chiên. Hãy thừa nhận khẩu hiệu của Đức Chúa Trời cho chúng ta là yêu thương. Hãy nhận biết rằng khi chúng ta hòa hiệp nhau dưới sự dẫn dắt của Ngài, thì Ngài sẽ làm cho chúng ta lớn lên về mặt tâm linh cũng như về số lượng bởi những phước hạnh dư dật của Ngài.

Khi GiaCốp gần chết, ông đã nói tiên tri rằng: "Cây phủ việt chẳng hề rời khỏi Giu đa, kẻ lập pháp không dứt khỏi chơn nó, cho đến chừng Đấng SiLô (Một danh hiệu khác của Chúa Jêsus) hiện tới, và các dân phục Đấng đó "(49:10). Khi chúng ta chạy đến với Ngài, hòn đá sẽ được lăn ra, nước sẽ sẵn sàng, và chiên sẽ thỏa mãn cơn khát.

Có lẽ lời của Ghêđêôn khi đã cao tuổi là rõ ràng nhất: "Bấy giờ những người Ysơraên nói cùng Ghêđêôn rằng: xin ông, con trai và cháu ông sẽ quản trị chúng tôi, vì ông đã giải cứu chúng tôi khỏi tay dân Mađian. Nhưng Ghêđêôn đáp cùng chúng rằng: Ta chẳng quản trị các ngươi, con trai ta cũng không quản trị các ngươi đâu; ĐỨC GIÊHÔVA SẼ QUẢN TRỊ CÁC NGƯƠI. "(Quan 8:22, 23).

Mọi người lãnh đạo nên bắt chước thái độ của Ghêđêôn. Đó là thái độ đúng đắn. Hãy đi theo những người lãnh đạo như vậy. Chúng ta là chiên của Đức Chúa Trời đã được trả giá, chúng ta không thuộc về chính mình nữa, cũng không thuộc về một ai khác, nhưng chỉ thuộc về một mình Đức Chúa Trời.