Màn trại\ Tent. Tente.

Người châu Á xưa phần nhiều ở màn trại (Sáng 4:20). Vì họ làm nghề chăn nuôi, phải tìm cỏ cho súc vật, nên chỗ ở không có nhất định, phải dời đổi luôn (Ês 38:12). Màn trại của người Hê-bơ-rơ xưa là thứ vải dệt bằng lông chiên hoặc gai mịn. Khi đóng trại thì đóng chín cây nọc và chia làm ba đường. "Mỗi bức màn bề dài hai mươi tám thước, bề rộng bốn thước". Lấy dây buộc màn rồi cột vào nọc (Xuất 26:2; Quan 4:21; Ês 54:2; Giê 4:20). Lại chia màn trại làm hai căn, treo một bức màn ở ba cây nọc hàng giữa: căn trước có thể tùy ý ra vào; căn sau là nơi gia quyến ở riêng (Nhã 3:4; Quan 15:1). Cựu Ước thường nói đến nhà, nhưng đó chính là màn trại (Quan 7:8; IISa 20:1; IICác 8:21). Kinh Thánh lấy trời xanh và nơi thánh làm ví dụ về trại của Đức Chúa Trời (Thi 61:4; 84:1; 104:2; Ês 40:22). Thân người ví như nhà tạm của linh hồn, khi chết thì nhà tạm đó đổ nát (IICôr 5:1; IIPhi 1:13). Phao-lô và A-qui-la đều làm nghề may trại (Công 18:3).