Lưới\ Net. Filet.

I. Thứ người đàn bà dùng để bao tóc trong Ês 3:18.

II. Người Do-thái thường dùng lưới để săn thú rừng, bẫy chim và bắt cá. Lưới dùng bẫy chim có hai nửa vòng hoặc khung có mắc lưới, buộc vào một trục ở giữa. Khi lưới căng ra thì mở bằng phẳng; mồi thì để ở giữa. Khi chim động đến mồi thì dây bèn tuột ra, hai bên lưới đóng ập lại và chim bị bắt. Lưới cũng dùng để săn (Ês 42:22). Trong cuộc săn, người ta tung lưới (Gióp 19:6), hoặc đặt ở dưới chân (Thi 9:15; 25:15; 57:6; Ca 1:13). Người ta căng lưới trên những cọc, vây lấy một khoảng đất rộng chỉ để một chỗ trống làm cửa vào. Tại cửa đó người ta thả thỏ, heo, nai, v.v.... Có những lưới nhỏ chắn ngang khe hoặc bụi cây. Còn những lưới hình như cái túi căng ra để thú vật chạy vào như vô một hầm mà không tìm được lối ra nữa. Khi đánh cá, người ta dùng lưới kéo (Ha 1:15; Mat 13:47-48) lưới quăng (Mat 4:18; Giăng 21:6). Người Hê-bơ-rơ cũng quen dùng thứ lưới kéo của người Ai-cập (Ês 19:8). Lưới đó rất rộng. Kết bằng gai, phía dưới có cột những cục chì để nhận chìm xuống đáy sông hay biển, còn phía trên thì nổi lềnh bềnh bởi những phao gỗ.

Kinh Thánh hay dùng lưới làm thí dụ về người gian giảo, quỉ quyệt (Truyền Đạo 7:26; Châm 1:17; Ha 1:15-16). Trong Châm 1:17 cắt nghĩa "giăng lưới ra trước mặt loài có cánh lấy làm luống công thay" vì chim thấy tất đề phòng; vậy thanh niên được cảnh cáo bởi lời Chúa, linh hồn bay bổng hướng về trời bởi cánh sợ hãi, đức tin và yêu mến Chúa, như chim bay lên cao, nhờ đó tránh được lưới kẻ căng ra mà "chánh những kẻ ấy thật phục mưu làm đổ huyết mình ra" (1:18). Lưới cũng hình bóng về sự báo trả của Đức Chúa Trời bủa xuống thình lình trên tội nhân trong lúc không ai ngờ (Ca 1:13; Êxê 12:13; Ôs 7:12).