Lê-vi ký, Sách\ Leviticus. Le Lévitique.

Nguyên bản Hê-bơ-rơ vốn gọi là "Pháp luật của các thầy tế lễ", sau lấy tiếng đứng đầu là Wayyikrã' mà nguyên bản Hy-lạp (Septante) dịch là Leuitikón tức là Léviticum theo bản Vulgate, ấy là theo tài liệu trong sách. Lê-vi ký là sách thứ ba của Ngũ-kinh Môi-se, là luật lệ mà "Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se tại trên núi Si-na-i khi Ngài dặn biểu dân Y-sơ-ra-ên dâng của lễ mình cho Đức Giê-hô-va trong Đồng vắng Si-na-i (Lê 7:38). Chúa ban luật lệ nầy trong khoảng giữa ngày dựng đền tạm và ngày bỏ núi Si-na-i tức là giữa mồng một tháng giêng năm thứ II và ngày hai mươi tháng hai năm thứ II từ Xuất Ê-díp-tô (Xuất 40:2, 17; Dân 10:11).

Khi đã dựng Đền tạm và cử thầy tế lễ lo việc bàn thờ rồi, bước thứ hai là phải mở và dọn đường đến cùng Đức Chúa Trời. Ấy là mục đích chép các luật lệ trong sách Lê-vi ký nầy. Như Đức Giê-hô-va nhờ Đền tạm đến cùng Y-sơ-ra-ên, cũng vậy, Y-sơ-ra-ên nhờ của lễ đến cùng Đức Giê-hô-va.

Trong thời đó, để đến gần Đức Giê-hô-va phải:

1. Phải dâng của lễ; vì thế mà sách đã chép những luật lệ về những thứ của lễ ấy (1:1- -7:1-).

2. Phải nhờ thầy tế lễ mà Chúa đã phong chức cho, để dâng của lễ; bởi đó chép về A-rôn và các con được phong chức, và chép truyện về Na-đáp và A-bi-hu vì cớ trái lệ luật đến cùng Chúa thì bị chết thiêu (8:1- -10:1-).

3. Để được đến gần Đức Chúa Trời và được giao thông với Ngài, phải thanh sạch cả về phần lễ nghi lẫn đạo đức, vì thế mà trong sách có chép:

a) Chép những luật về đồ ăn không sạch, những tật bệnh với những sự của người nam và nữ làm cho ô uế, và chép về lễ làm cho cả dân sự được tinh sạch (11:1--16:1-).

b) Dầu dường như cuối 26:1- là hết sách, nhưng có một đoạn phụ thêm về lời khẩn nguyện, thuế phần mười, và những điều biệt ra thánh cho Chúa (27:1-).

Thời lập pháp nầy là khi "Đức Giê-hô-va từ trong hội mạc gọi Môi-se mà phán" (1:1); và nơi chỉ định trong mỗi phần lớn là tại núi Si-na-i trong đồng vắng (7:38 với Lê 13:46; Lê 14:8, 34; Lê 16:1; Lê 17:3; Lê 18:3; Lê 19:23; Lê 4:12, 21; Lê 8:17; Lê 10:4; Lê 25:1; Lê 26:46; Lê 20:22; Lê 23:10; Lê 24:10 và Lê 27:34). Thỉnh thoảng chép lại một luật, song có sự can thiệp mới và một mục đích khác. Có khi cũng chép các biến động xảy ra xen vào giữa những luật lệ (Lê 8:1-; Lê 9:1-; Lê 10:1-7, Lê 12:1--20:1-; Lê 21:24; Lê 24:10-23). Bởi thế, đủ biết những điều lệ về sự thờ phượng và cách ăn ở của dân sự được chép ngay khi xảy ra, và không có ý sắp đặt theo trật tự.

Theo dõi suốt cả sách, chỉ có một nơi thánh (19:21, v.v...) và một bàn thờ cho dân Y-sơ-ra-ên được công nhận (Lê 1:3; Lê 8:3; Lê 17:8-9). Và chỉ các con trai A-rôn hành chức tế lễ (Lê 1:5). Người Lê-vi chỉ được nói đến ít mà thôi (Lê 25:32-33). Những sự chép khác nhau về luật lệ trong Lê-vi ký và sách Phục truyền luật lệ ký có thể hiểu như sau:

1. Lê-vi ký là một sách gồm các điều lệ giành cho các thầy tế lễ khi cử hành các lễ nghi; còn sách Phục truyền luật lệ ký trước nhứt không phải là sách luật lệ song là một bài chung dạy dỗ dân sự về những bổn phận và khuyên phải trung tín. Vả lại, sách Phục truyền luật lệ ký không nói đến những sự riêng thuộc các thầy tế lễ.

2. Những luật lệ chép trong sách Lê-vi ký đã được nhận tại Si-na-i trọn một đời, trước những bài giảng tại Sít-tim bên kia sông Giô-đanh, chép trong sách Phục truyền luật lệ ký. Vậy, sách Phục truyền luật lệ ký cũng có được nhắc đến nhờ những luật lệ chép trong sách Lê-vi ký. Ấy cũng theo trật tự đặt trong Kinh Thánh.

Những điều cốt yếu của luật lệ chép trong Lê-vi ký cũng được phản chiếu trong lịch sử của chức tế lễ nhà A-rôn sớm được công nhận. Theo chứng cớ đủ biết chỉ các con cháu A-rôn có thể lãnh chức tế lễ (Phục 10:6; Giô 14:1; Giô 21:4, 13 với ICác 2:26; Quan 20:27-28; ISa 1:3; ISa 2:27-28; ISa 14:3; ISa 21:6 với ISử 24:3; ISa 22:10, 11, 20; ISa 23:6; và IISa 8:17 với Exơ 7:2 và ISử 24:3). Nên chú ý: người Lê-vi là người kiều ngụ và hay phục tòng (Quan 17:7-9; Quan 19:1; ISa 6:15; IISa 15:24) chỉ có một đền cho Đức Giê-hô-va (Quan 18:31; Quan 19:18; ISa 1:7, 24; 3:3; 4:3), và một lễ cho Đức Giê-hô-va trong đền tại Si-lô mà cả dân Y-sơ-ra-ên đến (Quan 21:19; ISa 1:3; 2:14, 22, 29).

Những luật lệ trong sách Lê-vi ký đã được giải nghĩa như sau: 1. Luật lệ Lê-vi ký, dầu tạm thời, song là theo ý muốn Đức Chúa Trời. Lê-vi ký là một bước tấn tới rất cần trong sự mở mang đạo thật. Trong Cựu Ước không đi qua bước đó. Trong những sự hiện thấy về tương lai của Cựu Ước, các tiên tri đứng đầu hàng cũng chép về Đền thờ, các của lễ, các lễ thánh v.v.... Luật lệ chép trong Lê-vi ký về cách thờ phượng Chúa chỉ như cái vỏ ngoài bao một lớp thịt ở trong. Cho đến thời Tân Ước vỏ và thịt vẫn hiệp không phân rẽ. Song đạo Đấng Christ đã lột bỏ lớp vỏ ngoài đó sau khi thịt ở trong đã được chín, tức dạy rằng "Giờ... đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng" (Giăng 4:20-24). Vậy, phải nhớ dầu Lê-vi ký thật chép nhiều về luật lệ mà tín đồ Đấng Christ nay không cần giữ nữa (Xem Công 10:15; 21:17; Rô 14:1; ICôr 19:9), song cũng có tư tưởng thuộc linh rất cao trọng nữa. Như 19:18 chép: "Hãy yêu thương kể lân cận ngươi như mình", và trong câu 33 kể cả "khách kiều ngụ" nữa mà chính Chúa Jêsus phán là điều răn thứ hai (Mat 22:39). Lại như 19:17 chép: "Chớ có lòng ghen ghét anh em mình, chớ toan báo thù". Ấy thật giống đạo Đấng Christ! Dầu Phao-lô nhất quyết cho rằng không có thể được cứu bởi luật pháp, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng trong luật pháp có bày tỏ ý muốn của Đức Chúa Trời (Rô 8:3), và xưng rằng Chúa Jêsus được sai đến để cho những sự luật pháp đòi nơi tín đồ có thể được ứng nghiệm. Như trong Rô 13:10 Phao-lô chép: "yêu thương là sự làm trọn luật pháp", và Rô 7:2 "Luật pháp là thánh, công bình và tốt lành".

2. Luật lệ dọn đường giúp sự hiểu đạo Đấng Christ, tức công việc ngôi vị và mục đích của Chúa Jêsus. Xuất 25:8; 29:45; 40:34 chép có sự hiện diện Chúa trong Đền thánh, ấy là tiên tri về Đức Chúa Trời sẽ ngự trong Đức Chúa Jêsus Christ (Giăng 1:14) sẽ ngự trong Hội Thánh bởi Đức Thánh Linh (IIPhi 2:5), và trong tín đồ (ICôr 3:16; 6:19; IICôr 6:16; Giăng 14:23). Nhờ những của lễ chép trong Lê 1:1--7:1-, và những mạng lệnh của ngày đại lễ chuộc tội (16:1-), ta có thể hiểu biết tính cách của tội lỗi, ân điển và sự tha tội. Chúa Jêsus, Phao-lô, và trước giả mấy sách Tân Ước khác, nhứt là thơ Hê-bơ-rơ, trích từ Lê-vi ký ghi về chức vụ của thầy tế lễ, các của lễ, lễ chuộc tội, lễ Vượt qua, nghĩa của huyết, v.v... mà tỏ ra có nghĩa bóng thuộc linh cao trọng hơn. Phao-lô chép đúng khi nói sự công bình Chúa đã được nói trước chẳng những bởi các lời tiên tri và cũng bởi luật pháp nữa (Rô 3:21). IIPhi 1:16 trích Lê 11:44 "Hãy nên thánh vì ta là thánh"; song sự thánh khiết trong Tân Ước không bị bó buộc về sự ăn uống, theo mùa và ở nơi nào (Giăng 4:20-24; Công 10:1-; 15:1-). Thi 89:15 chỉ về năm hân hỉ chép trong Lê-vi ký. Những Hình bóng trong Lê-vi ký dầu đã được trọn một phần rồi song nó được rõ ràng hơn khi đến "kỳ muôn vật đổi mới" (Mat 19:28; Công 3:21), và kỳ "muôn vật được giải cứu khỏi làm tôi sự hư nát để dự phần trong sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời" tức là "sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy" (Rô 8:19, 23).

3. Luật lệ là giáo sư dẫn đến Đấng Christ. Cuối cùng lễ nghi theo luật pháp cũng có mục đích che chở Y-sơ-ra-ên khỏi những sự sai lầm của dân ngoai. Ấy tỏ rõ trong luật pháp của sự thánh khiết (Lê 18:3, 24; 19:26; 20:2, 22; 26:1), và hiệp với thời kỳ sơ học của Y-sơ-ra-ên trong Cựu Ước khi còn cần một giáo sư dẫn đến Đấng Christ (Ga 3:23; 4:1).

4. Ý nghĩa luật lệ về mặt trái. Chính luật lệ và điều răn là thánh khiết, công bình và tốt lành (Rô 7:12), song vì xác thịt hay phạm tội, nên luật pháp đã trở thành bất lực (Rô 8:3). Vậy, luật pháp là cớ phạm tội, và dẫn đến sự biết tội và thêm nữa (Rô 3:20; 4:15; 5:20; 7:13). Ấy sẽ xảy ra tùy theo ý định Chúa, hầu cho những lòng ngay thẳng ước ao được tha thứ. Mà thật vậy, trừ ra những chi tiết nhỏ nhặt của luật pháp, không có gì tốt hơn để đánh thức trí khôn người nào chưa vâng phục những mạng lịnh Ngài. Về sự khỏi mắc lỗi đó, chỉ cần những tiểu ti của luật lệ để khiến người biết những sự thiếu thốn mình (Hêb 7:1--10:1-). Chỉ nhờ ân điển, Chúa tạm ưng thuận cho người lấy huyết dê đực, bò đực để chuộc tội; song lúc đó Ngài đã kể đến sự tha tội trong Đấng Christ rồi (Rô 3:25). Mọi của lễ trong Lê 1:1--7:1- không thể làm cho lễ chuộc tội trong Lê 16:1- là thừa, và mọi người đem của lễ nầy cũng là người phạm tội nên rất cần phải nhờ Chúa tha tội cho mình. Chỉ Chúa Jêsus, là Thầy tế lễ và của lễ trọn vẹn, đã thực hiện việc cứu chuộc cách trọn vẹn. Bởi đó, chỉ có thể bởi lòng tin đến Chúa Jêsus được xưng là công bình trước mặt Đức Chúa Trời, chớ không phải bởi việc của luật pháp. Vì không được trọn vẹn và vì đánh thức người biết tội, nên luật pháp thúc giục người đến cùng Chúa Jêsus. Nhưng vì đã làm trọn những điều luật pháp đòi, Chúa Jêsus bởi Thần Ngài ban cho tín đồ có quyền hầu cho luật pháp với những sự đòi của nó không có thể ngăm đe nữa, song được ghi nhớ trong lòng. Bởi vậy, luật pháp Cựu Ước về phần tạm thời đã được ứng nghiệm, và cũng trở nên thừa sau khi đã được công nhận, gìn giữ, và bị bỏ qua.

Tiến sĩ Scofield viết về Lê-vi ký như sau nầy:

Tiểu dẫn.-- Lê-vi ký liên quan với Xuất Ê-díp-tô ký giống như các thơ tín liên quan với bốn sách Tin lành. Xuất Ê-díp-tô ký thuật lại sự cứu chuộc, và lập nền tảng của sự tẩy sạch, thờ phượng và hầu việc của dân sự đã được cứu chuộc rồi. Lê-vi ký thuật lại cụ thể cách thức hầu việc và thờ phượng của dân sự đó. Trong Xuất Ê-díp-tô ký Đức Chúa Trời phán ra từ núi mà cấm không ai được đến gần; trong Lê-vi ký Chúa phán ra từ Hội mạc là nơi Chúa ngự giữa dân sự Ngài, và tỏ cho biết những điều hiệp với sự thánh khiết Ngài để được gần Ngài và giao thông với Ngài.

Chữ chìa khóa của Lê-vi ký là "Thánh khiết", chép 87 lần; câu chìa khóa là 19:2.

Lê-vi ký chia ra 9 phần lớn:

1. Những của lễ, 1:1- - 6:7.

2. Luật về của lễ, 6:8 - 7:38.

3. Dâng mình biệt riêng cho Chúa, 8:1 - 9:24.

4. Một gương răn dạy, 10:1-20.

5. Đức Chúa Trời thánh khiết đòi dân sự phải sạch tội, 11:1- -15:1-.

6. Lễ chuộc tội, 16:1- -17:1-.

7. Những điều quan trọng đối với dân sự Ngài, 18:1- - 22:1-.

8. Những lễ của Đức Giê-hô-va, 23:1-.

9. Những sự dạy biểu và khuyên răn, 24:1- - 27:1-.

1:2.-- Sự đặt tay trên con sinh nghĩa là công nhận và kể mình là một với của lễ mình. Ấy là hình bóng về tín đồ bởi đức tin nhận lấy và hiệp một với Đấng Christ (Rô 4:5; 6:3-11). Tín đồ được xưng công bình bởi đức tin và đức tin đó được kể là công bình cho người, ấy vì nhờ đức tin mà được hiệp một với Đấng Christ, là Đấng đã chết làm của lễ chuộc tội cho tín đồ (IICôr 5:21; IIPhi 2:24).

4:12.-- Cũng xem Xuất 29:14; Lê 16:27; Dân 19:3; Hêb 3:10-13. Khúc sau nầy giải nghĩa về "phải đem ra khỏi trại quân". "Trại quân" tức là Do-thái giáo: một tôn giáo gồm những nghi lễ bề ngoài. Chính mình Chúa Jêsus đã chịu khổ tại ngoài cửa thành (tức là giáo Do-thái về phần luật pháp và đạo đức) để lấy (hoặc bởi) huyết mình làm cho dân nên thánh (tức là biệt riêng ra cho Chúa) Hêb 13:12. Ấy thế nào làm cho dân nên thánh hoặc biệt riêng ra? "Hãy ra ngoài trại quân (lúc đó là giáo Do-thái, nay là sự gì về tôn giáo chối Ngài là của lễ chuộc tội), đăng đi tới cùng Ngài" (Hêb 13:13). Thân thể con sinh làm của lễ chuộc tội, "đốt đi bên ngoài trại quân", có nghĩa là sự chết của Đấng Christ. Vậy, thập tự giá trở nên một bàn thờ mới trong một nơi mới là nơi các người được chuộc nhóm họp như là tín đồ, tế lễ để dâng của lễ thuộc linh dầu trong mình không có công đức gì (Hêb 13:15; IIPhi 2:5). Những xác con sinh chuộc tội đó bị đốt đi bên ngoài trại quân, vì đầy dẫy tội lỗi và không xứng đáng trong một trại quân thánh. Trái lại, một trại quân không thánh thì không xứng đáng cho một của lễ chuộc tội thánh. Thân thể chết của Chúa chúng ta không đầy dẫy tội lỗi, dầu tạm đã mang tội lỗi ta (IIPhi 2:24).

5:6.-- Trong câu nầy lễ mắc tội chỉ về sự thiệt hại của tội đó hơn là về chính tội -- ấy là một mặt về của lễ chuộc tội. Những quyền lợi của Chúa trong mỗi người đòi sự đó. Thi 51:4 tỏ ý đó cách trọn vẹn.

8:2.-- Các thầy tế lễ không phải tự biệt riêng mình ra cho Chúa, ấy là việc người khác, tức là Môi-se thế cho Đức Giê-hô-va. Các thầy tế lễ chỉ dâng thân thể mình theo ý nghĩa Rô 12:1.

11:2.-- Những điều lệ về đồ ăn của dân sự lập giao ước với Chúa phải được chú trọng về vệ sinh trước nhất. Nên nhớ Y-sơ-ra-ên là một dân tộc sống dưới quyền Chúa cai trị. Như vậy, cần có luật của Chúa lo về phần xã hội cũng như lo về đời sống thuộc linh của dân đó. Nếu cứ phải dùng ý bóng để cắt nghĩa mọi lời trong điều lệ, thì khó giải nghĩa ICôr 10:1-11 và Hêb 9:23-24 một cách phải lẽ.

14:4.-- Hai con chim, một bị giết, một để sống nhúng trong huyết và thả đi, chỉ về hai mặt của sự cứu rỗi trong Rô 4:25; "nộp vì tội lỗi chúng ta, và sống lại vì sự xưng công bình của chúng ta".

14:5.-- Chậu sành nghĩa bóng về nhân tánh Đấng Christ, như nước đang chảy, nghĩa bóng về Đức Thánh Linh tức là "Thánh Linh sự sống" (Rô 8:2): "về phần xác thịt thì Ngài đã chịu chết, nhưng về phần linh hồn thì được sống" (IIPhi 3:18).

16:18.-- Về phần thời đại đối với Y-sơ-ra-ên ấy còn thuộc tương lai; thầy cả thượng phẩm còn trong nơi chí thánh. Khi Chúa đi ra đến cùng dân sự xưa của Ngài thì dân đó mới tin Ngài mà được cứu (Rô 11:23-27; Xa 12:10, 12; 13:1; Khải 1:7). Trong khi chờ đợi, các tín đồ của thời đại nầy như thầy tế lễ (IIPhi 2:9) được vào nơi chí thánh có Chúa ngự (Hêb 10:19-22).

17:11.-- a) Giá trị của "sanh mạng" cao bao nhiêu thì giá trị của "huyết" cũng cao bấy nhiêu. Bởi đó huyết Đấng Christ có giá quí không kể được. Khi đổ ra thì Đấng vừa là Đức Chúa Trời vừa là người phó sự sống mình. "Vì huyết của bò đực và dê đực không thể cất tội lỗi đi được" (Hêb 10:4).

b) Không phải huyết trong mạch con sinh, song huyết trên bàn thờ mới có linh nghiệm. Kinh Thánh không chép về sự cứu rỗi bởi sự bắt chước hay ảnh hưởng của sự sống Đấng Christ, song chỉ chép về sự cứu rỗi được bởi sự sống phó đi trên cậy thập tự.